(Ngày 19 tháng 12) Chứng tá tập thể trong lao tù
- Phanxicôxaviê HÀ TRỌNG MẬU, Thày giảng dòng Đaminh (1790-1839)
- Đaminh BÙI VĂN ÚY, Thày giảng dòng Đaminh (1812-1839)
- Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI, Nông dân dòng Đaminh (1806-1839)
- Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ, Thợ may dòng Ba Đaminh (1811-1838)
- Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH, Tá điền, dòng Ba Đaminh (1813-1839)
Đọc truyện các thánh tử đạo Việt Nam, không ai có thể quên được chứng tá tập thể của hai thày giảng và ba giáo dân ở trong tù. Năm vị cùng bị giam chung với cha Tự và ông trùm Cảnh, nhưng hai vị này tử đạo trước (05-09-1838). Dù sống trong ngược đãi, dù bị kiểm soát gắt gao, năm vị đã gắn bó với nhau trong tình anh em thân thiết, cùng sống đức tin kiên vững và nỗ lực làm chứng cho Thiên Chúa, bằng lời nói, gương sáng và chính mạng sống mình.
Thày Phanxicô Xaviê Mậu không những phải chọn lựa giữa cái chết và cuộc sống, thày còn phải chọn lựa giữa cái chết và việc làm quan triều đình. Không một chút lưỡng lự, thày trả lời vị tổng đốc: “Tôi không ham chức quyền tôi chỉ muốn chết vì đạo”.
Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu cất tiếng chào đời năm 1740 tại làng Kẻ Diền, tỉnh Thái Bình. Cậu được cha mẹ cho đi tu, trở thành thày giảng và đi giúp nhiều giáo xứ. Khi cha Phêrô Tự bị bắt, thày Mậu đang coi họ Nội, thuộc xứ Kẻ Mốt, được tin cha và thày uý được đưa về Lương Tài, thày Mậu đến đó nghe ngóng tin tức. Giáo hữu gởi thày ở trọ một nhà lương dân bên kia sông vì nghĩ rằng lính sẽ không khám xét đến. Ai ngờ chính người chủ nhà đi báo cho quan kiếm tiền thưởng, thế là thày bị bắt.
Thày bị dẫn đến dinh quan Lương Tài, có mặt cha Tự ở đó. Quan hỏi thày là ai thày đáp: “Thưa quan tôi là một môn đệ thân tín của cha đây”. Cha Tự ra dấu nhắc cha đừng khai rõ, may ra có thể chuộc về được chăng, nhưng thày nói nhỏ với cha: “Xin cha thương nhận con làm môn sinh, để con cũng được tử đạo với cha .”
Kể từ ngày ông Trùm và ông trùm Cảnh bị đem đi xử trảm, thày Mậu trở thành cột trụ nâng đỡ bốn người còn sót lại, là thày Úy, các anh Mới, Vinh, Đệ. Thày nhắc anh em sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ nhau. Thày đại diện anh em viết thư ra ngoài, hoặc trả lời các quan. Đặc biệt thày động viên anh em hăng hái làm việc tông đồ ngay trong nhà tù. Trong hồ sơ phong thánh, cha Huấn dựa vào các thơ của thày làm chứng rằng: “Thày Mậu vẫn dạy giáo lý cho các tù nhân, và rửa tội được 44 người, trong đó có một tử tội tên Hưng, mới học đạo một tháng thì bị xử, anh xin quan hoãn lại ít giờ để rửa tội, sau đó vui vẻ tiến ra pháp trường.”
Khi quan nói: “Kẻ nào chết vì không bước qua Thập Giá là ngu dại, không biết thương cha mẹ già”. Thày giải thích: “Thưa quan cha mẹ sinh ra chúng tôi có ở trên đời cũng là nhờ quyền năng Chúa”. Khi quan quân tuyên đọc bản án xử tử, thày bình tĩnh đáp lại: “Thưa quan chúng tôi mong ước về với Chúa, như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của Đức Vua.”
Tuy là một tân tòng mới theo đạo, anh Augustinô Mới đã biểu lộ một đức tin kiên cường, không thua kém gì những kitô hữu vững tin nhất.
