Lý lịch Ðức Giêsu Kitô

[LTS:”Phúc cho những ai không thấy mà vẫn tin” (Ga 20, 29).

Bởi lẽ “Đức tin là phương  cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là  đường lối nhận thức những thực tại ta không thấy”  (Dt 11, 1); thực thế: “Nếu đã xem thấy điều mình hy  vọng sẽ được, thì không còn phải là hy vọng  nữa; vì điều đã thấy được, nào ai còn hy vọng  làm chi nữa!” (Rm 8, 24). “Đấng khơi nguồn…  đức tin” (Dt 12, 2) là Đức Giêsu Kitô; Ngài cũng  chính là nền tảng của đức tin.

 

Vậy nếu khoa học loài người thấy được trọn, hiểu  được hết con người – Con Người Chúa – nơi Ngài,  thì đâu còn cần đến niềm tin vào một Đức Giêsu Kitô!  Cốt tủy cuộc đời Đức Giêsu là mầu nhiệm: mầu  nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể Làm Người. Đức tin kitô  dựa trên một nền tảng khác, khác với những gì là  kiên cố nhất trong các khoa học vững chãi, trong các  sự kiện lịch sử chắc chắn nhất của loài người.  Đức tin kitô vượt lên trên tất cả những hoa xinh quả  đẹp của trí tuệ loài người. Chúng ta không biết  đến cũng như không tin vào một con người Giêsu  đơn thuần lịch sử . Chúng ta tin vào Con Người  Thiên Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, Con Một của  Thiên Chúa Hằng Sống. Chúng ta yêu mến Ngài, và ước  muốn tìm biết cho thật rõ, cho thật chính xác về Ngài,  về Con Người mình kính thương, ngay cả đến những  chi tiết nhỏ nhặt nhất trong chuỗi ngày Ngài  làm người sống trên dương thế, ở giữa dòng  lịch sử này của loài người. Đây là  điểm mà các khoa học của trí tuệ con người – đặc  biệt là các ngành sử học, khảo cổ, chú giải  theo phương pháp phê bình lịch sử… – có thể giúp chúng  ta: giúp bổ túc những gì chúng ta hiểu biết cho chắc chắn,  cho đích xác về các chi tiết liên quan đến con người lịch  sử của Đức Giêsu. Tuy nhiên, nếu chưa biết rõ  và chắc hết được các chi tiết ấy, thì không phải  vì thế mà lòng tin thiếu đi nền móng! Cũng thiếu  chi kẻ biết nhiều, biết chắc mà lại không tin. Và  cũng rất có thể là việc biết thêm cho rõ ràng,  cho chắc chắn và đầy đủ sẽ giúp cho lòng tin  được sáng suốt, mạnh mẽ, linh động và có sức truyền  cảm hơn.

 

Có nhiều giả thiết được đề xuất trong các lãnh vực  này làm cho nhiều người kitô không yên lòng.  Dù giả thuyết hay là chính thuyết hoặc là những  phát hiện chắc chắn một trăm phần trăm xem ra đi ngược với  lề lối tin yêu của người kitô, thì cũng không  có gì là phải sợ cả. Dựa vào Đức Giêsu  Kitô, Giáo Hội không bao giờ sợ chân lý – chân  lý đích thực; ngược lại, Giáo Hội xác tín về lời dạy  của Thầy mình: “Chân lý sẽ giải thoát các  con” (Ga 8, 32), và Lời của Thiên Chúa dạy phải  biết “vâng phục sự thật” (1Pr 1, 22) và “bước  đi trong sự thật” (3Ga 4). Giáo Hội và người kitô  – không những không sợ, mà còn – tha thiết yêu  mến sự thật nữa, vì Đức Giêsu Kitô chính là  sự thật (xem Ga 14, 6), và Ngài “đã đến trong  thế gian … để làm chứng cho sự thật. Phàm ai thuộc  về sự thật, thì nghe tiếng…” (Ga 18, 37; xem Ep 4, 21) của  Ngài. Đi tìm và nhận ra sự thật là một cách nào  đó, khoa học đi tìm và nhận ra chính Đức Giêsu Kitô. Vì  lẽ đó, Giáo Hội và người kitô không những  không sợ, mà còn yêu thích và đẩy mạnh khoa học  nữa.

 

Chúng tôi thầm nghĩ: những thiển kiến trên đây cũng  là tâm tư, cũng là những gì đã mạnh mẽ  thối thúc tác giả nghiên cứu và đưa ra cống hiến  độc giả bài viết sau đây. NTM]

 

 Joses Vũ xuân Huyên

 

Đức Giêsu là một trong những nhân vật nổi bật nhất trong giòng lịch sử nhân loại, có tầm ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống tâm linh và văn hóa của  hàng tỷ người [1] . Vì thế, làm sao biết  rõ được “lý lịch” của Ngài: đó là một  trong những khát vọng sâu xa của nhiều người qua nhiều thời đại khác nhau. Trong ngành Thần học Kinh Thánh, các nhà chuyên môn đã và đang nỗ lực  tìm cho ra “bộ mặt thật” của Ngài, nói một cách khác, họ cố gắng tìm về một “Đức Giêsu nguyên thủy” (Original Jesus ).

 

Đức Giêsu Kitô –bản Tuyên tín ngắn gọn nhất của Giáo Hội sơ khai: Đức Giêsu là Đấng Kitô; rồi sau này  đã trở thành tên kép của Ngài. Tên này  xuất hiện rất sớm, nhưng thuở ban đầu thường được  viết ngược lại là (Đấng) Kitô Giêsu [2] –đã  bị đầu óc khoa học tách làm đôi: một đàng là  “con người” Giêsu, và một đàng là “Đấng”  Kitô. Con người Giêsu thuộc lịch sử, Đấng Kitô thuộc  Thần Học. Người ta cho rằng, biến cố phục sinh như một  vực thẳm sâu hun hút, không thể bắc cầu nối nhịp giữa hai bờ xa cách nổi: mặt “phải” và mặt “trái” của cùng một nhân vật. “Mặt trái” Giêsu và  “mặt phải” Kitô. “Giữa Đức Giêsu tiền phục sinh và hoàn cảnh hậu phục sinh là một nấm  mồ” (R. Bultmann). “Nhân vật Giêsu” đã được  đức tin và tín lý của Giáo Hội sơ khai cắt xén và  tô điểm khá nhiều, để “dựng đứng” nên một “Đấng Kitô”. Đấng Kitô ấy đã được “phong thần”, nên  không còn trung thực là một Giêsu như trước nữa.  Do đó, muốn tìm về một “Giêsu nguyên thủy”, thì  cần phải lo cạo cho sạch “lớp sơn” Tín lý đã  phủ bên ngoài đó đi. Rất may, khuynh hướng tách biệt  “Đức Giêsu lịch sử” với “Đức Kitô đức tin” đã dần dần mất đất đứng trong nền Thần học hiện nay.

 

Khuynh hướng này thực ra là đứa con của trào lưu “Thời đại ánh sáng” (Aufklaerung/siècle  des lumières) tại Âu Châu. Trào lưu này phát  triển mạnh trong thế kỷ 18, và có ảnh hưởng  cả tới ngành nghiên cứu Kinh Thánh; điển hình nhất phải kể đến việc khai sinh ra phương pháp phê bình lịch  sử trong ngành này. Theo phương pháp này, tất  cả những gì trước đó được coi là chân lý đều  phải đem ra đặt vấn đề và xét lại dưới ánh sáng của lịch sử, theo tiêu chuẩn xác thực của sử học, sau đó nếu cần, thì sẽ “sửa sai” những  gì được coi là chân lý. Thêm vào đó, người ta  còn áp dụng các phương pháp khác, như phê bình văn chương,  phê bình tài liệu, lịch sử hình thành và soạn  thảo các văn bản…, cũng như dựa vào các  khám phá của ngành khảo cổ, để soi sáng vấn đề.

 

Ban đầu, vấn đề nguồn gốc của Giáo Hội được đem ra đặt  lại. Người ta tự hỏi: Đức Giêsu có thực sự muốn  thiết lập Giáo Hội và có đứng ra thiết lập Giáo Hội  một cách trực tiếp không (như Mt 16, 18 cho biết), hay Giáo  Hội chỉ là “một tiến trình” (A. Voegtle) lịch sử của con người xã hội? Người ta cho rằng: Kitô  giáo chỉ mới khai sinh từ thời Giáo Hội xuất hiện,  chứ không phải từ thời Đức Giêsu (W. G. Kuemmel),  lý do rất đơn giản là vì chính Đức Giêsu cũng chưa  phải là một kitô hữu mà vẫn còn là một tín đồ trung thành của Do Thái giáo (R. Bultmann).[3] Nhưng sau  đó, vấn đề này lại đẻ ra thêm nhiều vấn đề khác:  Trước khi thắc mắc về Giáo Hội, thì tất phải thắc mắc  về chính Vị sáng lập Giáo Hội: Ngài là ai, sinh năm  nào, chết năm nào và hoạt động tại đậu, được  bao lâu?

 

Những người đầu tiên đã khơi ra vấn nạn này  là H. S. Reimarus (1694-1768), G. E. Lessing (1729-1781) rồi  đến D. F. Strauss (1808-1874) và J. Weiss (1863-1914). Cuộc  tranh luận đã đạt đến cao điểm vào thế kỷ 19;  nhưng đến đầu thế kỷ 20, thì A. Schweitzer (xem: Geschichte  der Leben-Jesu-Forschung, xuất bản lần đầu năm 1909) đã mường tượng được sự thất bại của nỗ lực này.  Còn đối với R. Bultmann (Jesus , 1926), thì dường như ông muốn “bỏ cuộc” và không còn tha  thiết bàn luận gì về Đức Giêsu lịch sử nữa. Ông  cho rằng không thể tìm về một Đức Giêsu đích thực trong một  quá khứ quá xa xôi như thế được; vì thế, hay nhất là  nên chấm dứt việc nghiên cứu về đề tài này luôn  cho gọn. G. Bornkamm trong cuốn sách xuất bản vào năm  1956 (Jesus von Nazareth ), cũng cho rằng hiện nay không  ai còn có khả năng viết lại lý lịch Đức Giêsu được  nữa; những gì đã viết ra – theo ông – chỉ là  sản phẩm của các nhà Thần học dệt thơ, hay là  sản phẩm của các nhà thơ cố nặn cho ra Thần học.  Thế nhưng, M. Dibelius (Jesus , 1939) vẫn hăng say tiếp  tục lần bước trên con đường nghiên cứu của người  xưa. Và sau này, còn có thêm E. Stauffer (1957) là  người có lẽ nhiệt thành nhất trong việc này.  Hiện nay, vẫn còn H. Conzelmann, G. Ebeling, E. Fuchs,  E. Kaesemann, J. Blank và W. Trilling tiếp tục nghiên cứu  theo chiều hướng ấy; rồi mới đây J. Gnilka, đã cho xuất  bản tập khảo luận công phu về Đức Giêsu, dày  331 trang (xem: phần tài liệu tham khảo dưới đây). Mới  nhất còn có một bài khảo cứu của J. Kremer,  “Wer war Jesus wirklich. Orientierungshilfe eines Bibelwissenschaft-lers,”  trong tạp chí Stimmen der Zeit số tháng 9/1991, tr. 579-596.

 

Hiện nay, số lượng sách báo bàn về vấn đề nói trên  đã gia tăng khủng khiếp. Nhất là sau khi khoa khảo  cổ khám phá ra hai “thư viện” tại Nag’ Hammadi (cạnh  sông Nil) vào năm 1945/46 và Qumran[4] vào  năm 1947, người ta lại đua nhau viết tiếp và đã  từng có dịp nuôi ảo vọng cắt nghĩa được hết những  vấn nạn chung quanh con người Đức Giêsu và giáo huấn  của Ngài. Ngay cả các nhà Thần học Do Thái  cũng bắt đầu lưu tâm tới Đức Giêsu. Sch. Ben-Chorin gọi  Ngài là “người anh em” (Bruder Jesus. Der  Nazarener in juedischer Sicht . Muenchen (1.)1967). Rồi những  người cộng sản hoặc vô thần cũng lao đầu vào  nghiên cứu, để khám phá thêm “sự thật” về nhân vật  Giêsu. Các nhà văn, nhà báo bị cuốn hút và “lạc  lối” vào trong lãnh vực này, cũng đã  viết nên những thiên tiểu thuyết tràng giang đại hải,  chọn Giêsu làm vai chính. Thí dụ, K. F. Bahrdt đã xuất  bản vào những năm 1784-1792, bộ “lý lịch Đức  Giêsu” dày 3.000 trang. K. H. Venturini đã xuất bản  vào những năm 1800-1802, một bộ tương tự với 2.700  trang. Trong bộ “kiếm hiệp” này, Venturini đã  tiểu thuyết hóa mối quan hệ thầy trò thành “mối  tình” giữa Đức Giêsu và Maria thành Magdala.  Cuốn phim “Cơn cám dỗ cuối cùng” (The last temptation  of Christ ) mới đây cũng chỉ là trò nhái lại  chuyện cũ của người xưa. Hiện nay, những sách  báo và phim ảnh thuộc loại này vẫn còn  nhan nhản trên các thị trường thương mại. Mới nhất  hiện nay phải kể đến cuốn phim “Giêsu thành Montréal”.  Còn về sách báo, thì tờ Le Monde , số ra ngày  13. 4. 1990, trong phần điểm sách năm qua, đã gọi năm 1989  là “Năm Giêsu” (année Jésus ). Phần lớn các  tác phẩm thuộc loại này thường dựa theo những  cái gọi là “khám phá” mới trong ngành nghiên  cứu (mà phần lớn chỉ đơn thuần là những giả  thuyết!) rồi phóng đại, tô màu cho thêm ăn khách. Trên  thực tế, chúng ăn khách thật – nhiều cuốn bán chạy như tôm  tươi (Bestseller ) và mang về những “món lợi”  khổng lồ cho kẻ viết – vì đã sẳn bị đầu độc, nhân  tâm ngày càng tỏ ra đa nghi hơn đối với các giáo  huấn truyền thống của Giáo Hội về Đức Giêsu. Trong kỷ  nguyên điện tử này, Đức Giêsu không còn bị đóng  đinh trên thập giá nữa, mà bị đóng đinh ở trong  các sách vở và phim ảnh đang tràn ngập thị  trường. Thực ra, các độc giả này muốn lột bỏ  cái mà họ gọi là huyền thoại (mythos ) về Đức  Giêsu, nhưng lại vô tình dấn bước đi tìm một Giêsu chỉ có  ở trong tưởng tượng. Phần lớn những loại sách  báo và phim ảnh này không có giá trị gì nhiều  về phương diện khoa học: chúng chỉ là những đứa con đẻ của mộng mơ mang thánh  hiệu Giêsu.  Ở đây, chúng ta không chủ ý lưu tâm  tới những “sản phẩm” loại này, mà chỉ  muốn dồn cả chú tâm vào những “kết quả”  của hơn 200 năm “nghiên cứu đứng đắn” vừa qua,  dựa trên nền tảng khoa học lịch sử. Theo H. Schlier  (Tin lành sau trở lại Công giáo), thì các nỗ lực  nghiên cứu này nhằm tới mục tiêu viết lên cuốn “Phúc  Âm thứ 5” sau 4 Phúc Âm chính thứ của Giáo  Hội. Còn A. Schweitzer thì cho đó là những kết quả  công đầu mà nền Thần học tại Đức, đã cống hiến  cho các nổ lực nghiên cứu đứng đắn ấy.

 

Trong bài này, nếu đôi khi có nêu lên một vài  giả thuyết “khác lạ” đối với niềm tin và những  hiểu biết thông thường về giáo lý, thì cũng chỉ là  nhằm mở rộng biên cương của vấn đề theo nhu cầu của  trí tuệ mà thôi, chứ không có nghĩa là tất yếu chúng  phản ánh niềm tin của người viết, hoặc là  nhất thiết bó buộc người đọc phải nhận. Vả lại,  đã gọi là “giả thuyết”, thì bao lâu chưa  chứng minh được là “thật”, thì bấy lâu vẫn  còn phải được coi là “giả”. Lẫn  lộn giữa “giả” và “thực” là  điều nguy hại: nguy hại cho chính mình trước khi gây thiệt hại  cho người khác. Vụ E. Drewermann hiện nay trong ngành  Thần học tại Đức, là một điển hình cho nhiều trường  hợp đã từng thấy xảy ra trong những thời  xưa.

     Với hơn 2 thế kỷ nỗ lực nghiên cứu, dù chưa (hoặc  không bao giờ) đạt đến mức độ chắc chắn trăm phần trăm,  công trình tìm hiểu nói trên không hẳn là vô giá trị,  vì nó đã cống hiến cho chúng ta một số kết quả tương  đối chính xác về “lý lịch” của Đức Giêsu, như sau:

 

0. ĐỨC GIÊSU LÀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH  SỬ HAY CHỈ  LÀ HUYỀN THOẠI ?

 

Vào thế kỷ 19, đã xẩy ra một cuộc tranh luận sôi  nổi do việc đặt lại vấn đề với câu hỏi này: Đức  Giêsu có thực sự sống trên trái đất này không (nhân  vật lịch sử) hay chỉ là hình ảnh thêu dệt của  người xưa (nhân vật huyền thoại)? (xem: B. Bauer, Christus  und die Caesaren . Tuebingen 1877).