Augustinô Nguyễn Văn Mới sinh năm 1806, tạt làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nông dân ngoại giáo. Đến tuổi trưởng thành, anh đến làng Đức Trai, xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) để làm mướn. Tiếp xúc với giáo hữu ở đây, càng ngày anh càng thấy mến đạo, và xin theo học giáo lý. Năm 31 tuổi, anh được cha Tự rửa tội và đặt tên thánh bổn mạng là Augustinô.
Mấy năm sau, cha Tự cũng chủ sự lễ thành hôn cho anh với một thiếu nữ trong xứ. Theo các lời chứng trong hồ sơ phong thánh, anh Augustinô Mới sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi tối. Dù có ngày lao động vất vả đến mãi khuya mới về, anh cũng không quên đọc kinh Mân Côi kính Đức Mẹ.
Ngày 19.6,1838, khi quân lính bao vây làng Kẻ Mốt và bắt cha Tự, họ buộc tòan dân phải ra đình điểm danh, rồi bước qua Thánh Giá. Một số tín hữu nhanh chân lẩn tránh được, một số nhát gan thực hiện yêu cầu các lính. Các anh Mới, Vinh và Đệ cương quyết không chịu đạp lên Thánh Giá, nên bị bắt và bị áp giải chung với cha tự, ông Trùm Cảnh và hai thày Uùy, Mậu, lên giam tại Bắc Ninh.
“Nếu tôi cả gan bước qua Thánh Giá thì tôi xúc phạm đến Chúa và bất hiếu với cha mẹ. Vì song thân sinh ra tôi đã dạy tôi trung thành với niềm tin cho đến chết.”
Thầy Đaminh Úy đã đặt trọn niềm tin của mình trong truyền thống tiên tổ. Không biết cha mẹ căn dặn thày trung kiên dù phải tử đạo vào lúc nào, khi mới có cuộc bách hại hay khí vào thăm trong tù ? Nhưng rõ rệt là với thày, phản bội đức tin là phản bội lại những người đã nhọc công vun trồng niềm tin cho mình.
Đaminh Bùi Văn Úy sinh năm 1812 tại họ Tiên Môn, làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái Bình. Từ bé cậu đã được gia đình gởi vào nhà xứ sống với cha Tự. Sau khi học thành thày giảng, thày luôn hoạt động bên cha tại xứ Kẻ Đanh rồi Kẻ Mốt (Bắc Ninh) thì bị bắt, lúc đó thày mới 26 tuổi. Bất cứ ai gặp thày Úy đều công nhận thày hiền lành có lòng yêu mến Chúa, đặc biệt là người trợ thủ đắc lực của cha Tự trong công tác, nhất là khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ. Ước mơ lớn nhất của thày là được đóng vai “Lê Lai thế mạng” để cha Tự khỏi bị bắt. Khi đào hang trú ẩn, thày đào hai ngăn rồi tình nguyện ở ngăn bên ngoài.
Thày nói với mọi người: “Nếu các quan đến truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp mình để cha khỏi bị bắt, hầu cha có thể giúp anh chị em”.
Ngày 29-06-1838, lính đến vây làng Kẻ Mốt, đã bắt thày Úy chung với cha Tự. Cha dự định khai thày chỉ là giáo hữu vào làm bếp để đỡ nguy hiểm, nhưng thày nói: “Xin cha cứ nói con là thày giảng, may ra cũng được phúc tử đạo với cha”.
Rồi thày xin xưng tội để chuẩn bị tâm hồn. Một lần tương kế tựu kế quan nói với ngài: “Cha Tự xuất giáo rồi sao anh còn cố chấp thế ?” Thày bình tĩnh trả lời: “Vô lý cha tôi không bao giờ làm như vậy, mà dù có thực thế tôi không bao giờ xuất giáo đâu”.
Lần khác quan như muốn dạy khôn thày: “Anh còn trẻ hãy nghĩ lại và khôn ngoan một chút, ta chỉ yêu cầu anh bước qua một khúc gỗ mà”. Thày Úy đáp: “Đúng là khúc gỗ thưa quan, nhưng khúc gỗ đó tượng trưng cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ sao nếu tôi đạp lên ảnh vẽ hình cha mẹ tôi ?”.
Hôm khác khi bị dụ dỗ bước qua Thánh Giá, thày khẳng khái nói: “Thưa quan có giám bước qua mặt Đức Vua không, mà lại bảo tôi bước qua mặt Chúa tôi được?”.
Quan nghiêm nghị phán: “Tên phạm thượng ta sẽ chém đầu mi”. Người chiến sĩ đức tin vui vẻ reo lên: “Anh em ơi, tôi sắp được chém đầu rồi”. Nhưng phúc trường sinh đến với thày không quá mau như vậy.
Hai mươi tám tuổi đời, một người vợ ba người con, đó là mối ưu tư trăn trở của anh Tôma Đệ trong những ngày bị giam cầm. Không thể bỏ đức tin, nhưng tương lai của người vợ trẻ và đàn con dại sẽ ra sao ?. Trong nhiều ngày anh suy nghĩ và tha thiết cầu nguyện xin Chúa soi sáng.
Cuối cùng anh tìm được an bình trong tâm hồn, phó thác tất cả trong bàn tay Chúa quan phòng. Anh nói với người vợ đến thăm: “Đừng khóc mình ạ! Mình hãy về dãy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng Chúa. Tôi đã dâng mình và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho tôi được thêm sức mạnh để nhẫn lại đến cùng”.
Ra đời trong một gia đình Công Giáo tại làng Bồ Tràng, tỉnh Thái Bình năm 1811, Tôma Nguyễn Văn Đệ vì lý do sinh kế, theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh), và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề thợ may và được mọi người yêu chuộng. Anh rất nhiệt tình với công việc trong xứ trong họ. Hầu hết cờ quạt, đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh. Khi kinh tế gia đình ổn định, anh lập gia đình, ra ở riêng và sinh hạ được ba người con.
Ngày 29.6.1830, quân lính vây làng Kẻ Mốt, và ép buộc mọi người trên 18 tuổi phải đạp lên Thánh Giá, anh lẩn trốn ra phía sau nhà. Đến khi quân lính xồng xộc vào nhà lùng bắt, anh biết mình không thể tránh được nữa, liền giã từ vợ, dặn đưa con về bên ngoại, ôm hôn từng đứa, rồi ra trình diện. Đến trước Thánh Giá, anh Đệ quỳ xuống cầu nguyện lớn rằng “Lạy Chúa! sẽ không bao giờ con bước qua mặt Ngài”.
Quân lính áp giải anh Tôma Đệ cùng với cha Tự, ông Trùm Cảnh, hai thày Úy, Mậu và anh Mới, Vinh về giam tại Bắc Ninh.
Thánh Stêphanô Vinh là một trường hợp hy hữu, trong danh mục các thánh tử đạo Việt Nam. Khi bị bắt, anh mới chỉ là dự tòng chưa được rửa tội. Nhưng với những hiểu biết ít ỏi về đạo, anh đã kiên trì làm chứng cho chân lý. Mặc dù khi vào tù anh mới chính thức gia nhập đạo, rồi thành hội viên dòng ba Đaminh, nhưng anh không thua kém ai về lòng can đảm tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.
Stêphanô Nguyễn văn Vinh sinh năm 1813 tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình. Sống trong một gia đình ngoại giáo rất nghèo, một miếng đất cũng không có, anh Vinh quanh năm phải làm thuê làm mướn cho các gia đình ở Kẻ Mốt (Bắc Ninh). Trường học duy nhất anh ham thích và theo được là các lớp giáo lý, nơi anh tập đánh vần và học truyền khẩu. Đặc biệt anh đem các điều học ở đó ra thực hành trong cuộc sống. Có điều là người ta không biết vì sao anh chưa được rửa tội. mọi người đều mến thương anh vì anh đơn sơ, chất phác, khỏe mạnh và thật thà. Trong công việc, anh không bao giờ làm cho qua lần chiếu lệ, ai thuê việc gì, anh cũng chu toàn tốt đẹp không cần kiểm soát, không có gì chê trách. Cho đến khi bị bắt, anh vẫn độc thân chưa lập gia đình.