 

Để biết về Đức Giêsu, thì cần phải căn cứ vào tất  cả các nguồn tài liệu nói về Ngài hoặc có chút  ít liên quan tới Ngài. Rất tiếc, như hầu hết các nhà  sáng lập tôn giáo thời bấy giờ, Ngài không viết  gì để lưu truyền lại cho hậu thế chúng ta. Phúc Âm Thánh  Gioan cho biết: chỉ có một lần Đức Giêsu đã viết,

 

Nguồn tài liệu chính thức về Chúa Giêsu là các Phúc  Âm và các Thánh Thư trong Tân Ước. Nhưng các nguồn  tài liệu này lại được ghi lại sau khi Đức Giêsu đã  lìa khỏi đời nầy hàng mấy chục năm. Thánh Phaolô  là người đầu tiên (Thư gửi giáo đoàn Thêxalônica  viết vào năm 50; Thư 1Cr viết vào khoảng năm 56)  đã viết về Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài,  nhưng chúng ta không biết chắc Phaolô có quen biết với con  người Giêsu bằng xương bằng thịt hay không; đồng thời,  trong các nguồn tài liệu do ngài cung cấp, ngài  không hề lưu ý tới “Đức Giêsu lịch sử”, mà  chỉ lưu ý tới “Đức Kitô” đã chịu tử nạn và  sống lại hiển vinh. Còn về các Phúc Âm, dù là  người đầu tiên đã khởi công viết Phúc Âm,  thì Máccô (không phải là Matthêu như người xưa  thường lầm tưởng), thì Máccô cũng đã bắt đầu  công việc ấy khá trễ, tức là vào những năm  60-70. Hơn nữa, ngài không phải là môn đệ trực  tiếp của Đức Giêsu, mà chỉ là môn đệ của  Thánh Phêrô. Các Phúc Âm khác còn được viết trễ  hơn: Phúc Âm Thánh Matthêu được viết khoảng năm 80.  Phúc Âm Thánh Luca (môn đệ của Phaolô) được viết  vào khoảng năm 70-80. Phúc Âm Thánh Gioan được  viết vào những năm cuối thế kỷ thứ I. Thêm vào  đó, – thiết tưởng cũng nên biết, – các Phúc Âm  không phải là những tác phẩm đã được viết  “một mạch” từ lúc khởi sự cho tới khi xong,  nhưng là kết quả của một tiến trình “sưu tầm”  qua nhiều giai đoạn và thế hệ khác nhau: lúc đầu Phúc  Âm chỉ là những văn bản được dùng trong  Phụng Vụ, những bài Giáo Lý, những bài Giảng  Thuyết… của Giáo Hội sơ khai. Phần nổi bật, cổ kính  nhất và được viết một cách khá liên tục có lẽ là  bài tường thuật về cuộc tử nạn của Đức Giêsu.  Tuy nhiên, khi soạn lại như thế, các Thánh Sử đã không  đặt nặng các chi tiết lịch sử. Chủ ý của các  vị không nhằm rành mạch ghi lại lý lịch Đức Giêsu cho  bằng ghi lại những hoạt động và giáo huấn của  Ngài. Các bài tường thuật đó không phải là  những tờ biên bản của cảnh sát, nhưng là  những tập chứng chỉ của lòng tin: lòng tin của  các ngài và của Giáo Hội sơ khai. Các vị không  phải chỉ muốn truyền bá điều chính mình đã thấy và  đã nghe, nhưng còn muốn làm chứng cho thấy đó là  những điều xác thực. Truyền bá, mà không cần làm  chứng gì thì tương đối dễ. Người ta có thể truyền bá  một dễ dàng một triết thuyết, một ý thức hệ, một  nhân sinh quan, một vũ trụ quan…, nếu không cần phải  làm chứng về tính chất xác thực của chúng. Nhưng trái  lại, là một điều rất rất khó, khi cần phải làm  chứng, nhất là khi phải lấy mạng sống, tức là  chính cái chết của mình ra mà làm chứng: chết để  ký tên và đóng dấu xác nhận cho những điều mình nói.  Và khi làm chứng như thế, các ngài cũng đã  không quan tâm đến việc làm chứng về các chi tiết lịch  sử, cho bằng làm chứng về các chân lý cứu độ. Nhưng  dù các ngài có chú trọng tới các chi tiết lịch sử  đó chăng nữa, thì cũng nên biết thêm rằng, quan niệm  về “lịch sử” cũng như về cách thức trình bày  của người xưa không thể hội đủ những điều  kiện “khoa học” để được gọi là chính xác đúng  theo những gì kỹ thuật ngày nay đòi hỏi,  khi viết sử. Lấy tiêu chuẩn thời nay mà phê bình  người xưa có phải là khe khắt quá hay không[5]

 

Vì những lý do trên đây, nên khi đọc Phúc Âm, chúng  ta thường thấy nhan nhản những cách chỉ định khá  mơ hồ về không gian và thời gian, như: “lúc ấy”,  “khi đó”, “khi”, “và khi các Ngài  đi tiếp”, “khi Đức Giêsu bắt đầu rao giảng trên  bờ hồ”, “sau đó Ngài lại đi tiếp”, hoặc  những lối diễn tả tương tự. Nếu xét theo tiêu  chuẩn của sử học tân tiến ngày nay, người  ta có thể nói được rằng: không có một tháng năm nào  ghi lại trong Tân Ước, đáng được kể – về mặt sử học  – là chắc chắn 100 % cả (W. Trilling). W. G. Kuemmel (Einfuehrung in das NT) còn cho rằng ngay cả Thánh  Máccô, vị thánh sử đầu tiên, cũng không có một khái  niệm gì rõ ràng về địa hình, địa vật của vùng  Palestina thời Đức Giêsu.

 

Dầu thế, cũng không được phép kết luận cho rằng Tân  Ước chỉ là sản phẩm của tưởng tượng, không  gói ghém một giá trị lịch sử nào. Thực ra, nếu để  ý khi đọc, thì sẽ nhận ra được ngay những nét đại  cương về một bối cảnh lịch sử của một thời  tuy xa xưa nhưng vẫn còn rất sinh động ở trong đó:  những nhân vật lịch sử như vua Hêrôđê Cả và  con của ông là Hêrôđê Antipas, quan tổng trấn Philatô…  thay phiên nhau xuất hiện trên chính trường. Trong xã  hội ấy, cũng có những phe phái tôn giáo hoặc đảng  phái chính trị phức tạp như Sađuxê, Pharisiêu, nhóm Cuồng Nhiệt  (Zelotai ), nhóm tay chân Hêrôđê (Mc 3, 6; 12, 13t)…  Ngoài ra, còn có cả Hội đồng tối cao của Do  thái giáo, có đền thờ và việc phượng tự; có sự  khác biệt về não trạng giữa người dân miền Galilê  (miền Bắc) và Giuđêa (miền Nam); có thuế đền thờ  và thuế cho người Rôma… Những chi tiết ấy tuy  nhỏ nhặt, nhưng cũng đủ vẽ nên những nét  chấm phá khá chân thực về miền Palestina, dưới quyền bảo  hộ của đế quốc Rôma thời đó. Bối cảnh ấy rất  phức tạp, có một không gian và một thời gian nhất  định, không thể là sản phẩm của tưởng tượng  được, nhưng là dấu vết lịch sử rất xác thực còn lưu lại trong đó.

 

Huấn thị của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh Thánh phổ  biến ngày 21. 4. 1964, cũng đã lưu ý nhấn mạnh  đến giá trị lịch sử của Phúc Âm như sau: “Để  minh định một cách thích đáng về tính chất xác thực vững  chắc của những gì các Phúc Âm trình thuật lại,  thì nhà chú giải cần phải cẩn trọng lưu tâm tới  3 giai đoạn truyền lưu (tria tempora traditionis ) đã  từng chuyển đạt giáo huấn và cuộc đời Đức Giêsu  đến tận chúng ta” (II, đ. 1). Ba giai đoạn đó là: (1)  giáo huấn và các sinh hoạt chung giữa Đức Giêsu với  các môn đệ Ngài, (2) giáo huấn và những mẩu chuyện  đó được lưu truyền và thành hình dần dần trong Giáo  Hội sơ khai, và sau này (3) mới được các thánh sử  lo xếp đặt và ghi lại.

 

Ngoài ra, khoa khảo cổ cũng đã góp công không  nhỏ trong việc chứng minh cho tính chất xác thực của  Phúc Âm. Xin đan cử một thí dụ: J. Jeremias (xem:  Die Wiederentdeckung von Bethesda. Johannes 5, 2 . Goettingen 1949)  cho rằng cái hồ nước được nhắc tới trong Ga 5, 2 là hoàn  toàn giống với hồ Bethesđa mà khoa khảo cổ đã  phát hiện trước đó; sự kiện này giúp xác định được nơi  chốn của phép lạ Đức Giêsu đã làm ngày xưa.  Đó là một trong những đóng góp không thể bỏ qua  của ngành này.

Thêm vào đó, người ta còn lưu ý tới cả những  nguồn tài liệu ngoài Phúc Âm. Thí dụ, J. Jeremias  (xem: Die unbekannte Jesu Worte . Guetersloh (4.) 1965) đã  sưu tầm những lời tương truyền của Đức Giêsu không  thấy ghi lại trong Tân Ước, nhưng được đọc thấy ở trong  các nền văn hóa cổ xưa khác, rồi đem ra phân tích rất tỉ  mỉ, giúp người đọc hiểu thêm về con người và giáo  huấn của Ngài.

 

Ngoài ra, trong sử sách và văn chương Do thái cũng  như Rôma thời đó, người ta cũng thấy – dù không  nhiều như chúng ta mong ước – những “dấu chân” lịch  sử của Đức Giêsu:

 

Trong một bản tường trình về việc thành Rôma bị  thiêu hủy dưới thời Nêrô, sau khi cho biết về mối  thù mà bạo chúa Nêrô ghi lòng đối với các tín  hữu Rôma, Taxitus – một viên chức cao cấp và là  nghị viên vào năm 97 sau CN – còn viết thêm những  giòng này (khoảng năm 116/11): “ Auctor nominis  eius Christus Tiberio imperiante per procuratorem Pontium Pilatum  supplicio affectus erat ” (Danh xưng này [= Kitô hữu]  bắt nguồn từ ông Kitô, là người đã bị quan  tổng trấn Pônxiô Philatô xử tử hình, dưới thời  hoàng đế Tibêriô) (Ann. 15-44). Những giòng ngắn  ngủi này được coi là lời chứng tích khách quan  nhất, chắc chắn nhất cũng như hùng hồn nhất về con  người lịch sử Đức Giêsu do sử sách người đời  để lại.

 

Thêm vào đó, người ta cũng ưa nhắc tới đoạn văn  của sử gia Suêtôniô trong cuốn tiểu sử của  hoàng đế Clauđiô Vita Claudii (25, 4) như sau: “(Claudius)  Judaeos impulsore Chresto assidue tumultuantes Rôma expulit ” (Claudiô  đã trục xuất những người Do thái khỏi Rôma,  vì bị ông Kitô khích động, họ thường xuyên sống trong tình  trạng náo loạn). Tuy nhiên, đoạn văn này không có giá  trị nhiều cho đề tài của chúng ta, vì rất có thể ông  Kitô được nhắc đến ở đây, chưa hẳn là Đức Giêsu  Kitô, mà chỉ là một ông Kitô nào đó. Có điều  chi tiết này hợp với cuộc nổi loạn được ghi lại trong  Tông đồ Công vụ 18, 2.

 

Trong Antiquitates Judaeorum 20, 20, sử gia Do thái Josephus  Flavius cũng cho biết rằng Thày cả Thượng phẩm  Annanos (Anna II) đã xử tử hình Thánh Giacôbê, là  “anh em của ông Giêsu, được gọi là Kitô” vào  năm 62. Chỗ khác (Ant .18, 3, 3), ông còn cho  biết thêm: “Ông Giêsu sống vào thời này,  nếu coi ông là người thì là một người thông  thái. Ông là người đã làm nhiều phép lạ,  là thầy dạy những ai vui nhận chân lý. Ông đã  lôi cuốn được nhiều người Do thái và người Hy  hóa (Helléniste ) theo mình. Rồi khi ông bị Philatô phạt  đóng đinh vào thập giá vì những lời tố cáo của  các vị đứng đầu trong chúng ta, thì những người lúc  trước đã yêu mến ông vẫn không bỏ cuộc. Vì sau  ba ngày ông lại hiện ra với họ như người còn sống,  theo lời những tiên tri của Chúa đã nói về  điều này. Ngoài ra, còn có hàng ngàn những  điều lạ lùng khác về ông nữa. Cho tới nay, dòng  giống những người được gọi là Kitô hữu đã  tin theo ông, vẫn không giảm sút.” Đây là một  đoạn văn hết sức minh bạch. Nhưng cũng vì quá minh bạch  nên có nhiều người lại nghi ngờ về giá trị lịch sử  của nó. Họ cho rằng, một là Giáo Hội sơ khai đã  thêm cả đoạn văn này vào bộ sử, hai là  ít nhất Giáo Hội sơ khai cũng đã thêm thắt ít nhiều  vào đoạn văn nguyên thủy của nhà sử gia  tên tuổi nói trên.

 

Các bản văn tư tế trong bộ Talmud cũng nhắc  tới Đức Giêsu, và cho biết Ngài thường công kích  việc giữ luật và hay làm phép lạ. Có chỗ  mang nặng tính chất bài (Kitô) giáo, như khi cho rằng Đức  Giêsu là con ngoại hôn, là hạng phù thủy,  hoặc mang tính chất phò (Do thái) giáo, khi cho rằng việc  Đức Giêsu bị tử hình là điều hoàn toàn hợp  pháp… Sau này, còn có Toledot Jesu (Truyện ông  Giêsu) gồm những truyện hoàn toàn có tính cách  bài (Kitô) giáo.

 

Tất cả những tài liệu trên đây – hoặc tích cực  hoặc tiêu cực – cũng đủ để chứng minh Đức Giêsu là  một nhân vật có thực, Ngài là người Do thái,  sống và hoạt động tại vùng Palestina 20 thế kỷ  trước chúng ta. Các ngành nghiên cứu khoa học trong thời  nay cũng đồng thanh công nhận là những giáo huấn  xưa nay của Giáo Hội về Đức Giêsu đều có nền tảng  vững chắc, bắt nguồn từ cuộc đời và hoạt  động của Đức Giêsu trên trần thế, chứ không phải  là chuyện huyền thoại. Thực ra, nếu Giáo Hội sơ khai đã  huyền thoại hóa nhân vật Giêsu cũng như giáo huấn của  Ngài, thì Giáo Hội đó đã không để sót lại những  chi tiết tiêu cực hiện đọc thấy trong Tân Ước, như việc Gioan  Tẩy Giả làm phép rửa cho Chúa, quê hương của  Ngài sẽ không phải là Nadarét, Giuđa cũng  không thể nộp Ngài… Nhất là Giáo Hội đó đã  không để cho Ngài chết tất tưởi trên thập giá, nhưng  phải tìm cho Ngài một hình thức “kết cục êm đẹp”  (Happy-End ) nào đó, mà lý trí con người có thể  tạm chấp nhận được; cũng như không thể để Ngài đi  vào cõi mây xanh quá “trừu tượng, mơ hồ”  như sự việc thăng thiên đã kể lại. Đó là những  chi tiết hoàn toàn “thất lợi” cho việc truyền  giáo ngay từ ban đầu.

 

Để châm biếm những ai còn nghi ngờ không biết  Đức Giêsu có phải là một nhân vật lịch sử hay  không, người ta thường kể lại giai thoại sau đây: Khi  Napôlêôn hỏi nhỏ C. M. Wieland cho biết về sự việc  Đức Giêsu có sống thực hay không, Wieland đã tâu lại  với vua rằng: “Thưa hoàng thượng, hạ thần biết có  những kẻ điên khùng vẫn thường hồ nghi  như thế. Nhưng theo hạ thần, hồ nghi như thế thì cũng chẳng  khác nào hồ nghi liệu Giuliô Xêdar có sống thực hay không,  hay là hồ nghi liệu chính hoàng thượng đây có đang  sống thực hay không. Ai còn hồ nghi như thế, thì đúng là  hạng dốt nát!”

 

Hiện nay, không ai còn đặt lại vấn đề ngây thơ kia nữa.  Đức Giêsu được công nhận là một nhân vật đã sống  thực trong giòng lịch sử nhân loại.

 

 I. NGUỒN GỐC VÀ THÂN THẾ ĐỨC  GIÊSU

 

1. Năm Sinh

 

     Đức Giêsu có tên thật là J’hosua (nếu là tiếng Do  Thái) hoặc Jesua hoặc Jesu (nếu là tiếng Aramê). Tên này  có nghĩa là: “Giavê là sự cứu độ” hay “Giavê  ban ơn cứu độ”. Giêsu không phải là một tên gọi  đặc biệt và mới lạ của riêng Đức Giêsu, nhưng là  tên gọi khá thông dụng và rất được ưa chuộng vào  thời đó[6] . Cha Mẹ  Ngài có tên (theo đúng nguyên ngữ) là Joses và  Mirjam

 

     Mt 2, 1 cho biết: Ngài sinh ra tại Bêlem, xứ Giuđêa dưới  thời vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là con của Antipater  và Kypros, được chánh quyền Rôma phong vương cho làm  vua xứ Giuđêa vào khoảng cuối năm 40 trước CN, nhưng  mãi 3 năm sau, ông mới được lên ngôi. Hêrôđê băng hà  vào năm 750 “ ab urbe condita ” (năm 750 kể từ  khi kiến lập thành phố Rôma). Theo cách tính của chúng  ta hiện nay (kỷ nguyên kitô), năm 1 (năm Đức Kitô sinh  ra) là năm 754 ” ab urbe condita “.

 

     Vì Đức Giêsu giáng sinh lúc Hêrôđê còn đang sống, cho  nên nếu tính cho đúng, thì phải nói là Ngài đã  sinh ra vào những năm từ 7 tới 4 trước (!) niên  lịch hiện nay. Đó là một nhầm lẫn trong cách tính niên  lịch ngay từ lúc đầu. Như đã biết, cho tới thế kỷ  thứ 6, nhân loại vẫn chưa chọn Đức Giêsu làm “mốc”  cho cách tính niên lịch (dương lịch) như hiện đang thịnh hành.  Mãi tới năm 523-525, Đức Giáo Hoàng Gioan I mới truyền  cho tu sĩ Diônysiô ở Rôma, – có biệt danh là Diônysiô  Exiguô (kẻ thấp hèn), – tính lại ngày lễ Phục  sinh của nghi thức Alexandria mà xác định thời biểu  của ngày lễ này cho bên Giáo Hội Rôma. Năm  525, Diônysiô cho xuất bản cuốn Liber de Paschate .  Trong đó, ngài đã so sánh ba dữ kiện sau đây: đoạn  Lc 3, 23, năm Hoàng đế Điôklêxiăn lên ngôi và năm “ ab urbe condita “. Theo Lc 3, 23 cho biết, thì Đức Giêsu  bắt đầu hoạt động công khai vào khoảng năm 30 tuổi.  Hoàng đế Điôklêxiăn lên ngôi ngày 29.8.284 trước  CN. Nếu căn cứ theo ba dữ kiện nêu trên, thì theo ngài,  năm 1 (lúc Đức Giêsu sinh ra) phải là năm 754 “ ab  urbe condita .” Sau hơn 500 năm mới tính lại từ đầu, nên  nếu có lệch lạc một số năm như thế, thì chỉ là điều  dễ hiểu và có thể tha thứ được.