Ngày 29.6.1839, khi quan quân vây bắt cha Tự ở Kẻ Mốt, và bắt mọi người phải đạp lên Thánh Giá, chàng thanh niên 25 tuổi này đã anh dũng nói thẳng với họ rằng: “Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên Thánh Giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật”.
Vì lời này, quan quân tưởng anh là người trong đạo, thế là họ bắt anh Vinh và áp giải về trại giam Bắc Ninh chung với cha Tự, ông Trùm Cảnh, thày Uùy, thày Mậu, và hai anh Mới, Đệ. Chính tại đây, anh Vinh được diễm phúc làm người Kitô hữu, được hân hạnh là con Cha Thánh Đaminh. Suốt hành trình tử đạo, anh là một nhân chứng trầm lặng, nhưng cùng lập trường với các vị khác. Gông cùm, xiềng xích và tra tấn không lần nào có thể làm anh sa ngã hay nản chí. Chọn quan thày Stêphanô trong tù, anh cương quyết noi theo vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội đến hơi thở cuối cùng.
Lời an ủi ấm lòng
Sau gần một tháng dọa nạt tra khảo bảy chiến sĩ đức tin nhưng vô hiệu, ngày 27.7.1838, quan tỉnh Bắc Ninh đệ án vào triều xin xử giảo cha Tự và ông Trùm cảnh, còn năm vị kia quan cho là nhẹ dạ tin theo, nên xin đánh mỗi người 100 roi rồi phát lưu vào Bình Định. Luật vua thời đó xử giảo các phù thủy, đồng cốt, còn những kẻ a dua chỉ bị đánh đòn và phát lưu 300 dặm. Thế nhưng vua Minh Mạng cho rằng tội theo đạo Gia Tô thuộc loại nặng hơn, nên quyết định xử chém hai vị trên ngay tức khắc, còn tất cả sẽ bị xử giảo sau một năm nếu không chịu thay đổi ý kiến.
Ngày 05.9.1838, khi biết tin cha Phêrô Tự và ông Trùm Cảnh đã bị chém tại pháp trường Kinh Bắc, năm vị trong ngục buồn bã nhớ thương. Thày Mậu kêu gọi anh em ngồi lại bên nhau cùng đọc kinh, vừa khích lệ nhau, vừa ôn lại những lời khuyên của cha mình. sau đó ba buổi tối, như chính các vị thuật lại, trong lúc họ đang cầu nguyện thì bất ngờ tất cả đều thấy như cha Tự hiện ra ngay bên an ủi họ: “Các con đừng buồn, chắc chắn các con sẽ được chết vì đạo. Tuy nhiên, các con sẽ phải qua một thời gian thử thách nữa, để xứng đáng với phúc trọng này”. Có thể đó chỉ là giấc mơ chứ không phải sự thật, cũng có thể đó là lời nhắn nhủ cuối cùng của vị linh mục, nhưng kể từ ngày đó, họ hết sầu buồn, tìm lại được can đảm để nêu gương ngay trong cảnh quẫn bách ở trong trại giam.
Tuyên khấn trong ngục tù
Ấn tượng ghi nét sâu đậm vào lòng năm vị chứng nhân là lời cha Tự trong ngày lãnh phúc tử đạo. Cha mặc áo dòng và nói với mọi người về chiếc áo đó. Trước đây, bốn vị, đến khi vào tù có thêm anh Vinh, đã mặc áo dòng ba thánh Đaminh, nhưng chưa ai khấn cả. Thày Mậu liền viết thư cho cha Huấn dòng Đaminh để bày tỏ niềm ước nguyện được hiệp thông với dòng cách trọn vẹn. Thày viết: “Chúng con tất cả là năm tập sinh của dòng ba nhưng chúng con không thể giữ chay đủ các ngày thứ hai, thứ tư, sáu và bảy được, nên chúng con xin cha thương rộng phép chuẩn chước cho sự thiếu sót đó. Qua thư này, chúng con xin tuyên khấn trước mặt cha vậy, xin cha cho phép.
“Để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa toàn năng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con là Phanxicô, Đaminh, Augustinô, Tôma và Stêphanô, trước mặt cha Huấn, đại diện cha Hemosilla, giám đốc dòng Ba Hãm mình Thánh Đaminh, chúng con xin hứa và ước ao giữ lề luật và tập tục của dòng cho đến chết”.