 

     Ngoài ra, cũng được biết thêm chi tiết này nữa,  đó là: có lẽ lúc Đức Giêsu giáng sinh cũng chính  là lúc Thầy cả Thượng phẩm Simon Ben Boethos (khoảng  năm 24-5 trước CN) còn tại chức tại Giêrusalem.

 

     Theo Lc 2, 1-3 cho biết thì lúc Đức Giêsu sinh ra, cũng là  lúc Hoàng đế Augustô đã ra lệnh cho kiểm tra dân số  lần đầu tiên, dưới thời Quirinô làm tổng trấn xứ  Xyria. Cho tới nay, người ta vẫn chưa biết được đích  xác về một cuộc kiểm tra nào như thế. Rất có thể, cuộc  kiểm này đã tiến hành vào năm 8 trước công  nguyên, là năm mối bang giao giữa vua Hêrôđê và  chánh quyền Rôma bị sứt mẻ đi nhiều. Hơn nữa, một  vị quan Quirinô nào đó chỉ có thể là tổng trấn xứ  Xyria vào những năm từ 12 tới 9/8 trước CN mà  thôi, vì từ năm 9-4 trước CN (năm Hêrôđê băng hà),  chúng ta đã có danh tánh đích xác của hai vị tổng trấn  là Sentius Saturninus và P.Quintilius Varus. Theo Giáo  Phụ Tertulianô, không phải Quirinô nhưng là Sentius  Saturninus đã cho tổ chức cuộc kiểm tra mà Lc 2, 2 đã  đề cập tới, vào những năm 9/8 tới 6 trước CN (Adversus  Marcionem IV, 9). Không rõ Tertulianô đã xác quyết  như thế, vì biết chắc về sự kiện này, hay chỉ muốn “điều  chỉnh” lại tên của vị tổng trấn ấy sao cho hợp với  năm 6 trước CN, như thấy ghi trong sử sách người đời  mà thôi.

 

     Sử gia Do thái Josephus Flavius (Ant. 18, 1 tt) còn  cho biết là ở Xyria thời đó, cũng có một vị  tổng trấn tên là Quirinô đã đứng ra tổ chức một  cuộc kiểm tra, nhưng cuộc kiểm tra này lại được tổ chức  vào năm 6 sau CN, và chỉ kiểm tra miền Giuđêa thôi,  chứ không kiểm tra miền Galilê!

 

     Vì thế, có tác giả cho rằng: một là không phải  Quirinô, nhưng là một tổng trấn nào đó đã đứng  ra lo vụ kiểm tra này; hai là Thánh sử Luca đã  lẫn lộn cuộc kiểm tra của Quirinô vào năm 6 sau  CN với một cuộc kiểm tra nào đó đã diễn ra vào  khoảng năm 4 trước CN mà hiện nay chúng ta chưa thể  biết được.

 

     Mt 2, 1-12 còn cho biết có một chòm sao lạ đã xuất  hiện vào lúc Đức Giêsu sinh ra. Chi tiết này đã  gây tò mò cho nhiều người. Vào năm 1606, trong  cuốn sách của ông nhan đề De Jesu Christi salvatoris  nostri vero anno natalitio , nhà thiên văn J. Kepler đã  cho rằng năm sinh của Đức Giêsu phải là năm 7  trước CN. Vì theo cách tính của ông, vào năm đó, hành  tinh Jupiter và hành tinh Saturn đã giao thoa trong  chòm sao Ngư đẩu (sao con cá). Nếu theo lối giải thích  của chiêm tinh học cổ thời, thì Jupiter là ngôi  sao của vũ trụ. Jupiter là vì sao vua. Còn Saturn  thì đối với người Babylon là ngôi sao chỉ hướng “amuru”,  nghiã là xứ Xyria; còn theo cách cắt nghiã  của nền văn hóa Do Thái đã bị Hy hóa, thì Saturn là  ngôi sao của dân Do thái. Còn chòm sao Ngư đẩu  là chòm sao của thời cánh chung. Như thế, khi  thấy hiện tượng trên, Ba vua (Ba nhà chiêm tinh) trong Mt  2 đã hiểu ngay là: ở xứ Xyria, hay rõ hơn là  tại miền Do thái (trong thời bảo hộ Rôma, Do thái  thuộc vùng hành chánh Xyria-Palestina), một vị vua thời  cánh chung vừa giáng sinh (V, 74tt)[7] . Ngoài  ra, vào năm 1925 các nhà khảo cổ cũng đã  tìm thấy ở Xippar cạnh giòng sông Êuphrát, một  bảng đất nung có từ thế kỷ thứ 3 trước CN; trên  bảng đó, có ghi lại việc quan sát một ngôi sao xuất hiện  vào năm 7 trước CN.

 

      Nếu ngôi sao đó đã thực sự xuất hiện trên nền trời,  thì một là ngôi sao ấy đã xuất hiện vào khoảng  tháng 12 năm 7 trước CN, khi trời chiều vừa tối. Nhưng  nếu thế, thì lúc đó lại không có mặt vua Hêrôđê ở  Giêrusalem, vì theo thông lệ vào mùa Đông, nhà  vua thường về nghỉ tại Giêrihkô. Tuy nhiên, thông lệ này  không hẳn là một trở ngại lớn cho vấn đề chúng ta  đang bàn, vì cũng có thể vào dịp lễ Cung hiến  Đền thờ, nhà vua lại trở về thủ đô để dự  lễ. Hai là ngôi sao ấy đã xuất hiện vào khoảng  cuối tháng 9 và đầu tháng 10, lúc bầu trời đã  tối mịt. Nhưng nếu thế, thì đoàn tùy tùng của  “Ba vua” sẽ khó có thể là một cuộc hành  trình kéo dài suốt 6 tuần lễ liên tiếp trong sa mạc  được, vì lúc đó nhiệt độ còn quá cao. Kết luận: ngôi  sao ấy phải xuất hiện vào tháng 12 thì mới có lý.

 

     Lc 2, 1-20 còn cho biết: Đức Giêsu sinh ra giữa lúc  các mục đồng và đoàn vật còn đang nghỉ đêm ngoài  trời. Chi tiết này cho phép suy diễn để hiểu rằng  lúc đó khí trời còn tương đối ấm áp, và ngoài  đồng vẫn còn đủ cỏ cho súc vật ăn. Điểm thứ  nhất: trên thực tế, ở Bêlem khí trời chỉ ấm áp về  đêm trong khoảng thời gian từ tháng 3 tới tháng  10 mà thôi; những tháng còn lại, trời khá  lạnh, không thể nghỉ đêm ngoài trời được. Điểm thứ  hai: Vào mùa Hạ, vì trời nắng gắt nên cánh đồng  Bêlem cũng thường cháy trụi cỏ. Tình trạng này  kéo dài cho tới khi những giọt mưa đầu mùa Thu  trở lại, lúc đó đồng cỏ mới có thể dần dần hồi  sinh. Như thế, đoàn vật chỉ ở ngoài đồng trong khoảng  các tháng 3 và 4 mà thôi. Kết luận: ngày giờ  Đức Giêsu sinh ra cũng phải trùng vào khoảng  thời gian này, vì như thế, mới hợp với chi tiết Lc  2 đã cho biết trên đây.

 

     Nhưng tại sao lại mừng lễ Đức Giêsu giáng sinh vào  đêm 24 rạng 25 tháng 12 như hiện nay[8] ? Đêm  24 tháng 12 ấy bắt nguồn từ đâu? Thưa: bắt nguồn từ  một dịp lễ của người Rôma. Vào mùa Đông,  đêm 24 tháng 12 là đêm bắt đầu ngắn lại và ngày  bắt đầu dài ra, nên từ năm 275 trở đi, người  Rôma đã dựa vào hiện tượng thiên nhiên này mà  chọn khoảng thời gian giữa đêm/ngày ấy làm  dịp mừng lễ Thần mặt trời của họ, và đặt  tên cho là “ natalis solis invicti ” (sinh nhật của  mặt trời bách thắng). Đến năm 311, dưới thời Hoàng  đế Conxtantinô, Kitô giáo được tự do phát triển, nên số  tín hữu tại Rôma cứ tăng dần. Dù đã trở lại  đạo, nhưng các tín hữu này vẫn còn tiếp tục  mừng lễ natalis solis invicti chung với các đồng  bào của họ như trước. Rồi sau này, họ đã biến  lễ “sinh nhật của mặt trời bách thắng”  thành lễ “sinh nhật của mặt trời công chính”.  Mặt trời công chính ở đây được hiểu là Đức Kitô  theo tinh thần câu Ml 4, 2 trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, không  biết được đích xác là vào năm nào, các kitô hữu  Rôma này đã biến lễ của người Rôma thành  lễ giáng sinh của Đức Giêsu; chỉ phỏng đoán là  vào khoảng thời gian từ sau năm 311 cho đến  trước năm 336.

 

 2. Nơi Sinh

 

     Mt 2, 1 và Lc 2, 4 cho biết Đức Giêsu sinh ra tại làng  Bêlem, thuộc xứ Giuđêa (miền Nam), còn Nadarét (miền Bắc)  là quê hương của cha mẹ Ngài. Nhưng nếu theo cách  diễn tả của Mt, thì người đọc Phúc Âm có  cảm tưởng là quê hương của thánh Giuse phải  là Bêlem hay ít nhất cũng nằm trong vùng Giuđêa  mới phải. Thánh Giuse đã đưa gia đình về Nadarét tồ  nạn, chỉ vì sợ Arkhêlao (Mt 2, 22) mới lên ngôi, sau khi Hêrôđê  băng hà.

 

     Còn theo Lc 2, 26t, thì quê hương của Thánh Giuse và  Đức Mẹ lại là Nadarét, miền Galilê. Các Ngài về  Bêlem chỉ là để chu toàn bổn phận đối với vụ kiểm  tra dân số.

 

     Ngoài ra, lúc sinh thời, Đức Giêsu cũng thường  được gọi là người thành Nadarét (Nazarenos  hay Nasarenos ), như đọc thấy trong Mc 1, 24; 10, 47; 14,  67; 16, 6. Có khi Ngài cũng được gọi là Nazoraios ,  như trong Mt 2, 23; 26, 71; Lc 18, 37; Ga 18, 5. 7; 19, 19. Thành  phố Nadarét còn được gọi là quê cha (patris )  của Ngài (Mc 6, 1 ss). Căn cứ vào những chứng  cớ trên đây, một số tác giả đã cho rằng: Đức Giêsu  không phải chỉ lớn lên tại Nadarét mà thôi, nhưng  còn sinh ra tại đó nữa. Theo họ, truyền thống Đức  Giêsu sinh ra tại Bêlem đã bị khuynh hướng Thần học thời  Giáo Hội sơ khai “sửa đổi” cho phù hợp với  Mich 5, 2-15. Theo lời tiên tri này, thì Đấng Cứu Thế  phải sinh ra tại Bêlem, là quê hương của vua Đavít  (II, 52t). Tuy nhiên, vương cung thánh đường Giáng Sinh tại  Bêlem hiện nay đã được xây cất ngay từ năm 325, dưới  thời Hoàng đế Conxtantinô, để kính nhớ nơi Đức Giêsu  sinh ra. Đây là nhà thờ cổ kính nhất của Kitô  giáo còn sót lại cho tới ngày nay.

 

     Nadarét là một thành phố nhỏ nằm về phía Tây  hồ Gen-nêdarét (có lẽ là tên mới của hồ Kinnereth  trong Sách Dân số 34, 11; theo Ga 6, 1; 21, 1, thì hồ nói trên  cũng được gọi là hồ Tiberias), và cách hồ này  khoảng 25 km theo đường chim bay. Không một lần nào  tên Nadarét đã được nhắc đến trong Cựu ước. Sử gia  Josephus Flavius cũng không hề nhắc tới thành phố này.  Ga 1, 46 cho biết Nadarét là một thành phố bị khinh  rẻ, nằm trong miền Galilê, và chẳng có gì đáng lưu  ý, ngoài những đám quân phản loạn. Sự việc Đức  Giêsu đã xuất xứ từ thành này – như đã  nói trên kia – là một trở ngại lớn cho công cuộc  truyền giáo của Giáo Hội sơ khai, vì đối với người  Do thái, không thể nào Đấng Mêsia lại xuất thân từ  vùng này được.

 

 3. Học Vấn Và Nghề Nghiệp

 

     Trong Tân Ước, Đức Giêsu thường được gọi là Rabbi  (tiếng Do Thái: Mc 9, 5; 10, 51; 11, 21; 14, 45 — Mt 23, 7. 8; 26,  25. 49. — Ga 1, 39. 50; 3, 2; 4, 31; 6, 25; 9, 2; 11, 8) hoặc  Rabbuni (tiếng Aramê: Mc 10, 51; Ga 20, 16). Bản dịch Hy  Lạp chuyển từ ấy thành didáskalos (tạm dịch:  thầy dạy, sư phụ). Trong thời đó, tước hiệu này  chưa được chính thức dùng để chỉ những thầy Tư tế trong  đạo Do thái, nhưng vẫn là một kiểu xưng hô lịch sự  rất phổ thông của người đương thời. Có lẽ  đó cũng là trường hợp tương tự như người dân  miền Nam Việt Nam ngày xưa vẫn thường gọi những  người phong nhã là thầy. Từ thế kỷ thứ  nhất trở đi, danh xưng này mới được chính thức dùng  để chỉ những vị Tư tế như hiện nay. Vì thế, không thể căn  cứ vào tước hiệu này mà kết luận rằng Đức Giêsu  đã đi học để làm Rabbi . Có lẽ Ngài chỉ  là một thường dân, không địa vị không chức tước gì  trong xã hội thời ấy.

 

     Một truyền thuyết Tư tế Do thái lại cho rằng Đức Giêsu là  học trò của Jehoshua ben Perakhja vào thuở đó.  Nhưng truyền thuyết này không đứng vững, vì nếu thế,  thì Ngài phải sống dưới thời vua Jannaj mới đúng.  Ngoài ra, theo Ga 7, 15, dân chúng thời đó cũng  thường thắc mắc tại sao Đức Giêsu không có học hành  gì mà vẫn am tường Kinh Thánh đến như vậy.

 

     Dù không chính thức hấp thụ một nền học vấn, nhưng nếu  căn cứ theo giáo huấn và những mẩu đối thoại trong  Phúc Âm, cũng như chỉ nhìn theo nhãn quan sử  học đơn thuần, người ta cũng có thể kết luận được  rằng Đức Giêsu có một kiến thức về Do thái giáo còn  cao hơn cả Thánh Phaolô, là người vốn được học  hành đến nơi đến chốn, dưới chân sư phụ Gamalien (Cv 22,3)  rất nổi tiếng vào thời đó, rồi sau này đã  trở thành vị tông đồ “trí thức” nhất của  Đức Giêsu. Nhiều lần Phúc Âm cũng kể lại Đức Giêsu  vào Hội đường, đọc Kinh Thánh rồi giảng dạy dân  chúng. Người ta không rõ Ngài có dịch Kinh Thánh  từ tiếng Do thái cổ (chính thức) ra tiếng Aramê thông  dụng thời bấy giờ, rồi giảng dạy dân chúng, hay  là Ngài chỉ nhớ một số đoạn Kinh Thánh nào đó  quen thuộc, rồi đem ra cắt nghĩa và giảng dạy dân chúng  như thế mà thôi (III, 767). Ngài rất thông thạo các  Thánh Vịnh, và có lẽ cả sách tiên tri Isaia nữa.

 

     Từ khi khoa khảo cổ phát hiện nhiều di tích tại vùng  Palestina, đặc biệt là tại vùng Biển Chết, người  ta mới khám phá ra rằng ngày xưa tại vùng này,  dân chúng đã sử dụng nhiều thứ ngôn ngữ khác  nhau như tiếng Do thái, Aramê và Hy lạp, gần giống như  trong nước Ítraen ngày nay vậy: có tiếng Do thái, tiếng Ảrập và tiếng Anh. Có lẽ Đức Giêsu đã nói  và giảng dạy bằng tiếng Aramê. Ngay trước khi Phúc  Âm thành hình, thì những lời nói và giáo  huấn của Ngài cũng đã được dịch sang tiếng  Hy lạp. Trong Phúc Âm ngày nay, vẫn còn sót  lại một vài từ của tiếng Aramê, đã từng  thoát ra từ miệng Ngài, như: Abba (‘ăb/’ăbă:  Mc 14, 36), Ephphatha (‘etpatah: Mc 7, 34), Eloi, Eloi,  lema sabakhtani (Ilăh: Mc 15, 34).

 

     Có thể nói, thời đó, tiếng Hy Lạp cũng thông dụng  như tiếng Anh bây giờ. Ga 19, 20 cho biết là bản  án treo trên đầu thập giá Đức Giêsu được viết bằng 3 thứ  tiếng: Do Thái là tiếng bản xứ, La Tinh là tiếng  bảo hộ, và Hy Lạp là tiếng thông dụng nhiều người  biết. Vì thế, có tác giả cho rằng rất có thể Đức Giêsu  cũng đã thông hiểu cả tiếng Hy Lạp nữa. Thời  đó ai thông hiểu tiếng Hy Lạp, thì được xếp vào thành  phần trí thức, giống như những ai thông hiểu chữ Nho  trong xã hội Việt Nam ngày xưa, và những ai  thông hiểu tiếng La tinh trong xã hội Âu châu thời  Trung cổ vậy.

 

     Các bài giảng của Ngài thường không phải  là những bài ứng khẩu theo hoàn cảnh, nhưng  là những bài đã được cẩn thận suy nghĩ và  chu đáo dọn trước. Vì nếu đem dịch ngược những bản  văn Phúc Âm còn lưu truyền bằng tiếng Hy Lạp ra tiếng  Aramê, thì sẽ thấy những dấu vết còn sót lại  của các hình thức đối ngẫu, song song, phản đề,  có âm vận có nhịp điệu đầy đủ… Trong cách giảng  dạy, Ngài thường dùng ngụ ngôn; tuy nhiên hình  thức này không phải là sáng kiến riêng của  Ngài, nhưng là một hình thức khá thông dụng và  rất được ưa chuộng ở Phương Đông thời bấy giờ.  Các bài giảng của Ngài thường làm chất  liệu mở đầu cho các cuộc đối thoại với dân chúng hay  với môn đệ của Ngài, hoặc cũng có thể là  kết quả thu hoạch từ các cuộc gặp gỡ như thế.  Ngài thường giảng một số đề tài nhiều lần,  đến độ không phải chỉ các môn đệ theo Ngài mà  ngay cả dân chúng cũng thuộc lòng để có thể tiếp  tục kể lại đầy đủ cho những người chưa có dịp  nghe qua. Đặc biệt, khi nói về Thiên Chúa, theo thói quen “kị  húy” ở trong Cựu Ước (VIII, 32), Ngài thường  dùng thể thụ động thần linh (passivum divinum ).

     Trước khi ra hoạt động công khai, Đức Giêsu đã hành  nghề “tékton ” là nghề của Thánh Giuse. Chúng  ta thường dịch chữ đó là thợ mộc. Nhưng thực ra  từ “ tékton” bao quát khá nhiều việc khác nhau  như làm cầu cống, làm guồng nước, xây nhà, làm  cửa, sửa yên ngựa… như một bản văn Hy Lạp bằng  giấy cói (papyrus ) thời đó cho biết. Con nối nghiệp  cha là chuyện thông thường trong xã hội Do Thái  thời đó. Cha có bổn phận phải dạy nghề cho con, như  một câu trong văn chương Tư tế đã viết: “Không lo dạy  nghề cho con, là dạy nó đi trộm cướp” (bQid 30b)  (VIII, 77).

 

     Ngoài ra, Phúc Âm không mảy may – dù trực tiếp  hay gián tiếp – mang theo một dấu vết gì để từ đó có  thể liên tưởng tới một bóng “hiền thê” nào  trong cả cuộc đời của Đức Giêsu; thế nên, sự  kiện Ngài đã sống độc thân là một sự thật lịch  sử không thể nghi ngờ được. Theo thiển ý, nếu Ngài  đã lập gia đình (hoặc có thêm anh chị em ruột thịt, như  nhiều nhà thần học Tin Lành và đôi khi cả  Công Giáo (!) chủ trương), thì khi sắp trút hơi thở  cuối cùng trên thánh giá, Ngài đã không phó thác  Đức Mẹ cho người môn đệ yêu dấu làm chi. Nếu có  người ruột thịt trong gia đình riêng của mình mà  đi phó thác mẹ mình cho người ngoài gia đình, thì đó  là việc làm hoàn toàn trái ngược với tâm  tình gia đình Á Đông. Đó là điểm tâm lý Á Đông  mà nền Thần Học Tây Phương có lẽ chưa hiểu nổi. Mối  tình giữa Maria thành Magdala và Đức Giêsu chỉ là  sản phẩm “tiểu thuyết hóa”, hoàn toàn không  có một chút nền tảng nào trong Tân Ước.

 

     Nếu tóm lược cuộc đời niên thiếu của Đức Giêsu,  thì sẽ có được những điểm chính sau đây:

• Sứ thần Gáprien truyền tin cho Đức Mẹ: tháng  6/7 năm 8 trước CN.

• Đức Mẹ đi viếng bà Thánh Êlisabét: tháng  6/7 năm 8 trước CN.

• Đức Mẹ trở về Nadarét: tháng 9/10 năm 8 trước  CN.

• Về Bêlem làm bổn phận đối với cuộc kiểm  tra dân số: tháng 2/3 năm 7 trước CN  (đi đường mất 4 ngày).

• Đức Giêsu giáng sinh: tháng 3/4 năm 7 trước CN.

• Đức Giêsu chịu cắt bì: 8 ngày sau khi sinh.

• Dâng Đức Giêsu vào Đền Thánh: 4/5 năm 7 trước  CN.

• “Ba Vua” tới thờ lạy: đầu tháng 12  năm 7 trước CN. (sớm nhất là cuối tháng 9 năm   trước CN.)

• Trốn sang Ai Cập: giữa tháng 12 năm 7 và  đầu năm 6 trước CN, có lẽ theo con đường ngắn nhất qua ngả Askalon, đi dọc theo bờ  biển mà tới bình nguyên sông Nil, nơi đã có nhiều người Do thái đến lập cư.

• (10)Thảm sát các trẻ em tại Bêlem: đầu năm  6 trước CN.

• Vua Hêrôđê băng hà: tháng 3 năm 4 trước  CN.

• Trở về Nadarét: cuối mùa Hè hay mùa  Thu năm 4 trước CN.

• Lên Đền Thánh lúc 12 tuổi: năm 6 sau CN. (IV,  289)

 

II. CUỘC ĐỜI CÔNG KHAI CỦA ĐỨC  GIÊSU

 

     Cuộc đời công khai của Đức Giêsu có thể chia làm  2 giai đoạn: (1) giai đoạn thành công lúc ban đầu, thường  được gọi là “Mùa Xuân Galilê” tương đối ngắn  ngủi, và (2) giai đoạn bị tẩy chay vào lúc cuối  đời. Lc 9, 51 cho chúng ta thấy rõ khúc quanh lịch sử  đó: “Vì giờ hiến thân đã điểm, nên Ngài can  đảm đi lên thành Giêrusalem.”

 

 1. Năm Khởi Đầu Hoạt Động

 

     Lc 3, 23 cho biết Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai vào  “khoảng 30 tuổi.” Số tuổi đó có chính xác hay không?  Chỉ biết rằng đó là con số rất thường gặp thấy trong  Kinh Thánh: Giuse ra mắt Pharaô, vua Ai Cập, lúc ông 30 tuổi  (St 41. 46); Đavít được xức dầu phong vương, lúc ông cũng  vừa 30 tuổi (2 Sm 5. 4); Êdêkien được gọi làm tiên  tri cũng hồi 30 tuổi. Cho nên, có lẽ đó chỉ là  con số biểu tượng, tương tự như quan niệm “tam thập như  lập” của người Á Đông. 30 là số tuổi lý  tưởng để lập thân. Vì thế, E. Stauffer kết luận rằng chi  tiết Lc 3, 23 cho biết, không phải là chi tiết lịch  sử đáng tin cậy. Ngoài ra, Lc 3, 23 chỉ nói “khoảng”  mà không xác quyết là 30 tuổi tròn.

 

     Trước khi ra hoạt động, Đức Giêsu đã chịu phép rửa  từ tay Gioan Tẩy Giả. Đó là điều khá chắc chắn.  Gioan Tẩy Giả là một nhân vật lịch sử có thực,  không thể nghi ngờ; sử gia Josephus Flavius cũng  đã nhắc tới những hoạt động của ngài. Lc 3,  1 đã để lại cho chúng ta một chi tiết lịch sử (có  thể được coi là chắc chắn nhất trong các chi tiết Phúc  Âm ghi lại), khi cho biết Gioan Tẩy Giả đã khởi  sự hoạt động vào năm thứ 15 thời Hoàng Đế Tibêriô.  Sử sách cho biết là Augustô băng hà ngày 19.  8. 14 sau CN. Như thế, năm thứ 15 thời Hoàng Đế Tibêriô  hoặc là nằm trong khoảng thời gian từ 19. 8.  28 tới 18. 8. 29 sau CN, nếu dựa theo cách tính của Rôma;  hoặc là nằm trong khoảng thời gian từ 1. 10.  27 tới 30. 9. 28, nếu tính theo cách của Xyria. Tuy nhiên,  theo ý kiến của nhiều tác giả, thì cách tính của  Xyria có lẽ hợp lý hơn. Hơn nữa, những danh tánh  được kể ra trong Lc 3, 1. 2 đều xác thực, khi đem đối chiếu  với lịch sử người đời: Pônxiô Philatô làm  tổng trấn xứ Giuđêa từ năm 26 sau CN; Hêrôđê Antipas  làm vua xứ Galilê từ năm 4 trước CN tới 39 sau CN;  Philippô làm vua xứ Iturêa từ năm 4 trước CN. tới  34 sau CN; Hanna là thầy cả thượng phẩm từ năm  6 tới 15 sau CN và Caipha từ năm 18 tới năm 38 sau CN.  Theo truyền thuyết, Gioan Tẩy Giả đã bị giam và  bị xử tại pháo đài Makhairos, thuộc miền nam Peraia,  phiá bên kia Biển Chết.

 

     Nếu thế, Đức Giêsu có thể đã chịu phép rửa từ  tay thánh nhân vào tháng 2 năm 27 – 29[9] .  Để trả lời câu hỏi:  Đức Giêsu đã chịu phép rửa tại đâu, thì hiện nay có  hai địa danh nằm dọc bờ sông Giócđan được đề ra: hoặc  là Bêtabara, gần Giêrihkô (miền Nam); hoặc là Aimon,  gần Salem, phía nam Skythopolis (Bet-Shean, miền Trung).

 

Sau khi chịu Phép rửa, Đức Giêsu đã vào ẩn mình  trong sa mạc (Mc 1, 12); có lẽ là trong sa mạc Giuđêa,  gần thành Giêrihkô[10] . Từ ngàn xưa, nơi đây vốn là chỗ lui tới  của những người “thoát tục”. Vào sa  mạc sau khi đã lãnh nhận Phép rửa là một thông  lệ thời bấy giờ, đặc biệt thông lệ của nhóm  Qumran. Tuy nhiên, không chắc Đức Giêsu đã lưu lại đó  những 40 ngày (nghiã là từ tháng 2 tới  tháng 4) như Tân Ước cho biết. Con số 40 cũng là con  số thường gặp trong Kinh Thánh[11] . Điển hình là trường hợp Môsê:  ông cũng đã ẩn mình trên núi Sinai 40 ngày. Có  lẽ Tân Ước chỉ nhằm đối chiếu Đức Giêsu với Môsê. Nếu  Môsê là đấng ban luật cũ, thì Đức Giêsu là Đấng  ban luật mới. Do đó, theo tiêu chuẩn lịch sử, thì cũng  khó lòng mà biết cho chính xác Đức Giêsu đã lưu  lại trong sa mạc trong bao lâu (III, 290tt). Vào thế kỷ  thứ 4 hoặc thứ 8, một tu viện Chính Thống giáo thường  gọi là “ gebel qarantal ” đã mọc lên tại Đôk,  phía Tây Bắc Giêrihkô để ghi nhớ việc Đức Giêsu đã lưu  lại nơi ấy. Nếu Đức Giêsu ở lại đó không bao lâu, thì  rất có thể Ngài đã bắt đầu ra hoạt động vào  khoảng đầu năm 27-29 sau CN.

 

 2. Thời Gian Hoạt Động

 

     Theo các Phúc Âm Nhất lãm, thì Đức Giêsu hành  hương về Giêrusalem chỉ có 1 lần; còn theo Phúc Âm  Thánh Gioan, thì Ngài hành hương về đó nhiều hơn là  một lần: Ga 2, 13 cho biết Ngài về đó dự lễ Vượt  qua. Ga 5, 1 cho biết Ngài lên thánh đô dự lễ của  người Do Thái, và vì Thánh sử không nói rõ,  nên có tác giả cho là Lễ Vượt qua, có tác giả  khác lại cho là lễ Lều Trại. Ga 7, 2. 14 cũng cho  biết Đức Giêsu về Giêrusalem dự lễ Lều Trại[12] Ga 10, 22 còn cho biết Ngài  về đó dự lễ Cung Hiến Đền Thờ. Ngoài ra, theo  các Phúc Âm Nhất lãm cũng như Phúc Âm Thánh  Gioan (19, 1), thì Đức Giêsu chịu tử nạn đúng vào mùa  lễ Vượt qua. Tóm lại, có thể Ngài đã về Giêrusalem  dự lễ Vượt qua tới 3 lần. Như thế, tất thời gian Ngài  hoạt động cũng phải được tới 3 năm, hoặc ít lắm là  2 năm trọn.

 

     Tuy có những điểm khác biệt giữa các Phúc Âm  Nhất lãm và Phúc Âm Thánh Gioan, nhưng những  chi tiết đó không nhất thiết phải mâu thuẫn lẫn  nhau. Có lẽ các Phúc Âm Nhất lãm đã tóm tắt  rất nhiều về thời gian hoạt động của Đức Giêsu. Vả  lại, khi các Thánh Sử chỉ tường thuật có một lần  về sự việc Ngài lên Giêrusalem, thì cũng chưa có nghĩa  là Ngài hoạt động chỉ được có một năm.

 

     Có điều chắc chắn: Đức Giêsu không phải là một người  xa lạ nơi thành thánh này. Theo các Phúc Âm, thì  Đức Giêsu có nhiều bạn hữu ở đó[13];  ngoài ra, tại đó, Ngài cũng đã gặp nhiều  người có thiện cảm cũng như lắm kẻ chống đối.  Điều đó chứng tỏ rằng Ngài đã từng đến đó  ít nhất là mấy lần, chứ không phải chỉ có một lần  duy nhất mà thôi. Hơn nữa, Mt 23, 37 cũng cho phép  phỏng đoán là Ngài đã đến đó nhiều lần: “Giêrusalem!  Giêrusalem! đã bao lần Ta muốn tụ tập các con cái ngươi  lại…” Lc 9, 53; 13, 1-5; 17, 11 cũng kể lại những  chi tiết tương tự như thế (III, 290).

 

     Thời đó, từ Galilê (địa bàn hoạt động của  Đức Giêsu ở miền Bắc) về Giêrusalem (miền Nam), có 3  trục lộ chính; không biết Đức Giêsu đã đi theo đường  nào. Mc 10, 46 cho biết: có một lần Ngài đi ngang Giêrihkô.  Nếu đã tới Giêrihkô, thì chắc chắn Ngài sẽ đi  theo con đường thông thường là Wadi el-Kelt mà  về Giêrusalem. Nếu thế, chúng ta có thể phỏng đoán là  Ngài đã dùng tuyến đường phía Đông, chạy dọc  theo bờ sông Giócđan. Nếu thực sự Ngài đã đi con  đường này, thì nhất thiết Ngài phải băng qua  miền Samaria (miền Trung), và đi mất tới 3-4 ngày đường  mới tới thành thánh. Vào mùa Xuân, khí trời  ấm áp, dễ chịu, lữ khách có thể dừng chân nghỉ  đêm ngay ngoài trời thanh tịnh, là chuyện khá thông  thường trong thời đó.

 

 3. Địa Bàn Hoạt Động

 

     Thành phố ngư phủ Capharnaum (tiếng Do thái là Kefar-nahum : làng Nahum), nằm về phía Tây Bắc bờ  hồ Gennêsarét, là trung tâm vùng hoạt động của  Ngài (Mc 1, 21; 2, 1). Mt 9, 1 gọi thành phố này  là “thành phố của Ngài”. Vì thế, có  tác giả cho rằng đây là quê hương thứ hai của  Đức Giêsu, và quả quyết thêm rằng, Ngài còn  có cả một ngôi nhà tại đó nữa (Mc 2, 15; 9, 33).  Nếu quả thực như thế, thì rất có thể Ngài và  mẹ Ngài đã di chuyển về vùng này, trước khi  Ngài ra hoạt động công khai.

 

     Capharnaum ngày xưa là một thành phố ngư phủ  khá phồn thịnh (mẻ lưới lạ Lc 5, 6). Vì nằm giữa ranh  giới lãnh địa của Hêrôđê Antipas và Philippô,  nên thành phố này cũng có cả trạm thuế (thánh  Matthêu có lẽ được Đức Giêsu gọi tại thành phố này).  Dân nơi đây là dân “tứ chiếng” nên tâm lý cởi  mở, dễ dàng đón nhận giáo thuyết mới hơn những  nơi khác. Rất tiếc, ngày nay Capharnaum chỉ còn lại  những dấu vết của hoang tàn, nổi bật nhất là  ngôi nhà Thánh Phêrô và ngôi hội đường được  xây dựng vào thế kỷ thứ 2, nhưng cũng tại trên  nền hội đường cũ thời Đức Giêsu [14] . Hội đường cũ đã do một  vị quan Rôma ngoại giáo xây cất cho dân bản xứ (Lc 7,  5). Và có lẽ Đức Giêsu cũng đã nhiều lần  giảng dạy trong hội đường này. Ngoài ra, Ngài  còn hoạt động tại các vùng Nain, Cana, Khôradim, Bétsaiđa,  Nadarét là những vùng tập trung đa số dân Do Thái  sinh sống tại miền Galilê. Dĩ nhiên, còn phải kể đến  Giêru-salem, thủ đô toàn quốc của Do Thái kể từ  thời vua Đavít [15] . Cũng như các tiên tri thuở  trước, Đức Giêsu chỉ hoạt động giữa người Do Thái  và cho người Do Thái mà thôi. Ý hướng đó được  thể hiện rõ ràng qua việc Ngài lựa chọn 12 môn  đệ gồm: Simon Phêrô, Giacôbê, Gioan, Anrê, Philipphê, Bácthôlômêô,  Matthêu, Tôma, Giacôbê, Thađêô, Simon Nhiệt thành và  Giu đa Ítkariôt. Các ông thuộc đủ mọi thành phần  khác nhau, nhưng có lẽ tất cả đều xuất thân tại vùng  Galilê như Ngài, để tiếp tay với Ngài chiêu tập 12  chi họ Ítraen là: Ruben, Simêon, Lêvi, Giuđa, Dabulon,  Issakar, Dan, Gad, Aser, Nephtali, Giuse và Bengiamin, dù  thời đó chỉ còn lại có 2 chi họ rưỡi là Juda,  Bengiamin và Lêvi mà thôi. Tuy nhiên, Ngài vẫn  có cảm tình và rộng tay giúp đỡ cả những  người dân ngoại. Những vùng ngoại giáo như Sepphoris,  Skythopolis, Gabai, Hippos, Gađara, Gerasa, Xêsarêa Philíp, Tyros,  Siđon là những nơi mang dấu vết chân Ngài. Đối  với chúng ta ngày nay, rất khó có thể vẽ ra được  một lộ trình chính xác về những vùng Ngài đã  đặt chân tới. Những chi tiết địa lý do các Phúc Âm  để lại cho chúng ta, đều tương đối mơ hồ, đến nỗi ngay  cả những quả núi Phúc Âm nhắc đến, cũng  khó mà có thể được xác định trên địa hình thực tế hiện  nay là ở đâu. Đức Giêsu không giảng dạy tại một  nơi cố định, nhưng Ngài thường đi khắp nơi trong xứ Palestina,  giảng dạy bất cứ lúc nào, khi thuận tiện. Ngài  lui tới với mọi người, nhưng đặc biệt là với giới  “ Amme-ha-Arez ” (dân quê, dân nghèo).

 

 4. Thứ Tự Các Hoạt Động Theo Thời Gian

 

     Ai cũng bết, khi chép Phúc Âm, các Thánh Sử không  ghi lại các sự kiện theo thứ tự không gian và thời  gian khách quan, nhưng theo “thứ tự” thần học chủ  quan của các Ngài. Vì lưu tâm tới khía cạnh thần học  của vấn đề, nên các ngài (đặc biệt là tác giả  Phúc Âm Thánh Gioan) có thể hy sinh những tiểu tiết,  thứ tự lịch sử hoặc địa lý. Vì thế, các sự kiện mà  chúng ta đang có trong tay, đã bị “đảo lộn” đi  rất nhiều (nói theo nhãn quan khoa học lịch sử ngày  nay). Sau đây, chúng ta sẽ dựa theo phương pháp phê bình  lịch sử, để xếp đặt lại những sự kiện đó theo thứ  tự thời gian, mong có được một cái nhìn nhất quán và  liên tục về các hoạt động của Đức Giêsu. Trong cách  phân chia này, chúng ta tạm dựa theo giả thuyết cho  rằng Ngài đã hoạt động được hơn kém là 3 năm,  tức là dựa theo lập trường đi đúng với truyền thống  xưa nay của Giáo Hội.

 

Trước lễ Vượt Qua năm 27 (29): Đức Giêsu từ  sa mạc trở về vùng sông Giócđan, và được Gioan  Tẩy Giả nhường lại cho hai môn đệ là Gioan và  Anrê.- Hai vị này chiêu mộ thêm Simon Phêrô, Philipphê  và Nathanaen (Ga 1, 35-51).- Vào “một ngày thứ  ba” Ngài cùng 5 môn đệ đầu tiên đến dự tiệc cưới  tại Cana.- Sau đó, Ngài cùng mẹ Ngài và 5 môn  đệ đầu tiên di chuyển về thành phố Capharnaum bên bờ  hồ Gen-nêsarét (Ga 2, 12).

 

Dịp lễ Vượt Qua năm 27 (29): Đức Giêsu đi lên  Giêrusa-lem dự lễ; Ngài thanh tẩy đền thờ (Ga 2,  13-22) và gặp gỡ với Nicôđêmô (Ga 3, 1-21).

 

Từ đầu mùa Hè tới tháng 11 năm 27  (29): Đức Giêsu từ Giêrusalem trở lại vùng sông  Giócđan, nơi Ngài đã lãnh Phép Rửa từ tay  Gioan Tẩy Giả trước đó, để tiếp tục rao giảng. – Sau  khi bị các người thuộc phái Pharisiêu theo dõi, Ngài  bỏ về vùng Galilê qua ngả Samaria, gặp người  phụ nữ bên bờ giếng Giacób (Ga 4, 1-42) và chữa  bệnh cho đứa con của một vị quan triều đình (Ga 4, 43-54).

 

Từ cuối năm 27 (29) cho tới mùa Thu năm  28 (30) (hoặc đầu năm 29/31): Rất khó xếp đặt thứ tự cho  giai đoạn này. Vì thế, E. Stauffer cho rằng giai đoạn này  là “10 tháng thầm lặng” của Đức Giêsu. Thực  ra, Ngài không nghỉ ngơi, nhưng còn hoạt động mạnh hơn  trước, đến nỗi Gioan Tẩy Giả đã sai môn đệ mình  đến hỏi Ngài: “Thầy có phải là Đấng phải  đến hay không?” (Mt 11, 3). Có thể tạm xếp đặt giai đoạn  này lại như sau:

 

– Hoạt động âm thầm tại Galilê.

 

– Lên Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, có lẽ dự cả  lễ Ngũ Tuần nữa [16] của năm 28 (30).

 

– Chữa nhạc mẫu Phêrô, chữa một người bất  toại cùng nhiều bệnh nhân khác.

 

– Cuối Hè năm 28 (30): kêu gọi thêm môn đệ.

 

– Sau khi Gioan Tẩy Giả bị tống ngục, Đức Giêsu lại hoạt  động mạnh hơn qua bài giảng “tám mối phúc thật”  được coi như là đường hướng cho cương lĩnh hoạt động  của Ngài. – Chữa một người phong cùi (Mt  8, 1-4). – Chữa đầy tớ quan bách quân (Mt 8, 5-13). – Trừ  quỷ (Mt 12, 22-24; Lc 11, 14). – Bài giảng trên hồ  (Mc 4, 1-34). – Vượt qua biển động và trừ quỷ tại  Gêrasa (Mc 4, 35-5, 21).

 

– Cho con gái Giairô sống lại (Mc 5, 22-43). – Bị tẩy chay tại  Nadarét (Mc 6, 1-6). – Sai môn đệ đi rao giảng (Lc 9, 1).  – Rao giảng tại Giuđêa, trên đường về dự lễ Lều  Trại (cuối tháng 9) và Gioan Tẩy Giả đã sai môn  đệ đến phỏng vấn Ngài (Lc 7, 18-28).

 

Tháng 10 năm 28 (30): Ga 5, 1 cho biết Đức Giêsu  lên Giêrusalem dự “lễ của người Do Thái”.  – Chữa một người bất toại tại Bêtesđa (Ga 5, 1-15).

 

Tháng 1 năm 29 (31): Có lẽ cũng khoảng  thời gian này Philatô đã nhận tước hiệu “ amicus  Caesaris ” (bạn của Hoàng Đế) (xem: Ga 19, 12) do Sajanus  ban tặng. Sajanus là sủng thần của hoàng đế  Tibêriô khét tiếng thù ghét người Do Thái trong lịch  sử đế quốc Rôma.

 

Đầu năm 29 (31): Tại Galilê, dân chúng đặt niềm  hy vọng vào Đức Giêsu là Đấng Mêsia. – Phép lạ bánh  hóa nhiều (Ga 6, 1-13) – Cuộc tranh luận với người Do Thái  tại hội đường Capharnaum về lời hằng sống: được lưu  truyền trong Ga 6, 22-71 như là giáo huấn của Ngài  về phép Thánh Thể. Vào dịp lễ Vượt Qua năm nay, Đức  Giêsu hành hương về Giêrusalem dự lễ. Dù Thánh  sử Gioan không nhắc đến việc đó trong giai đoạn này,  nhưng Đức Giêsu đã tỏ ra rất trung thành với truyền  thống đạo đức này, và Ngài cũng không hề  bị đối phương tố cáo là đã chểnh mảng việc hành  hương, cho nên chúng ta có phép để suy ra là trong mùa  lễ năm ấy, Ngài cũng đã có mặt tại đền thánh  Giêrusalem.

 

Từ lễ Vượt Qua (tháng 4) tới lễ Lều  Trại (tháng 9) năm 29 (31): Đức Giêsu trở lại Galilê để  tránh đám đông và tránh Hội đồng tối cao Do thái giáo.  Trong thời gian này Ngài có mặt tại vùng Tyrô  và Siđon (Mc 7, 24-30). – Phép lạ bánh hóa nhiều (Mc 8,  1-9). – Ngài lánh mặt tại vùng Xêsarêa Philíp và  được Phêrô tuyên xưng: Ngài là Đấng Mêsia (Mc 8, 27-34).  – Tiên báo về cuộc khổ nạn (Mc 8, 30-32). – Cuối Hè năm  31, Ngài biến hình trên núi Tabor (Mc 9, 1-9). – Câu chuyện  dưới chân núi (Mc 9, 13-28). – Tiên báo khổ nạn lần thứ 2  (cả 4 Phúc Âm đều ghi lại); đó cũng là dịp  các môn đệ tranh ngôi, tranh quyền (Mc 9, 32-36). – Tháng 9  năm 31, Ngài hành hương về Giêrusalem dự lễ Lều  Trại.

 

Lễ Lều Trại: luôn luôn là dịp lễ  quan trọng trong cuộc đời Đức Giêsu. Lễ này kéo  dài 7 ngày cộng thêm một ngày bế mạc. Sau lễ  (Ga 7, 37), Ngài tranh luận trong Đền thờ về các tiên  tri, gây bỡ ngỡ cho Hội đồng Tôn giáo (Ga 7, 37-52).  – Đêm trước ngày bế mạc, Đức Giêsu lên núi Cây Dầu.  – Ngày bế mạc, Ngài tranh luận với Ký Lục và  Biệt Phái về ánh sáng thế gian (Ga 8, 12tt) nên bị họ đe ném  đá. Thế là Ngài ra khỏi Đền thờ (Ga 8, 59).  – Gặp người mù từ lúc mới sinh, Ngài chữa  lành, nhưng vì là ngày Sabbat nên bị các người  Biệt Phái phản đối (Ga 9, 1-14). – Sau đó, Ngài trở  về Galilê.

 

Mùa Đông năm 29 (31) (tháng 11/12): Đức Giêsu  hành hương về Giêrusalem dự lễ Cung hiến Đền thờ  (Lc 9, 51-10, 24). – Dân Samaria không cho Ngài trọ nhà  (Lc 9, 52-56). – Ngài sai 70 (72)  [17] môn đệ đi trước, rao giảng tại miền Giuđêa (Lc 10,  1tt). – Ngài đến thăm chị em Maria, Mácta và Ladarô  (Lc 10, 38-42). – Trong dịp lễ, Ngài bị dân chúng vặn  hỏi, có phải là Đấng Mêsia hay không? Ngài  giải thích, nhưng bị đe dọa ném đá (Ga 10, 22-39). – Lễ  xong, Ngài về ẩn lánh tại vùng bắc Pêraia (Ga 10,  40), bên kia sông Giócđan, có lẽ cũng là chỗ  Gioan Tẩy Giả đã làm phép rửa trước kia (Bêthabara).

Ngài lánh mặt tại Pêraia: Pêraia nằm ở  phía Đông Bê-thania và không xa nơi này nhiều lắm. Khi nghe tin Ladarô đau nặng, Chúa còn ở đó thêm 2  ngày – Khi đến Bêthania, Ngài đã làm cho Ladarô  sống lại (Ga 11, 1-44). – Sau đó, Hội đồng Tôn giáo họp lại  tìm cách khai trừ Ngài, vì lý do có liên hệ tới vụ  Ladarô (Ga 11, 45-53) [18] –Ngài lánh  mặt sang vùng Êphraim (Ga 11, 54), nằm khoảng 20  km phía Bắc Giêrusa-lem và gần sa mạc (III, 290-293).

 

 III. CUỘC KHỔ HÌNH VÀ TỬ NẠN CỦA  ĐỨC GIÊSU

 

 1. Cuộc Khải Hoàn Vào Thành Giêrusalem

 

Theo Ga 11, 54, thì Đức Giêsu từ Ephraim, nơi Ngài đang  lánh mặt, trở về Giêrusalem; Còn theo Lc 17, 11, thì  Ngài lại khởi hành từ phương Bắc. Dầu sao đi  nữa, Ngài cũng phải bắt đầu lên đường  trước ngày đại lễ khoảng 2 tuần. – Trên đường  về, Ngài chữa lành 10 người phong cùi (Lc  17, 11-19) ngoài thành Giêrihkô. – Vào ngày  thứ Năm (trước Chúa Nhật lễ Lá hiện nay), Ngài chữa  thêm một người mù nữa. – Gặp Giakêu (Lc 19, 1-10)  và nghỉ tại nhà ông đêm thứ Năm rạng ngày thứ  Sáu. – Sáng hôm sau, Ngài tiếp tục cuộc hành trình  đi về Giêrusalem. Đêm đó, có thể Ngài nghỉ tại nhà  Ladarô, hoặc có thể nghỉ ngay tại núi Cây Dầu theo thông  lệ. Nhưng dù sao chăng nữa, chắc chắn vào ngày  Sabbat hôm sau Ngài đã có mặt tại Bêthania, để vào  Hội đường cầu nguyện. – Sau khi ở Hội đường về,  Ngài tới nhà Simon dùng bữa trưa và được  Maria xức dầu thơm (Ga 12, 1-8). – “Vào ngày hôm  sau” (Ga 12, 12), tức là ngày thứ nhất trong tuần  (Chúa Nhật lễ Lá hiện nay) Ngài từ Bétphagê đi  vào thành Giêrusalem, được đa số dân chúng tiếp đón  bên đường (Lc 19, 28-40). Khi tới núi Cây Dầu, Ngài  dừng chân nhìn về Giêrusalem và khóc thương cho số  phận thành này (Lc 19, 41-44). – Sau cuộc khải hoàn,  Ngài lại vào Đền thờ. Có thể xếp đoạn Phúc Âm  nói về việc Ngài “thanh tẩy Đền thờ (lần thứ  hai)” vào trong khoảng thời gian này.

 

 2. Từ Chúa Nhật Tới Thứ Tư Tuần Thánh

 

     Có thể xếp các sự kiện lại như sau: Ngài bị vặn hỏi  là có nên nộp thuế cho hoàng đế hay không? (Mt 22,  15-21 ss). – Tranh luận với nhóm Sađuxê về sự sống lại (Mt  22, 23-33 ss). – Che chở người đàn bà ngoại tình  khỏi bị ném đá (Ga 8, 1-11). Matthêu còn thêm nhiều  sự kiện khác nữa trong khoảng thời gian này  (22, 34-40; 22, 41-46; 23, 1-36; 22, 1-14; 24, 1-51; 25, 1-13; 25,  14-32; 25, 31-46). Tuy nhiên, cũng không có gì là phi  lý nếu chúng ta xếp các sự kiện này vào một khoảng  thời gian sớm hơn.

 

 3. Từ Thứ Tư Tới Thứ Sáu Tuần Thánh

 

     Thời gian này tuy ngắn ngủi, nhưng rất phức tạp,  vì các Thánh Sử đã rút gọn các biến cố lại rất  nhiều. Thêm vào đó, còn phải kể tới những  chi tiết khác biệt giữa các Phúc Âm. Theo các Phúc  Âm Nhất lãm (Mc 14, 12 ss), thì bữa Tiệc Ly của  Đức Giêsu là bữa tiệc mừng lễ Vượt Qua; còn  theo Phúc Âm Thánh Gioan, thì bữa tiệc Vượt Qua này  lại diễn ra vào chiều ngày thứ Sáu, nghĩa là  khi Ngài chịu chết trên thập giá. Như thế, theo Phúc Âm  Thánh Gioan, bữa Tiệc Ly không phải là bữa  tiệc Vượt Qua. Điểm khác biệt tuy nhỏ, nhưng có một tầm  mức thần học quan trọng. Có thể quyết điểm khác biệt một  cách tạm ổn thỏa với giả thuyết cho rằng Thánh Gioan  đã hy sinh tiểu tiết lịch sử, để làm nổi bật khía  cạnh thần học của việc Đức Giêsu chịu chết: Ngài  chịu tử nạn như một con chiên hy tế trong lễ Vượt Qua,  vì Ngài mới là Con Chiên hy tế đích thực, thay thế  cho con chiên vượt qua trong Cựu Ước.

 

 a) Bữa Tiệc Ly Vào Ngày Nào Trong  Tuần?

 

     Một số tác giả cho rằng Đức Giêsu dùng bữa Tiệc  Ly không phải vào tối thứ Năm (như Giáo Hội vẫn  thường mừng lễ từ trước tới nay), nhưng là  vào tối thứ Ba. A. Jaubert (La Date de la Cène.  Paris 1957) nghiên cứu và cho biết là các tu sĩ sống  tại vùng Qumran đã dùng một thứ lịch riêng, khác  với loại lịch thông dụng thường được dùng tại Giêrusalem.  Loại lịch của nhóm Qumran này căn cứ theo sách Giôben  và tính theo mặt trời; trong khi đó, loại lịch tại Giêrusalem  lại tính theo mặt trăng! Điều này được các văn bản  thời đó (thí dụ: 1 QM 2, 1-2) chứng minh là đáng tin  cậy.

 

Do đó, người ta cho rằng vào thời Đức Giêsu đã  có hai thời điểm để mừng lễ Vượt Qua. Nhưng dù  tính theo loại lịch nào chăng nữa, thì ngày lễ  Vượt Qua luôn luôn phải là ngày 15 tháng Nisan.  Tuy nhiên, nếu tính theo mặt trời, thì ngày này  luôn luôn là ngày thứ Ba trong tuần; còn nếu tính  theo mặt trăng, thì lễ này chuyển dịch khác nhau theo  các ngày trong tuần (VIII, 281).

 

     Kết luận: lễ Vượt Qua theo niên lịch của nhóm Qumran  trong năm Đức Giêsu chịu tử nạn phải là ngày  thứ Ba. Nếu theo giả thuyết này, chúng ta sẽ giải  quyết được nhiều khúc mắc cho ngành chú giải về giai  đoạn này trong cuộc đời Đức Giêsu. Cho nên không lạ  gì, khi thấy giả thuyết này được J. T. Milik… và  mới đây E. Ruckstuhl ủng hộ nhiệt liệt. E. Ruckstuhl (xem:  Zur Chronologie der Leidensgeschichte Jesu , lần cuối cùng  in trong: — , Jesus im Horizont der Evangelien (SBAB 3).  Stuttgart 1988, 101-139; 141-184) còn lý luận cho rằng các  phiên tòa xét xử Đức Giêsu không thể giải quyết  quá lẹ trong một đêm thứ Năm như vậy được, nhất là khi  Ngài lại bị áp giải đi đi lại lại mấy lần như thế.  Ruckstuhl còn đi xa hơn nữa, khi cho rằng Đức Giêsu cũng  dành rất nhiều cảm tình cho nhóm Qumran[19] , và kẻ cho Chúa  mượn phòng dùng bữa Tiệc Ly rất có thể là  một người trong nhóm này thuộc chi nhánh tại Giêru-salem.

 

     Dù thế, chúng ta vẫn tạm chọn ngày thứ Năm là  ngày Đức Giêsu dùng bữa Tiệc Ly – đúng theo lập  trường của truyền thống xưa nay trong Giáo Hội, – để  phân định các biến cố như dưới đây:

 

     Sau trưa ngày thứ Năm, Đức trao trọng trách cho Phêrô  và Gioan lo chuẩn bị mừng lễ. Nếu Ngài đã  thực sự ăn chiên Vượt Qua trong dịp này, thì bắt buộc  Phêrô và Gioan phải kiếm chiên mà giết trong Đền  Thờ theo luật định. Nếu không, các ngài vẫn có  thể giết chiên tại nhà, nhưng như thế không thể gọi là  chiên Vượt Qua được. Khi trời vừa tối, Đức Giêsu đi  tới nơi dự tiệc. Tiệc này chỉ được dùng trong vòng  đai của thành thánh Giêru-salem mà thôi. Bữa  ăn thường kéo dài từ lúc mặt trời lặn cho  tới mãi nửa đêm. Nếu thực sự bữa này là  bữa tiệc Vượt Qua, thì tất cả thực khách phải  ăn theo thế nằm và uống rượu theo luật định. Luật buộc  uống rượu nhằm làm nổi bật tính cách đại tiệc của  bữa Vượt Qua, vì thời đó không phải ngày nào  cũng có rượu mà uống! [20] . Khi dùng bữa xong, có thể Đức  Giêsu đã ghé qua Đền Thờ, vì từ đêm nay Đền Thờ  đã bắt đầu mở cửa để mừng lễ Vượt Qua.  Sau đó Ngài mới đi ra vườn Giệtsêmani (nghiã là:  máy ép dầu) nằm tại chân núi Cây Dầu. Nếu không ghé qua  Đền Thờ, thì Ngài sẽ tới núi Cây Dầu vào  khoảng 12 giờ đêm; còn nếu có ghé qua Đền Thờ,  thì Ngài sẽ đến đó trễ hơn lối một giờ, nghiã  là vào khoảng một giờ sáng ngày thứ Sáu.  Đêm nay, nếu Ngài có bỏ thành Giêrusalem mà  ra núi Cây Dầu, cũng không có gì là vi phạm luật  lệ lễ Vượt Qua cả. Vì khu vực núi Cây Dầu, tuy nằm  ngoài tường thành của thánh đô, nhưng vẫn  được luật nhân nhượng kể là khu vực hành lễ,  bởi lẽ con số khách hành hương lên quá cao trong  những dịp như thế. Theo W. Steark, trong thời Đức Giêsu,  thủ đô Giêru-salem có tới 200.000 dân cư; trong khi đó,  J. Jeremias ước lượng chỉ vào khoảng 55.000 hoặc cao  lắm là 95.000. Theo thiển ý, con số 55.000 đáng tin hơn.  Nếu thế, vào dịp lễ Vượt Qua, số khách hành hương  khắp nơi (cả từ những vùng diaspora ) tuốn  về thêm khoảng 125. 000 người nữa. Tổng cộng, có  tới 180.000 người có mặt tại thủ đô bé nhỏ này  trong dịp đó. Như thế là quá chật chội, buộc phải  nới vòng đai hành lễ thêm ra.

 

     Có lẽ cũng vì quá chật chội như thế mà Đức Giêsu  đã ra núi Cây Dầu để cầu nguyện. Nhưng thực ra Ngài  ở đó không được lâu, vì khoảng một hoặc hai giờ  sáng (dù có ghé qua Đền Thờ hay không), Ngài đã  bị bắt đem đi.

 

 b) Bị Bắt Và Ra Tòa

 

     Ai đã bắt Ngài? Theo Mc 14, 43, thì một đội quân trong  Đền Thờ, do các Thượng tế, Ký lục và Kỳ lão  sai đi, đã đến bắt Ngài. Một số thành viên của  3 phe này làm thành Tòa án tối cao của  Do thái giáo (Synhedrion ). Còn theo Mt 26, 47, thì đội  quân đi bắt Ngài là do Thượng tế và Kỳ lão  sai đi (không có các Ký lục). Trong khi đó, Lc 22, 52 lại cho  biết là đích thân các Thượng tế và Kỳ lão  cùng đội quân Đền Thờ của họ đã ra tay bắt  Ngài! Ga 18, 3 cho biết thêm: ngoài đội quân của  Thượng tế và Biệt phái còn có cả một cơ binh (speira ) cùng một cơ đội trưởng (chiliarchos :  18, 12) đã nhúng tay hợp tác vào trong việc này.  Chi tiết này hơi phi lý, vì một “ speira ” của  đội quân Rôma có tới 600 người! Hơn nữa, nếu chính  người Rôma đi bắt, thì họ đã giải Đức Giêsu về  thẳng với vị quan của họ là Philatô rồi! (VIII, 292t).

 

     Bắt được Ngài là nhờ có sự cộng tác của  Giuđa Ítcariốt, một trong nhóm 12 tông đồ của Ngài.  Có tác giả cho rằng, có lẽ trước khi theo Đức Giêsu,  Giuđa đã có chân trong “mặt trận cứu quốc” giữa  người Do thái. Chữ Hy lạp ” Iscariôtês ” có thể  bắt nguồn từ chữ Latinh “ sicarius ” và  có nghĩa là: người mang đoản kiếm (siqarim ).  Ở điểm này, còn một thắc mắc khác nữa:  nếu Giuđa đã thực sự bỏ đi ra sau khi dùng món  khai vị trong bữa Tiệc Ly – như từ trước tới nay chúng  ta vẫn ước đoán , thì lúc đó trời còn sớm; tại  sao Giuđa đã không dẫn người tới bắt Thầy mình  ngay tại nhà Tiệc Ly, mà lại phải đợi để bắt  tại núi Cây Dầu?

 

     Vào khoảng 2 hoặc 3 giờ sáng ngày thứ Sáu,  Đức Giêsu bị điệu đến trước mặt Thày cả Thượng phẩm  Hanna và bị vị này chất vấn. Theo Josephus Flavius  (Ant. 20, 198), Hanna là một trong những người  được coi là có phúc nhất thời đó, vì ông có những  5 người con thuộc hàng thượng tế. Chỗ khác (De  Bello Judaico 5, 506), Josephus Flavius còn cho biết là  mộ phần của Hanna nằm ở phía Nam thành phố Giêrusalem.  Cuộc điều tra tại dinh Hanna chỉ kéo dài khoảng một  tiếng đồng hồ, tức khoảng 3 hoặc 4 giờ sáng là  xong, nghĩa là đúng vào lúc gà gáy nhắc nhở  Phêrô, vào “lúc ngày mới vừa bắt đầu”  (Lc 22, 66). Sau đó, Hội đồng tối cao nhóm họp. Cơ quan này  là Tòa án Tối cao của Do thái, cũng gọi là  Tòa Đại hình (beth dijn ha-migdol ), gồm 70 thành  viên cộng thêm Thày cả Thượng phẩm đương nhiệm. 70  thành viên này thuộc 3 phe khác nhau: Thượng tế, Ký  lục và Kỳ lão; nhưng trong thực tế, phe Thượng  tế có nhiều thế lực hơn 2 phe kia. Theo các Phúc Âm Nhất  lãm, cơ quan này đã nhóm họp vào đêm hôm đó  (Mc 10, 53-65 ss) tại Đền Thờ. Còn theo Phúc Âm  Thánh Gioan (18, 12-14. 19-24), thì sau khi Đức Giêsu bị Hanna  (nhạc phụ Caipha) thẩm vấn, Ngài đã bị điệu tới nhà  Caipha.

 

     Như đã biết, theo sách Mishna – được chép vào  năm 200 sau CN, nhưng có lẽ lề lối này đã được  áp dụng ngay từ thời Đức Giêsu , cơ quan này chỉ  họp vào ban ngày mà không họp ban đêm như các  Phúc Âm Nhất lãm đã cho biết, nhất là vào  trong đêm mừng lễ Vượt Qua thì lại càng phi lý.  Hơn nữa, trên phương diện pháp lý, nếu cơ quan này  đã chính thức họp, thì họ có toàn quyền sinh sát mà  không cần đến ý kiến của chính quyền bảo hộ Rôma!  Họ có quyền xử tử công dân Do thái. Dĩ nhiên, hình  thức án phạt không phải là đóng đinh nhưng chỉ là  ném đá. Trái lại, như chúng ta thấy trong trường hợp Đức  Giêsu, họ đã dùng đến cánh tay của Philatô, đại  diện cho chính quyền Rôma. Như thế, điều phi lý này chỉ  giải thích được với giả thuyết cho rằng: Cơ quan này  đã không chính thức họp vào đêm đó, nhưng cùng  lắm là chỉ gặp nhau tại dinh Thày cả Thượng phẩm  với tư cách riêng tư, để hội ý, điều tra và tìm cách  kết tội Đức Giêsu sao cho hữu hiệu mà thôi (VIII,  294-298.771).

 

     “Tới sáng” họ lại áp giải Ngài tới dinh Tổng  trấn Philatô (Mc 15. 1). Philatô là vị Tổng trấn thứ 5  của Rôma tại vùng đất này. Theo Philô (Legato  ad Gaium , 301-302), thì Philatô là người “cứng  cổ, ngang ngược và đanh thép” đã “có những  hành vi hối lộ, hung tàn, trộm cướp, ngược đãi,  nhục mạ, có thể đem ra xử tử mà khỏi cần  tòa án, cọng thêm nhiều chuyện cực kỳ tàn nhẫn  khác”. Đức Giêsu bị áp giải tới Philatô vào một  “buổi sáng”. Đó là một chi tiết khá xác thực,  vì hợp với quy định pháp lý trên thực tế. Theo quy định, tòa  án Rôma thường bắt đầu nhóm họp vào lúc trời  vừa mới hừng đông. Ngoài ra, một phiên tòa  Rôma phải hội đủ 4 điều kiện: (1) công khai, (2) người  tố cáo phải là dân sự, (3) bị cáo có quyền bào  chữa và (4) phải do một hội đồng (consilium )  tuyên án. Dưới thời Hoàng Đế Augustô, vị quan Tổng  trấn là Thẩm phán duy nhất. Ông có thể có thêm cộng  sự viên, nhưng không bị lệ thuộc vào phán quyết của  những người này (xem: Cv 25, 12) (XI, 298t). Trong  phiên tòa xử Đức Giêsu, rất có thể là Philatô  đã dùng tới thông dịch viên, khi phải thẩm vấn  Ngài. Phiên tòa này đã diễn ra một là  tại pháo đài Antônia, nằm ở phía Tây Bắc Đền thờ;  hai là tại trong cung điện Hêrôđê, nằm gần cổng Giáppha,  phía Tây thành Giêrusalem, trong trường hợp dinh Philatô  cũng nằm trong khu vực của hoàng cung (VIII, 309).  Tuy nhiên, từ thế kỷ 12 người ta cho rằng phiên  tòa xử Đức Giêsu có lẽ đã diễn ra tại  pháo đài Antônia. Vì vào những ngày đại lễ  như thế, Philatô phải có mặt tại pháo đài này  để trực tiếp chỉ huy việc giữ an ninh trật tự nơi đền  thờ. Ngoài ra, Ga 19, 13 cũng cho biết: “Khi Philatô  nghe thế, ông liền dẫn Đức Giêsu ra ngoài, rồi ngồi  trên ghế thẩm phán (chính ông ngồi lên hay ông bắt Đức Giêsu  ngồi lên: có hai cách dịch), nơi chỗ gọi là lithostrotos ,  tiếng Do thái gọi là Gabbatha. “Gabbatha ” có nghĩa  là một “chỗ cao”; có lẽ cũng là  một chỗ nào đó trong pháo đài này. Nếu thực  sự phiên tòa đã diễn ra tại đây, thì cũng  nên biết là nơi này có thể chứa được từ 4.000  cho tới 4.500 dân chúng vào tham dự, vì bên trong pháo  đài có một sân rộng tới 2.500 mét vuông (VII, 773). Tuy  nhiên, giả thuyết này vẫn bị nghi ngờ, vì không  trả lời được câu hỏi: tại sao bà vợ của  Philatô cũng có mặt tại nơi đây trong những ngày  “lộn xộn” như vậy.

 

     Bản án công khai treo trên đầu thập giá Đức Giêsu tiết  lộ cho chúng ta biết “tội trạng” chính thức, dựa theo  đó người ta đã xử tử Ngài: mưu đồ xưng  vương. Đó là một tội phạm chính trị, có hại cho nền an  ninh công cộng của đế quốc Rôma. Ngoài ra, còn  biết được rằng những tội nhân bị án phạt đóng đinh trên  thập giá trong khoảng thời gian từ lúc Rôma đến  bảo hộ vùng này cho tới khi kết liễu chiến  tranh Do thái, tất cả đều bị kết án vì lý do chính trị  như thế (VIII, 291). Nhưng nếu sự thực chỉ có thế (Philatô  kết án Đức Giêsu, vì sợ Ngài nổi loạn), thì làm sao  mà dằn lòng cho khỏi thắc mắc như thế này  được: tại sao ông Philatô lại không cho “vơ gọn” luôn  tất cả các môn đệ của Ngài? Như vậy, có lẽ  sự thật thực ra còn phức tạp hơn nhiều! Thật sự, phiên  tòa này là kết quả của một cuộc tranh  chấp tôn giáo giai dẳng nhiều năm tháng. Qua các Phúc Âm,  chúng ta được biết Đức Giêsu thường công khai chỉ trích  cách thức giữ luật và lề lối sống đạo của các  người Do thái (nhất là giới lãnh đạo) đương thời.  Cao điểm là việc thanh tẩy Đền thờ. Cho nên, như đã  nói ở trên, nhiều tác giả chủ trương cho rằng  chính việc thanh tẩy này là nguyên nhân trực tiếp  đã khiến người ta quyết định trừ diệt Ngài.  Như thế, lý do chính trị chỉ được viện dẫn ra để làm  “bình phong” cho một vụ án tôn giáo khá mờ ám  mà thôi. Trong hình luật Rôma, người ta cũng thấy  có ghi lại hai loại tội đáng lãnh án tử hình, là:  (1) phản quốc (đế quốc Rôma) (perduellio ) và  (2) làm mất thể diện oai phong của quốc dân Rôma (crimen maiestatis populi Romani imminutae ). Những lời  giới thẩm quyền Do thái buộc tội Đức Giêsu hằm rất đúng  vào 2 loại tội ghi trong hình luật này (VIII, 291. 308).

 

     Sau khi thẩm vấn xong, Philatô cho điệu Đức Giêsu tới gặp  Hêrôđê, vì Philatô cho rằng ông vua này mới có quyền  trên Ngài là người Do thái. Nhưng Hêrôđê không  xử, lại trả về cho quan Tổng trấn. Vì không tìm ra  được lý do chính đáng, nên Philatô dự tính chỉ cho lính đánh  đòn rồi tha Ngài; nhưng vì bị phản đối, nên buộc  lòng ông phải kết án và cho thi hành án lệnh.  Phiên tòa kết thúc vào lúc 12 giờ trưa: “khoảng  giờ thứ 6, nhằm ngày chuẩn bị mừng lễ Vượt  Qua” (Ga 19, 14). Quân lính áp giải Đức Giêsu đi đánh  đòn, rồi đóng đinh trên thập giá, theo bản án.

 

 c) Trên Thánh Giá

 

     Trước khi bị điệu đi đóng đinh, Đức Giêsu còn bị lôi ra  đánh đòn theo thông lệ. Đánh đòn đây không phải  là để tra tấn nữa, nhưng là để tiến hành phần  “dạo đầu” đương nhiên của bản án đóng đinh.  Từ thời Catô đã có luật bảo vệ người  công dân Rôma cho khỏi bị đánh đòn. Xêdar coi đó là  một hình thức hành hung tàn nhẫn. Khi đánh đòn,  lý hình thường dùng một sợi giây da kinh khủng  (horribile flagellum ),đầu giây có gắn xương khô, gai  nhọn hoặc những hạt chì. Nạn nhân thường bị lột áo  ra, nằm dưới đất hoặc bị trói vào cột. Số roi thường  không cố định, nhưng tùy hứng và tùy sức của  lý hình (VIII, 308tt).

 

     Bản án đóng đinh trên thập giá là một bản án  rất phổ thông của người Rôma dành cho phường  phản loạn. Cicêrô (Pro Rabirio 5, 16) coi đó là  “bản án tử hình tàn nhẫn và ghê sợ  nhất”. Josephus Flavius (Bell . 7, 203) cũng coi đó  là “một cách chết thương tâm nhất”. Đây cũng  là hình phạt dành cho hạng nô lệ (servile supplicium ) (Tacitus, Historiae 4, 11). Đối với một công dân Rôma,  muốn đóng đinh họ, trước hết buộc phải tước quyền công  dân của họ đi (VIII, 312).

 

     Đức Giêsu phải vác thập giá đi ngang khu phố cao của  kinh thành Giêrusalem, qua cổng Gênnath, gần tháp Hippikus,  mà tiến ra pháp trường nằm phía ngoài dãy tường  thành phố. Hippkus, Phasael và Mariamme là tên của  ba cây tháp nằm ở phía Đông Bắc cung điện Hêrôđê. Theo  luật Rôma và đồng thời cũng hợp với phong tục  Do thái, thì bản án phải được thi hành bên ngoài  thành phố. Con đường đau khổ Đức Giêsu phải đi  (Via Dolorosa  [21] ) chỉ dài chừng vài cây số mà  thôi.

 

     Tấm bảng kể tội Đức Giêsu được viết bằng 3 thứ tiếng  (Ga 19, 20)[22] – sau này sẽ được đóng trên đầu  thập giá – có thể đã do một người được lệnh cầm  đi phía trước đoàn người hành quyết, hoặc là  đã được lý hình đem treo ngay vào cổ “tội nhân”,  lúc còn trên đường tiến ra pháp trường. Họ bắt  tội nhân vác thập giá đi công khai như thế, nhằm cảnh  cáo những kẻ bên đường. Tội nhân phải tự  vác thanh ngang (patibulum ) của thập giá. Nếu họ  bắt ông Simon quê Xyrênê (Mc 15, 21 ss) vác đỡ thập giá,  thì không phải ông này đã chung vai vác với Đức  Giêsu (như thường thấy trong các bức tranh…), nhưng là  phải vác thay hẳn cho Ngài. Đây là nghĩa vụ “lao  công chiến trường” rất phổ thông dành cho những  người Do thái thời đó, nhất là trong các dịp lễ  quan trong như lễ Vượt Qua (VIII, 310).

 

     Pháp trường là ngọn đồi Gôngôta (Golgotha ).  Các Thánh Sử đều dịch là “núi Sọ” (Mc 15, 22  ss). Gôngôta bởi tiếng “ golgolta ” (bỏ mất  một chữ “l”) của Do thái và có nghiã là:  cái sọ người, một khối tròn. Ngọn đồi này mang  tên như thế có lẽ vì hình dáng của nó trông giống  như một cái sọ. Không rõ đây có phải là pháp  trường cố định hay chỉ là nhất thời mà thôi.  Ngọn đồi này nằm gần chỗ bức tường (thường  gọi là bức tường thứ hai) phía Bắc quặt về hướng  Tây, tức là ở chỗ Đền thờ Đấng Cứu Thế (có  mồ Đức Giêsu ở phía trong) hiện nay. Thực ra, Đền thờ  này đã được xây cất lần đầu, khi Thánh Hêlêna, từ  mẫu của Hoàng đế Conxtantinô, được thị kiến cho  biết nơi đó là pháp trường của Đấng Cứu Thế ngày  xưa. Còn đền thờ hiện nay mới được Thập tự quân xây  lại hồi thế kỷ 12, cũng nằm trên nền đền thờ  cũ. Do đó, từ thế kỷ thứ 4 tới nay, nơi đây vẫn  được coi là nơi Đức Giêsu đã bị treo trên thập giá  và đã được mai táng trong mồ. Tuy nhiên, khoa khảo  cổ chỉ tìm thấy nơi đây những vết tích từ thời  Hoàng đế Conxtantinô mà thôi. Công cuộc khai quật  của U. Lux-Wagner vào những năm 1971-1974 cho biết  là Gôngôta (nếu thực sự nằm ở đấy), thì chỉ cao khoảng  12 mét so với đáy của hầm đá bên cạnh. Chi tiết này  cắt nghiã tại sao khách hành hương từ Bordeaux tới  Giêrusalem vào năm 333, đã gọi Gôngôta là ” monticulus ”  (núi nhỏ, đồi bé). Cho tới nay, trong giới khảo cổ  cũng như giới chú giải Kinh Thánh, chưa ai dám xác  định cho chắc 100% vị trí của Gôngôta ngày xưa là  ở đâu. Vì thế, một nơi khác gọi là “Gordon’s  Calvaria ,” nằm ở phía Bắc thành phố Giêrusalem, cũng  thường được đề ra làm giải đáp thứ hai. Thực ra,  rất khó mà xác định Gôngôta nằm ở đâu, vì từ  thời Đức Giêsu cho tới nay, tường thành Giêrusalem  đã bị phá đổ và được xây lại nhiều lần. Thêm vào  đó, vòng đai thành phố mỗi ngày một rộng thêm  ra (XI, 310tt; IX, 773). Đến nỗi, ngay cả tên các cổng  thành ngày xưa và ngày nay cũng không còn  đồng nhất với nhau nữa.

 

     Khi bị đóng đinh như thế, tử tội sẽ bị đóng đinh hoặc  cột chặt hai tay vào thanh ngang (patibulum ) mà  chính mình đã vác trước đó, rồi bị dựng đứng lên. Lý  hình sẽ tìm cách ghép thanh ngang này cùng với tội  nhân vào thanh dọc là một cây cột đã dựng sẵn,  làm thành thập giá hình chữ T (crux commissa )  hoặc hình chữ  (crux immissa ). Trong trường hợp  Đức Giêsu, có lẽ Ngài không được cột hai tay nhưng  đã bị đóng đinh thực sự vào thập giá. Ga 20, 25 và  Lc 24, 39 tiết lộ cho biết rõ điều đó. Nếu đóng đinh,  thì đinh được đóng vào cổ tay, chứ không phải trong  lòng bàn tay (như thường thấy nơi các tượng chịu  nạn). Và để sức nặng không làm cho thân xác của  tội nhân xệ xuống hoặc bứt ra khỏi thập giá, thì người  ta thường gắn thêm một cái kệ để đỡ chân (sedile ).

 

     Vì thập giá cũng không cao hơn thân hình tội nhân bao nhiêu,  nên đôi chân của họ thường bị đóng theo thế cong vòng:  nạn nhân không thể duỗi thẳng chân ra được. Ngành  khảo cổ đã khai quật được bộ xương của một người  bị đóng đinh vào khoảng trước năm 70 sau CN, và  nhờ đó mà có thêm bằng chứng cho điều vừa mô  tả trên đây: cây đinh còn dính liền với bộ xương vừa  nói, chính là cây đinh đóng thâu qua hai chân của tội  nhân (VIII, 311).

 

     Đức Giêsu bị đóng đinh vào lúc 13 giờ (1 giờ trưa),  trùng với khoảng thời gian ông Simon từ ngoài  đồng trở về nghỉ trưa, vì tháng đó, trời đã bắt  đầu nắng gắt. Các Phúc Âm Nhất lãm còn nói thêm:  từ giờ thứ 6 tới giờ thứ 9, trời đất bỗng  ra tối tăm (Mc 15, 33). Chi tiết này không gặp trở  ngại nhiều cho cách tính giờ của chúng ta. Thời  bấy giờ, khi nói vào giờ thứ 6 thì có thể hiểu  cả những giờ sau giờ thứ 6 nữa, tương tự  như tiếng “hồi trưa” của Việt Nam, không nhất thiết  là phải đúng 12 giờ trưa (III, 295).

 

Khi đóng đinh xong, lý hình có quyền chia nhau y phục của  tội nhân. Đây là một thông lệ khá cổ điển. Nếu tội  nhân còn tiền bạc và tài sản gì khác, thì  sẽ bị xung vào công quỹ của quan Tổng trấn.  Trường hợp Đức Giêsu, lý hình chỉ có thể chia nhau chiếc  áo trong, chiếc áo ngoài, một giây thắt lưng và cùng  lắm là thêm một chiếc khăn che đầu nữa mà thôi.  Ngài không còn có gì hơn nữa. Ngài sống khó  nghèo. Ngài cũng sống như tiêu chuẩn chính Ngài  đã đề ra cho các môn đệ Ngài, khi sai họ đi rao giảng:  Các con chớ mang bị, chớ mang hai áo, giày dép và gậy  gộc! (xem: Mt 10, 10 ss). Khi tranh luận về vấn đề có nên nộp  thuế cho Xêdar hay không, Ngài đã xin người ta cho  Ngài xem một đồng tiền (Mc 12, 15). Có tác giả cho  rằng có lẽ vì Ngài chưa hề biết đến “mặt mũi”  đồng tiền ra sao cả.

 

     Khoảng 2 giờ chiều, những kẻ lên án Ngài  bỏ ra về, để xin Philatô chuẩn bị cho cất xác các nạn  nhân xuống. Họ tin rằng, mọi sự đều đã thi hành theo  đúng quy định Rôma: đánh dập ống chân, cất xác xuống rồi  thủ tiêu. Tất cả mọi hành vi đều có lính canh  chừng kiểm soát. Những tên lính đứng canh dưới chân  thập hình có hai nhiệm vụ như sau: (1) chứng thực cái chết  của tội nhân và (2) nếu quá hạn mà nạn nhân  chưa chết, thì lo đập dập ống chân cho mau chết. Khoảng  3 giờ chiều. Đức Giêsu tắt thở. Ngài đã chết  thật, không phải chết giả hoặc chưa chết hẳn, như  người ta vẫn thường vu khống từ 2000 năm qua.  Có một điểm khác biệt không thể bỏ qua, gặp thấy trong  các trình thuật Phúc Âm ghi lại các biến cố của giờ  phút nghiêm trọng này: theo các Phúc Âm Marcô và  Matthêu, trước khi tắt thở, Đức Giêsu đã lớn tiếng  than rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con?”  (Mc 15, 34 ss). Đó là một câu (2a) trong Thánh vịnh 22 (21).  [23] . Theo Phúc  Âm thánh Luca, Đức Giêsu đã đọc một lời kinh chiều  quen thuộc của Do thái giáo: “Con xin phó dâng linh  hồn con trong tay Chúa”  [24] , và xin tha cho  những kẻ đóng đinh Ngài (23, 34. 46). Còn theo  Phúc Âm thánh Gioan, thì Đức Giêsu đã thốt ra lời:  “Mọi sự đã hoàn tất” (19, 30). Có lẽ là  vì mỗi phúc âm gia đều nhằm một tiêu đích riêng, và  đều phải “đưa tim mừng” cho nhiều loại thính  giả/độc giả khác nhau, nên trong lúc trình thuật, đã  lưu ý đặc biệt đến những điểm đáp ứng nhiều hơn cho nhu  cầu công tác của mình, và không thấy cần phải  kể lại một số chi tiết khác. Hoặc là: trong lúc “sưu  tầm” (Lc 1, 3), mỗi phúc âm gia đã gặp thấy một  số chi tiết trong cuộc đời của Đức Giêsu, được kể  lại trong số tài liệu mình có, nhưng lại không thấy nói  tới ở trong những nguồn tài liệu mà các phúc  âm gia khác thu thập được.

 

     Sau khi Đức Giêsu tắt thở, Giuse Arimathia đã đến xin  Philatô cho cất xác Ngài xuống để mai táng. Theo luật  Rôma, xác tử tội không được tháo xuống khỏi thập  giá, nhưng cứ để rữa ra cho chim trời tới ăn. Sau đó,  nếu còn gì sót lại, thì mới được đem hủy đi, bình thường  là quẳng xuống sông. Giáo Hội thời sơ khai thường  không lấy được xác các vị tử đạo về là vì như thế.  Nếu muốn lấy xác về an táng, thì phải có phép đặc biệt.  Chính thân nhân của kẻ xấu số phải đứng ra xin.  Nhưng nếu bị kết án vì tội perduellio (phản quốc)  như trường hợp Đức Giêsu, thì rất khó. Ngược lại, theo  luật Do thái, nạn nhân bị tử hình trên thập giá phải  được chôn cất ngay. Làm thế không phải vì cảm  thương người xấu số, nhưng vì sợ tên tử tội sẽ  đem lại tai họa cho xứ sở và làm ô uế việc phụng  tự. Đệ nhị Luật 21, 23 quy định rằng: “Xác chết không được  để qua đêm trên thập hình, nhưng phải được chôn cất ngay  trong ngày đó, vì kẻ bị đóng đinh là kẻ bị Thiên  Chúa chúc dữ. Ngươi không được phép làm ô uế đất  đai mà Giavê đã ban cho ngươi làm thừa tự như  thế.” (XI, 314). Có lẽ vì tế nhị và vì tôn trọng  luật lệ thiêng liêng này, mà Philatô đã cho phép  cất xác Đức Giêsu xuống và đem đi mai táng, cho dù  Ngài đã bị kết tội là perduellio . Mặc dầu  hôm đó là nhằm ngày lễ Vượt Qua, nhưng vẫn  không có gì cản trở việc an táng, vì đó là việc  nghiã, được phép làm cả trong ngày Sabbat. Có  lẽ đến lúc trời vừa tối, Giuse Arimathia và  các bạn ông mới hoàn tất nghĩa cử mai táng ấy.

 

     Trong khi đó, những kẻ đã kết án Đức Giêsu về  tới nhà, bắt đầu mừng lễ Vượt Qua vào lúc  6 giờ chiều. Họ có thể mừng riêng tại nhà hoặc  mừng chung tại một phòng hội nào đó (nếu là  Pharisiêu). Sau khi dùng tiệc xong, họ mới được tin là  xác Đức Giêsu đã lọt vào tay Giuse Arimathia, nên lại  họp nhau để bàn kế hoạch mới. Sáng sớm ngày Sabbat  hôm sau, Hội đồng tối cao Do thái giáo còn gởi người  đến xin Philatô cho lính canh mộ. Bốn người lính Rôma được  cắt cử làm công tác ấy. Họ canh gác liên tục từ  sáng sớm ngày Sabbat hôm đó cho tới lối 1 giờ sáng  của ngày đầu tuần hôm sau. Khi các bà đến thăm  mồ Đức Giêsu, thì họ đã tẩu thoát mất hút đâu hết từ  lâu rồi!

 

 4. Đức Giêsu Chịu Tử Nạn Vào Năm Nào Và Ngài Đã Sống Được Bao Lâu?

 

     Theo Mc 14, 12 ss, Đức Giêsu chịu tử nạn vào ngày  đầu tiên của thời gian mừng lễ Vượt Qua, nghĩa  là ngày 15 tháng Nisan. Còn theo Ga 13, 1. 29; 18,  28; 19, 31, thì Ngài chịu tử nạn vào ngày trước  đó, nghĩa là vào buổi chiều giết con chiên Vượt Qua,  tức là ngày 14 tháng Nisan. Tại sao lại có sự khác  biệt khá quan trọng như thế? Có hai cách trả lời (phần  trên đã nói qua, xin hệ thống hóa lại như sau): (1) Có  lẽ các Phúc Âm Nhất lãm trung thực hơn về chi  tiết này. Như đã biết, Thánh Gioan thường hy sinh  các chi tiết lịch sử cho mục tiêu thần học Ngài nhắm.  Ở đây cũng thế, ngài cố ý xếp giờ Thầy  mình chịu tử nạn sao cho trùng hợp với lúc giết con  chiên Vượt Qua làm hy tế, để chứng minh rằng chính Đức  Giêsu mới là Con Chiên Vượt Qua đích thực (19, 18; xem thêm  18, 28). (2) Có thể là vì thời đó có hai thứ niên  lịch khác nhau được dùng song song cùng một lúc: lịch  tính theo mặt trời (Qumran) và lịch tính theo mặt trăng  (Giêrusalem). Ở Giêrusalem thời đó chưa có niên  lịch nhất định, nhưng chỉ biết căn cứ vào lúc mặt trăng  xuất hiện mà tính ngày cho từng tháng. Điều đó  thiếu chính xác, vì khi mắt phàm thấy được ánh sáng, thì  trước đó, mặt trăng đã thực sự chuyển sang chu kỳ  mới ít nhất là một ngày rồi! Hơn nữa, nếu tính  theo mặt trăng, thì một năm chỉ có 354 ngày. Do đó, cứ  19 năm thì lại có 7 tháng nhuận. Chưa kể là đôi khi lịch  cũng uyển chuyển theo “tình cảm”, như khi đường  xá xa xôi, khách hành hương chưa kịp về hoặc vì mùa  màng chưa xong, chưa có phẩm vật để dâng lễ tạ ơn,  thì cơ quan soạn lịch sẽ “nhân nhượng” thêm cho một  tháng nhuận để đợi chờ! Cho nên, tính ngược lại sao cho  chính xác sau gần 2.000 năm dài, là việc làm hết  sức phức tạp. Tuy nhiên, nếu Đức Giêsu chịu tử nạn vào  một ngày thứ Sáu, thì người ta có thể tự hỏi:  ngày thứ Sáu nào thời đó trùng với ngày  14 hoặc 15 tháng Nisan. J. Jeremias cho rằng: rất có thể ngày  thứ Sáu đó trùng vào ngày 15 Nisan của năm  27 hoặc có thể là cả của những năm 30, 31  và 34 (sau CN) nữa. Cách tính này hợp với các Phúc  Âm Nhất lãm. Còn nếu là ngày 14 Nisan,  thì rất có thể là của những năm 30 và 33 và  có thể là cả của năm 27 (sau CN) nữa. Cách  tính này hợp với Phúc Âm Thánh Gioan. Thực ra, chúng  ta chỉ có được một vài tiêu điểm thời khắc khá chắc  chắn, dùng làm “mốc” để tính thời gian như  sau: “Mốc trước” (terminus a quo/post quem ) là lúc  Đức Giêsu bắt đầu ra hoạt động công khai, nghĩa là không  thể trước năm thứ 15 thời Hoàng đế Tibêriô, là  năm Gioan Tẩy Giả bắt đầu hoạt động. Không thể nào  Đức Giêsu đã hoạt động công khai trước Gioan Tẩy Giả.  Năm thứ 15 thời Hoàng đế Tibêriô nằm trong khoảng  thời gian như đã nói trên, tức là từ 1. 10.  27 cho tới 30. 9. 28: tính như thế xem ra có lý hơn cả. Còn  “mốc sau” (terminus ad quem/ante quem ) là năm Philatô  mãn nhiệm chức Tổng trấn Giuđêa (năm 36). Hoặc xa hơn  nữa, có thể lấy cả thời điểm Thánh Phaolô trở  lại để làm mốc mà tính. Ngài chỉ có thể trở  lại sau khi Đức Giêsu đã chịu tử nạn và sau khi  Giáo Hội sơ khai đã phát triển đến mức độ “đáng lo  ngại”. Theo W. G. Kuemmel, thì Thánh Phaolô đã trở  lại khoảng năm 31/32. Còn W. Marxsen cho rằng ngài  trở lại trễ nhất là vào năm 33/34. Do đó,  có thể tạm rút ra kết luận để nói là Đức Giêsu đã  chịu tử nạn vào ngày thứ Sáu 7. 4. 30 (đúng như  cách tính của các Phúc Âm Nhất lãm). Đó là  cách tính được nhiều tác giả công nhận. Hoặc cũng  có thể xê dịch sang ngày thứ Sáu 14 Nisan 30, tức là  ngày 6. 4. 30 (theo cách tính của Phúc Âm Thánh  Gioan). Tuy nhiên, cũng còn có nhiều giả thuyết  khác được đưa ra để cố giải đáp cho vấn đề tính năm này:  những năm được chọn đều nằm trong khoảng thời  gian kể từ năm 27 (sớm nhất) cho tới năm 33! (trễ  nhất). Nếu là thế, thì Đức Giêsu đã phải sống  lâu hơn, từ 36 tới 39 tuổi, chứ không phải chỉ có  33 tuổi như chúng ta vẫn tưởng đâu! (II, 92-97; IV, 97).

 

     Như thế, cuộc đời Đức Giêsu gắn liền với 2 triều đại  Octa-vianô Augustô (27 trước CN – 14 sau CN) và Tibêriô  (14-37 sau CN) trong đế quốc Rôma, nhưng cả 2 hoàng đế  này chưa từng một lần đặt chân tới vùng bảo  hộ Palestina, quê hương của Ngài.

 

 IV. TỔNG KẾT

 

     Tóm lại, cho tới nay, với hơn 200 năm nghiên cứu và tranh  luận, xuyên qua những đổ vỡ tiêu cực, khoa phê bình  lịch sử đã đạt được những thành quả tích  cực rất đáng tin cậy về lý lịch của Đức Giêsu như sau:

• Họ và tên: J’hoshua (tiếng Do Thái) hoặc  Jesua hay là Jesu (tiếng Aramê)

• Quốc tịch: Do thái, thuộc hoàng tộc Đavít.

• Năm sinh: 7 trước CN (trước khi vua Herôđê băng  hà ít lâu: 4 trước CN)

• Nơi sinh: có lẽ là Bêlem.

• Nơi thường trú: Nadarét.

• Ngôn ngữ: tiếng Aramê của miền Galilê.

• Cha mẹ: Joses và Mirjam.

• Nghề nghiệp: có lẽ theo nghề teknos  (”thợ mộc”) của cha.

• Tình trạng: độc thân.

• Liên hệ: có liên lạc với Gioan Tẩy Giả,  lúc mới ra hoạt động và đánh giá vị này rất cao.

• Hoạt động công khai: bắt đầu lúc Ngài chừng  30 tuổi.

• Địa bàn hoạt động: Khác với Gioan Tẩy Giả,  Đức Giêsu giảng dạy khắp nơi, nhưng phần lớn là chung  quanh hồ Gênnêsarét, mà trọng tâm là thành phố  ngư phủ Caphar-naum. Thời gian hoạt động chừng 2  năm rưỡi.

• Tâm tình với thủ đô: nhiều lần lên Giêrusalem.

• Đề tài rao giảng: Nước Thiên Chúa đang  ở gần kề.

• Hoạt động nổi bật nhất: chữa bệnh.

• Thái độ đối với ngày Sabbat: thái độ này  đã gây bất mãn cho giới thẩm quyền và những  người “mộ đạo” trong dân Do thái.

• Cảm tình: Ngài được mộ mến, vì tiếp  xúc với mọi hạng người, đặc biệt là hạng Amme-ha-Arez  (dân quê/nghèo hèn) và những người có  tội công khai.

• Môn đệ: dù không phải là Rabbi ,  nhưng Ngài cũng thu nhận một số (70/72) môn đệ, trong  số đó Ngài đã chọn ra 12 Tông đồ.

• Thành công: lúc ban đầu, vì đa số tin rằng  Ngài là Đấng Mêsia.

• Thất bại: với thời gian số người tin  theo giảm dần, chỉ còn lại một số nhỏ (Lc 12, 32).

• Hiểu lầm: cố tránh phát biểu về chính trị,  nhưng thường chỉ trích giới thẩm quyền tôn giáo, và  mãnh liệt tấn công lề lối phụng tự chỉ vụ hình thức  ở trong Đền thờ.

• Bữa Tiệc Ly: Trong lần cuối cùng có  mặt tại Giêrusalem, Ngài đã dùng bữa Tiệc  Ly với các tông đồ. Bữa tiệc này không phải là  bữa tiệc bình thường như chính lời nói và cử  chỉ của Ngài trong bữa tiệc đó minh chứng.

• Nội công: Ngài bị bắt vì một người trong  nhóm 12 phản bội.

• Tội phạm: Giới thẩm quyền Do thái đã tố  cáo Ngài phạm thượng.

• Bản án: Chính quyền Rôma, đại diện là  Pônxiô Philatô, đã lên án Ngài vì lý do chính trị:  hiểu lầm Đấng Mêsia theo quan niệm thế tục đương thời   (titulus crucis là “Vua Do thái”).

• Hành quyết: Ngài bị đóng đinh sau trưa  ngày lễ Vượt Qua (7. 4. 30) tại một nơi nằm ngoài  vòng đai thủ đô Giêrusalem.

• Mai táng: trong cùng ngày đó, tại một  chỗ không xa nơi hành quyết.

• Mồ trống: ngay sau ngày Sabbat.

• Phục sinh: Các môn đệ của Ngài xác  tín và làm chứng rằng họ đã được xem thấy và  tiếp chuyện Ngài như một người vẫn sống.

• Tác phẩm: Ngài không để lại một bút tích  nào cho các thế hệ tương lai.

• Như thế, khách quan mà nói, chúng ta biết hơi ít và  rất tương đối về lý lịch của Đức Giêsu. Tuy nhiên, theo  A. Schlatter và P. Althaus, thì không có lý lịch của  một nhân vật cổ thời nào được ghi lại tương đối kỹ  lưỡng cho bằng cuộc đời của Đức Giêsu. Còn  theo Hans Kueng (xem: Die Weltreligionen als Herausforderung (Wir  in unserer Welt ). Herne 1990), thì những điều chúng ta biết  về Ngài vẫn chi tiết, xác thực và đầy đủ  hơn những điều nhân loại biết về những vị sáng lập  các tôn giáo lớn cùng thời với Ngài. Dĩ nhiên,  sẽ có những độc giả không đồng ý với điểm này  điểm nọ trong những điểm vừa trình bày trên đây.  Điều đó dễ hiểu, vì cho tới nay, ngay cả những  kết quả nghiên cứu của các tác giả nổi danh vẫn  còn khá nhiều bất đồng với nhau. Bài này chỉ cố  gắng đi tìm một “mẫu số chung” cho nhiều “phân  số” bất đồng, chỉ cố gắng đi tìm một “con đường  mòn” được nhiều người ái mộ trong “rừng  sách” mênh mông. Hơn nữa, những kết quả của  các cuộc nghiên cứu lâu năm, tuy được các ngành khoa  học khác nhau kiểm chứng dưới ánh sáng của lý trí, nhưng  chúng vẫn còn là (hoặc mãi là) những  giả thuyết.

• Giả thuyết thì chưa thực. Giả thuyết thì tương đối.  Nhưng cái chưa thực còn hơn là cái hư ảo. Cái tương  đối còn là hơn cái mơ hồ.

• Người viết chỉ mới chập chững đi tìm những chi tiết  lịch sử về Đức Giêsu, không phải vì “hùa theo”  trào lưu đặt lại vấn đề, cũng không nhằm lấy hồ  nghi làm động lực, nhưng là vì nhu cầu của con tim.  Con tim của một người con. Người con mới mở  mắt vào đời đã “mồ côi” cha, mà khoảng  cách giữa lúc Cha lìa đời và con vào đời  là đã 2.000 năm. Cho nên, bất cứ một dấu vết lịch  sử nào – tuy có tương đối – về lý lịch của người  Cha đó, thì cũng đủ làm cho đứa con sinh sau đẻ  muộn này hạnh phúc và mãn nguyện lắm rồi.

 

Sauerland, mùa Hạ, 17.8.1991.

 Kenneth R. Melchin [1]

 

[HTTH SỐ 6, NĂM THỨ BA (1993)]

 

MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO

·        I.BiKi 24 (1969) tập 2

·        Leroy, H., Jesus. Ueberlieferung und Deutung (Ertraege  der Forchung 95). Darmstadt: Wiss. Buchges. 1978.

·        Tiết mục: “Versuch einer Chronologie des Lebens Jesu,”  in: Mertens, H. A., Handbuch der Bibelkunde . Duesseldorf: Patmos  1984, 287-295.

·        Schmid, J., Das Evangelium nach Lukas (Regensburger NT  III): Das 15. Jahr des Kaisers Tiberius und die Chronologie des  Lebens Jesu. Regensburg: Pustet (1) 1940 – (4) 1960, 94 tt.

·        Trilling, W., Fragen zur Geschichtlichkeit Jesu . Duessedorf:  Patmos/ Leipzig: St. Benno 1966.

·        Trilling, W., Vielfalt und Einheit im NT (Unterweisen und  Verkuenden 3).Einsiedeln-Zuerich-Koeln: Benziger 1968.

·        Danh hiệu: “Jesus von Nazareth”; trong: G. Cornfeld  – G. J. Botterweck (xb.), Die Bibel und ihre Umwelt (Pictorial  Biblical Encyclopedia. Tel Aviv 1964). Bergisch-Gladbach: G. Luebbe  1988, 762-776.

·        Gnilka, J., Jesus von Nazaret. Botschaft und Geschichte .  (HThK NT, Suppl.III). Freiburg-Basel-Wien: Herder (2) 1991.


[1] Người ta ước lượng từ  buổi thành hình Giáo Hội với 120 người trong ngày  Hiện Xuống (Cv 1, 15) cho tới nay, đã có hơn 5 tỷ tín  hữu và 5 triệu giáo sĩ..

[2] Kitô là một  tước hiệu, Giêsu là tên. Tước đi trước tên

[3] Ngày nay, không thể chỉ căn cứ vào Mt 16, 18 để  chứng minh rằng Đức Giêsu đã thiết lập Giáo Hội, vì hầu  hết các tác giả Công giáo cũng như Tin lành tên  tuổi trong khoa Thần học Tân Ước cũng như Thần học Cơ  bản đều cho rằng câu này đã được Giáo Hội sơ  khai sửa đổi hoặc thêm vào. Số tác giả chủ  trương Đức Giêsu không hề muốn thiết lập Giáo Hội không  phải là ít. Do đó, những người chống đối Giáo  Hội lại càng có thế để ăn nói. Riêng về phần Giáo  Hội, trong mấy chục năm qua cũng cho thấy sự thay đổi  đáng lưu ý trong cách thức trình bày vấn đề khúc mắc  này qua các văn kiện chính thức. Người viết hy vọng,  khi thời giờ cho phép, sẽ cố gắng trình bày  thêm về cuộc tranh luận này và mạn phép đề nghị một  giải pháp cho vấn đề trong một bài khác.

[4] Mới đây M. Baigent  và R. Leigh tung ra một cuốn sách tố cáo Vaticanô đã  “cản mũi kỳ đà” trong công cuộc nghiên  cứu các cuộn văn tìm thấy ở Qumran, vì theo họ, Vaticanô  sợ tài liệu cổ kính này có thể tiết lộ những  chi tiết thất lợi cho Kitô giáo (và cả Do thái giáo  nữa). Đó là một lập luận vu khống vô căn cứ, vì:  (1) Vaticanô không độc quyền hoặc có ảnh hưởng lớn  trong việc nghiên cứu này. Ngay từ ban đầu, ủy  ban nghiên cứu đã gồm các thành viên quốc tế và  thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau. (2) 80 % tài liệu  đã được phổ biến, không phải là các bản văn  Kinh Thánh; số còn lại là vì rách nát nên chưa chắp  nối lại được, và vì thế cũng chưa đọc được. (3) Các  tài liệu đã phổ biến không tiết lộ gì đích danh nói  về Đức Giêsu. Chỉ có 1 chỗ (dài 5 giòng!) nói  tới Đấng Mêsia phải chịu đau khổ, mà người ta cũng  không thể xác định nổi đoạn văn này có ý tiên báo việc  Đấng Mêsia sẽ chịu đau khổ (thì tương lai) hay là chỉ  có ý tường thuật việc Ngài đã chịu đau khổ (thì  quá khứ) mà thôi; đó là chưa nói chi đến việc cần  phải xác định xem đoạn văn này có ý nói về Đức Giêsu  hay là chỉ nói về một vị Mêsia nào đó thôi! Cũng  nên lưu ý là trước đó, vào năm 1984, M. Baigent và  R. Leigh đã tung ra một cuốn sách khác “tiết lộ”  rằng Đức Giêsu không sống độc thân, nhưng đã lập gia  đình. Hiền thê của Ngài là Maria Magđalena!

[5] Cũng nên nhắc lại rằng không có một cuốn sách cổ thời  nào đáng tin cậy – về phương diện xác thực lịch sử  – và được hoàn tất nhanh chóng cho bằng cuốn Kinh Thánh  Tân Ước cả. Chỉ xin nêu ra đây vài thí dụ: Ilias và  Ôđyxê của Homer được hoàn tất lần đầu tiên vào  thế kỷ 11 sau công nguyên (=CN), cho dù Homer đã  sống vào thế kỷ 8 trước CN. Như thế, giữa tác  giả và tác phẩm có một khoảng cách 1.800 năm!  Các tác phẩm của Platon được viết vào những năm  427-357 trước CN, thế nhưng toàn bộ tác phẩm của ông  mà chúng ta có hiện nay, lại chỉ xuất hiện lần đầu vào năm  895 sau CN. Như thế, tác giả và tác phẩm cách nhau  cả 1.300 năm! Tác phẩm của Horaxiô cũng mới hoàn  tất vào thế kỷ thứ 8, tác phẩm của Xêsar (Caesar ) cũng mới hoàn tất vào thế kỷ thứ  10, nghiã là sau đó 1.000 năm!?

[6] Hiện nay, Giêsu vẫn còn được dùng  làm tên gọi tại Tây ban Nha và Nam Mỹ

[7] Để đơn giản hóa  việc trích dẫn, người viết theo cách thức ghi chú sau  đây: giữa các con số ghi trong ngoặc, số La mã chỉ  tài liệu được ghi ở phần cuối bài, và số  Ả rập chỉ trang ở trong tài liệu đó

[8] Cho tới nay, Giáo Hội  Đông Phương vẫn mừng Giáng Sinh vào ngày 6 tháng  Giêng mỗi năm. Còn vào thế kỷ thứ 3, Clêmentê  Alexandria lại cho mừng vào ngày 19 tháng 4

[9] Trong cách phân  chia tiếp theo sau đây, chúng ta sẽ tự do uyển chuyển theo  hai niên đại trung dung này

[10]Giêrihkô là thành phố cổ  kính nhất thế giới còn để lại tàn tích cho tới ngày  nay

[11] Trước cơn đại hồng thủy,  trời cũng nưa 40 ngày đêm; tiên tri Elia đi 40 ngày  mới tới núi Hôréb

[12] Sau mùa  thu hoạch nho và ô liu

[13] Điển hình là  chị em Mácta, Maria và Ladarô tại Bêthania, cách đó không  xa.

[14] Ngôi hội đường  này dài 24 m, rộng 18 m cộng thêm một tiền đường,  đã bị sập vì động đất. Hình thức hiện nay đã được  chỉnh trang lại một phần

[15] Khoảng 1.000 trước CN; nhưng chắc chắn  thành phố này đã có từ năm 1.800 trước CN  với tên cũ là Salem

[16] Mùa gặt lúa mì, 50 ngày sau lễ Bánh Không Men

[17] Không rõ 70 hay 72,  vì có nhiều bản Tân Ước chép tay cổ xưa lại ghi là  72 !

[18] Tuy nhiên, có tác giả lại coi việc  thanh tẩy (đánh đuổi trong) Đền thờ là lý do trực  tiếp đưa đến cái chết của Đức Giêsu

[19] Khác với  những nhóm khác đương thời, trong các Phúc Âm không  hề thấy đề cập tới nhóm này

[20] Việc giới hạn rước Máu  Thánh trong các Thánh Lễ như hiện nay – theo thiển ý –  là điều đáng tiếc, vì như thế làm giảm đi tính  cách “đại tiệc” của mỗi Thánh Lễ. Khi có  thể và được phép, nên ủng hộ việc rước lễ dưới  hai hình thức, và chọn cách thức sao cho hợp với ý của  mọi người tham dự

[21] Via Dolorosa với 14 chặng như hiện nay là  do các tu sĩ Dòng Phanxicô mới cắm mốc dẫn lối từ  thế kỷ 16

[22] Vào thời Trung Cổ, người ta cho rằng:  3 thứ ngôn ngữ được dùng để viết ở đây tượng  trưng cho 3 thứ “ngôn ngữ thánh” của Giáo Hội  thời sơ khai

[23] Đây là lời kinh một người lâm nạn – giống như  người Tôi tớ Giavê trong Is 52-53, – lòng đầy tín thác  [như thấy trong câu: “Chúa là sức mạnh con nương,/ Cứu  mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa”, và câu cuối:  “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa/ Cho anh em tất  cả được hay,/ Và trong đại hội dân Ngài,/ Con xin  dâng tiến một bài tán dương”], thưa lên cùng Thiên  Chúa. Trên thập giá, Đức Giêsu đã đọc trọn cả lời  kinh của thánh vịnh này: Ngài bắt đầu đọc lớn  tiếng; sau đó, sức không còn nữa, Ngài đã  đọc thì thầm – ít nhất là – trong lòng

[24] Giờ thứ 9 là một giờ  kinh (Nona ) của Do thái giáo