Những chữ “cho đến chết” trong ngục tù khi đó chắc hẳn phải có âm vang đặc biệt đối với các vị. Được nối kết với truyền thống hơn 600 năm truyền giáo của Thánh Phụ và một dòng tu lớn trong Giáo Hội, từ nay năm anh em tích cực hơn với việc tông đồ. Dưới sự điều hành của thày Mậu, năm hội viên chia nhau tiếp xúc gặp gỡ các bạn tù, giới thiệu với họ về Thiên Chúa, cắt nghĩa giáo lý, rồi dẫn họ đến thày Mậu lãnh nhận bí tích rửa tội. Ít ra các vị đã rửa tội được 44 người. ngục tù giờ đây trở thành nguyện đường, hàng ngày vang lên những lời chúc tụng Thiên Chúa, lời cầu nguyện cho Giáo Hội và cho mọi người, mọi giới đầy tràn ơn lành của Ngài.
Làm chứng quan quyền
Thấm thoát hơn một năm tù đã trôi qua, triều đình quyết định lại việc xử giảo cả năm người. Ngày 19.8.1839, quan cho điệu tất cả ra tòa, vẫn Thánh Giá một bên, bên kia là dụng cụ tra tấn. quan hỏi: “Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ con”. Thày Mậu đại diện anh em trả lời: “Chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Chúa, nên quan ra lệnh chém đầu hay giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng”.
Rồi cả năm vị quỳ xuống bái lạy Thánh Giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa ! Xin cứu chúng con, con xin phó thác hồn con trong tay Chúa”.
Thất vọng, quan cho lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: “Bọn này không thể tha thứ được, mà chúng có thèm được tha đâu !”.
Ngày 24.11, năm vị phải ra tòa một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực cương quyết không chối đạo. Thày mậu thay mặt anh em nói với quan: “Chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên Chúa là cha chung muôn loài, là vua trên hết các vua, là Đấng chúng tôi mong được đổ máu ra để chứng tỏ lòng trung thành và yêu mến”.
Như rừng mong mỏi tìm về suối nước trong.
Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ hội cuối cùng. Ông nói: “Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng tha”. Sau đó, ông lại nói: “Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng tha”. Nhưng các chứng nhân đức tin không để bị mắc lừa, họ bảo nhau quỳ xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu. Có lẽ do ảnh hưởng những lời kinh Giáo Hội trong mùa Vọng, đón chờ Chúa giáng sinh, thày Mậu nói với quan những lời kinh Thánh Vịnh 41 (c1-2): “Thưa quan, chúng tôi ước mong về với Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của nhà vua”.
Biết không thể làm nao núng ý chí sắt đá của những con người này được nữa, quan liền truyền đem đi xử với bản án như sau: “Bọn gian ác theo Gia Tô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn sửa phạt, vẫn ngoan cố không chịu bước qua Thập Tự, nay chúng bị xử giảo”.
Trên đường ra pháp trường, thày Mậu rảo chân bước đi trước, cha anh em bước theo sau, tất cả đều tỏ ra hân hoan kiên cường. Dân chúng hiếu kỳ xem rất đông và xì xào với nhau là các vị này bị giết oan. Theo gương thày Mậu, các chứng nhân tươi cười nói với mọi người: “Anh em chúng tôi đang tiến về Thiên Đàng đây”.
Khi tới nới xử, mỗi vị bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc lý hình xiết cổ các vị bằng dây thừng cho đến lúc tắt thở. Các tín hữu đem thi thể các vị về an táng tại họ đạo mình. Thánh Mậu ở Kẻ La, thánh Úy ở Đồng Tiến, thánh Mới ở Phượng Vĩ, thánh Đệ ở Phong Cốc và thánh Vinh ở Hương La, tất cả đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27.05.1900, Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn năm vị anh hùng tử đạo: Phanxicô Xavie Hà Trọng Mậu, Đaminh Bùi Văn Úy, Augustinô Nguyễn Văn Mới, Tôma Nguyễn Văn Đệ và Stêphanô Nguyễn Văn Vinh lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP