Trả lời cho vấn đề này, Ngài đã trả lời trong buổi gặp gỡ giới trẻ Pháp tại Công viên Hoàng tử (Paris), rằng:
“Có nhiều định nghĩa về cầu nguyện. Người ta thường gọi nó là một cuộc nói chuyện, hội đàm, đàm thoại với Thiên Chúa. Khi chuyện vãn với ai, không những chúng ta nói, mà còn phải nghe nữa. Vì thế sự cầu nguyện còn là lắng nghe. Lắng nghe tiếng nói bên trong của ân sủng. Lắng nghe lời mời gọi.
“Chúng con muốn biết Đức Giáo Hoàng cầu nguyện như thế nào, cha trả lời ngay: như bất cứ người Ki-tô hữu nào: cha nói và cha nghe. Đôi khi cha cầu nguyện không lời và những lúc đó cha lắng nghe nhiều hơn. Điều quan trọng nhất là chính những gì cha nghe được.
“Rồi cha cố gắng hiệp nhất sự cầu nguyện với những bổn phận, những hoạt động của cha; và hiệp nhất công việc của cha với sự cầu nguyện. Và bằng cách đó ngày từng ngày, cha ra sức chu toàn công tác “phục vụ” của cha mà chính ý muốn của Chúa Ki-tô và truyền thống sống động của Giáo Hội đã ban tặng cho cha” (Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo hoàng của hoà bình, tr. 69-70).
Qua câu trả lời của Đức Gioan Phaolô II, ta thấy một hình ảnh về một Giáo hoàng có đời sống nội tâm sống động. Để tìm hiểu sâu hơn, dưới đây là một số nét chính yếu trong đời sống nội tâm của ngài.
1. Say mến Chúa Giêsu Thánh Thể
Từ thuở nhỏ, câu bé Karol đã chứng tỏ một tâm tình đạo đức sâu xa. Mỗi sáng trước khi đến trường, cậu luôn luôn ghé lại nhà thờ cầu nguyện trước Thánh Thể. Một người bạn thường học chung với Woityla đã ghi trong hồi ký của mình: “Cứ mỗi lần ôn xong một bài học, Karol rời khỏi phòng và một lúc sau mới trở lại. Có lần, vì cánh cửa không được đóng kín, tôi thấy Karol đang quỳ cầu nguyện. Karol thể hiện lòng đạo đức một cách rất kín đáo”.
Lòng đạo đức của song thân đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Karol, chính cậu đã xác nhận: “Chính mẹ tôi đã dạy cho tôi cầu nguyện và say mến Chúa Giê-su Thánh Thể. Sau khi mẹ tôi chết, rồi tiếp theo đó người anh cả cũng chết theo, và như vậy tôi sống đơn côi với cha tôi, một người có lòng đạo đức thâm sâu. Hàng ngày tôi có thể quan sát thấy lối sống khắc kỷ của ngài. Trước đây ngài theo binh nghiệp, và sau khi mẹ tôi qua đời, cuộc sống của ngài trở thành lời cầu nguyện liên lỉ. Những thử thách đau đớn ập đến trên người đã mở ra nơi người những chiều sâu thiêng liêng bao la, nỗi buồn của người biến thành lời cầu nguyện. Thỉnh thoảng thức giấc nửa đêm, tôi nhìn thấy ngài vẫn quỳ gối cầu nguyện, như tôi thường thấy ngài quỳ trong nhà thờ. Chỉ nhìn người quỳ gối tôi cũng đã nhận được một ảnh hưởng quyết định trên những năm niên thiếu của tôi. Gương sáng của người đủ để dạy cho tôi về kỷ luật và ý thức bổn phận (Hồng ân và huyền nhiệm, tr. 18).
Khi nhận lời làm Giám Mục Phụ Tá giáo phận Cracovia vào năm 1958, ngài đã ghé vào nhà nguyện Dòng Ursuline, sấp mình cầu nguyện trước Thánh Thể 8 tiếng đồng hồ (Ấn tượng Gioan Phaolô II, tr. 54).
Vào năm 1978, khi tuyển chọn một vị tân giáo hoàng, yếu tố đè nặng trên quyết định của các hồng y: chọn một người suy niệm và cầu nguyện để làm giáo hoàng. Và các vị đã nhận ra nơi hồng y Karol Woityla, một mẫu gương của cầu nguyện.
Thật vậy, cầu nguyện là nền tảng mọi hoạt động nhân bản và mục vụ của Đức Gioan Phaolô II. Hiện nay, khi đã lên ngôi giáo hoàng, dù bận bịu biết bao công việc, mỗi ngày ngài đã dành nhiều giờ trước Thánh Thể, trung bình 7 tiếng mỗi ngày. Ngài nói : “Cả thế giới có quyền chờ đợi nhiều nơi Đức Giáo Hoàng. Vậy, Đức Giáo Hoàng sẽ không bao giờ cầu nguyện cho đủ”.
Học giả Jean Guitton, thuộc Hàn Lâm viện Pháp viết về ngài: “Khi tham dự thánh lễ của ngài, người ta có cảm tưởng đang thông phần vào cuộc gặp gỡ của riêng một người với một mình Thiên Chúa”(Ấn tượng Gioan Phaolô II, tr. 38).
Trước mỗi chuyến công du, ngài cầu nguyện rất nhiều và xưng tội trước khi đi công du. Ngài vẫn giữ thói quen rất lành thánh là xưng tội hàng tuần.
Ngài cổ võ mạnh mẽ cho việc tôn sùng Thánh Thể. Thông Điệp Thánh Thể vừa được ngài ban hành là thông điệp thứ 14 và là thông điệp mới nhất của ngài.
Khi phải viết về những giáo huấn liên quan đến đức tin, ngài thường quỳ gối viết trước Thánh thể, gần giống như thánh Thomas Aquino dựa đầu vào Nhà Tạm trước khi nói về Thánh Thể (Đối thoại với Đức Gioan Phaolô II, tr. 52).
2. Sùng kính Mẹ Maria
Karol rất sùng kính Mẹ Maria. Ngay từ tuổi thơ, cậu đã tham gia “Chuỗi Mân Côi sống” do Tyranowski tổ chức. Năm 15 tuổi, Karol được nhận làm thành viên Hội Thanh niên sùng kính Đức Mẹ, sáu tháng sau được bầu làm trưởng nhóm.
Karol đã viết “Lòng sùng kính trọn hảo đối với Đức Mẹ chính là hiểu biết Người thật sự và tin tưởng phó thác trong tay Người, tăng trưởng cùng với sự hiểu biết về Chúa Ki-tô và niềm tin tưởng phó thác nơi Người. Hơn nữa “lòng sùng kính trọn hảo” này thật cần thiết đối với ai muốn tận hiến cho Chúa Ki-tô và cho sự nghiệp cứu độ. Thánh Grignion de Monfort dẫn đưa chúng ta vào chính sự sắp xếp các mầu nhiệm nhờ đó mà đức tin chúng ta sống, chính lòng sùng kính này làm cho đức tin tăng trưởng và sinh hoa kết quả. Đời sống nội tâm của tôi càng tập trung vào thực tại của mầu nhiệm cứu độ, tôi càng thấy rằng sự phó thác nơi Đức Mẹ trong tinh thần của Thánh Grignion de Monfort là phương thế tốt nhất để tham gia có kết quả và hiệu lực vào thực tại ấy, để kín múc ở đó và chia sẻ với người khác những sự phong phú khôn tả” (Sđd, tr. 178-179).
Châm ngôn ngài chọn cho cuộc đời giám mục của mình là “Totus Tuus” (Tất cả của con thuộc về Mẹ). Sau khi đắc cử Giáo hoàng, ngài đã biểu lộ lòng biết ơn Mẹ một cách rất cụ thể trong việc trao tặng Đức Mẹ chiếc nhẫn giám mục, qua tay Đức Hồng Y Wyszynski một vài ngày sau khi ngài được bầu làm giáo hoàng.
Ngài đã được Đức Mẹ cứu sống một cách lạ lùng trong ngày 13-5-1981. Hôm đó cuộc tiếp kiến vào thứ tư hằng tuần bắt đầu lúc 17g00. Sau khi ngài ôm hôn một em bé, một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ, Ali Agca, 23 tuổi, đã nổ liên tiếp nhiều phát súng vào ngài trên chiếc xe mui trần đang tiến ra quảng trường Thánh Phê-rô giữa đám đông khách hành hương (khoảng 20.000 người). Y chỉ đứng cách ngài khoảng 20 bước và 2 viên đạn 9 mm có sức công phá rất lớn đã gây thương tích ở bụng, cùi tay bên phải và ngón tay trỏ ở bàn tay trái ngài.
Ngài ngã xuống. Ngay lập tức, ngài được đưa đến bệnh viện Gemelli (một bệnh viện nổi tiếng tại Roma, với 5 phòng mổ, 1800 giường bệnh, 4000 nhân viên, trong đó có 500 bác sĩ). Ngài nhắm mắt, rất đau đớn nhưng không ngừng lặp lại những lời nguyện tắt «Maria, Mẹ của con” . Đó là lời cầu nguyện sâu xa thốt lên từ nỗi đau lớn lao. Khi đến bệnh viện ngài mới ngất xỉu.
Đức ông thư ký ban phép xức dầu cho ngài trong phòng mổ, ngay trước cuộc giải phẫu, khi ngài đã ngất đi. Cuộc giải phẫu do 5 bác sĩ thực hiện, kéo dài 5 tiếng 20 phút. Thật lạ lùng, trong lúc xuyên qua thân xác ngài, viên đạn đã không huỷ diệt một cơ quan chính yếu nào cả. Viên đạn 9 ly là một thứ đạn rất mạnh. Để cho nó không gây nên những tàn phá không thể sửa chữa được trong phần rất phức tạp của cơ thể, nó phải xuyên qua cơ thể theo một đường đi khác thường. “Nó đi gần động mạch chính vài li thôi. Nếu nó đi trúng động mạch đó là chết tức khắc”.
Ngài bị cắt 55 cm ruột và mất ¾ máu. Bác sĩ Buzzonetti đã nói rằng tình trạng của ngài rất nguy kịch, huyết áp tụt xuống rất thấp và nhịp tim hầu như không còn. Nhưng cuối cùng thì mọi việc đều ổn.
Ngay hôm sau vụ mưu sát, vừa mới tỉnh, câu hỏi đầu tiên của ngài là : “Chúng ta đã đọc kinh tối chưa ?” Lúc đó đã 12 giờ trưa hôm sau. Sau đó là lời cám ơn và xin lỗi vì tất cả những sự phiền hà ngài đã gây ra cho các bác sĩ, y tá, nhân viên hiện diện. Năm ngày sau, trước khi rời khỏi phòng mổ, ngài đã xin gặp giáo sư Crucitti, bác sĩ giải phẫu nổi tiếng quốc tế và là người đã giải phẩu cho ngài. Ngài biếu ông một bức tranh của hoạ sĩ M. Fanfani, bức tranh vẽ Đức Mẹ Chestochowa. Ngài nói: “Thưa giáo sư, xin giáo sư nhận món quà này để tỏ lòng biết ơn của tôi về những gì giáo sư đã làm”. Sau này Giáo sư Crucitti cảm động thuật lại: “Lúc đó tôi đã khóc, như tôi đang khóc bây giờ đây”.
Ngày đầu tiên sau khi giải phẫu, ngài đã rước lễ. Ngày hôm sau, ngài đã có thể đồng tế thánh lễ trên giường bệnh.
Lúc ngài quá yếu không thể tự đọc kinh nhật tụng được thì mọi người xung quanh phải đọc lớn tiếng trước mặt ngài, để ngài theo dõi bằng lòng trí. Ngay khi có thể đọc được là ngài đọc theo bè cùng với họ. Mỗi buổi chiều ngài cử hành thánh lễ và đọc kinh cầu Đức Mẹ. Ước muốn lớn nhất của các nhân viên là được tham gia vào các buổi lễ đó.
Trong thời gian ở bệnh viện, ngài không bỏ kinh nhật tụng hoặc bất cứ kinh nguyện thường lệ nào, lần hạt Mân Côi, đi Đàng thánh giá ngày thứ sáu (người ta đọc những lời suy gẫm ở bên giường của ngài).
Mỗi ngày, ngài viếng Thánh Thể nhiều lần tại nhà nguyện của các nữ tu Maria Bé thơ. Tư thế quen thuộc của ngài là quỳ xuống đất, một lúc sau, quỳ trên ghế băng, đặt đầu vào trong hai bàn tay.
Ngài thường đến cửa sổ để ban phép lành cho những bệnh nhân. Những bệnh nhân không thể thấy ngài thì ngài mời họ trong buổi tối cuối cùng, họ nằm trên giường hoặc ngồi trên xe lăn.
Lúc 7 giờ sáng là lúc nhân viên ca ngày đến thay phiên cho nhân viên ca đêm, ngài bắt đầu bằng một kinh Lạy Cha đọc chung, đôi khi là một bài hát hoặc một lời chúc lành. Ngài không bao giờ ngừng lo đến những công việc của Giáo Hội, bàn bạc về những việc này với những cộng tác viên của ngài, ra quyết định cho chữ ký.
Sau này ngài thuật lại: “Ngay lúc tôi ngã xuống tại quảng trường thánh Phê-rô, tôi đã có linh tính rõ rệt rằng tôi sẽ được cứu. Ngày đó, bàn tay của một người xiết có súng để hại tôi, nhưng bàn tay của một Đấng đã lái hướng đi của viên đạn để cứu tôi” (Sđd, tr. 361).
Sự che chở của Mẹ Maria đã cứu thoát ngài trong biến cố đó, đối với ngài, không thể nghi ngờ được, và phép lạ đã được chính thức hoá bởi ngày tháng xảy ra biến cố : ngày kỷ niệm đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima (13-5).
Một năm sau, vào các ngày từ 12-15/5/1982, ngài đi Fatima tạ ơn Đức Mẹ và dâng cho Mẹ viên đạn do Ali bắn vào ngài. Viên đạn này đã được kết vào triều thiên của Mẹ.
Trong ngày lễ Truyền Tin năm 1984, ngài đọc kinh tận hiến thế giới cho Mẹ Maria như Mẹ đã yêu cầu ở Fatima.
Mười năm sau khi bị mưu sát, trong các ngày từ 10-13/5/1991, ngài lại đến Fatima dâng lời tạ ơn.
Ngày 12 và 13/05/2000, Đức Gioan Phaolô II đã hành hương Fatima lần thứ ba trong nhiệm kỳ giáo hoàng của ngài. Ngài đã phong Chân phước cho hai trẻ chăn chiên : Phanxico và Giaxinta, và để tạ ơn Mẹ Maria về sự che chở của Mẹ trong suốt nhiệm kỳ giáo hoàng của ngài. Khoảng 60.000 tín hữu thuộc 24 quốc gia, đã quy tụ tại Fatima chung quanh ngài trong hai ngày 12 và 13-5. Ngay từ buổi chiều ngày 12, vừa mới tới, ngài đã cầm trí cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ trong nhà nguyện ghi dấu các cuộc hiện ra, và một bầu khí thinh lặng đã phủ xuống trên cả quảng trường rộng mênh mông : không một tiếng động, một giọng nói, không một sự chia trí nào : đây là sự thinh lặng của đức tin tôn nghiêm, tất cả đã lồng mình vào lời cầu nguyện thầm lặng của Đức Thánh Cha, còn ngài thì đang trầm mình ngây ngất trong cầu nguyện : chỉ còn một trái tim, một linh hồn với vị chủ chăn trước nhan Đức Maria.
Năm tháng sau, vào Tháng Mân Côi năm Đại toàn xá 2000, tượng Đức Mẹ Fatima được rước từ Bồ Đào Nha về Roma, và Chúa nhật 8-10-2000, Đức Gioan Phaolô II long trọng tận hiến toàn Giáo hội và thế giới cho trái tim vô nhiễm Mẹ Maria (Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II với Fatima, tr. 36).
Ngài đã đi hành hương hầu hết những nơi Đức Mẹ đã hiện ra như Lộ Đức, Fatima, Mễ Du… Nơi hành hương gần đây nhất là Đền Đức Mẹ ở Pompei (Ý) vào ngày lễ Mân Côi 07-10-2003.
Đức Gioan Phaolô II rất trung thành với chuỗi Mân Côi, ngài lần hạt mỗi ngày. Vào mỗi thứ bảy đầu tháng, ngài lần hạt chung với giáo dân tại Hội Trường Phaolo VI. Dịp các Đức Giám Mục hành hương năm 2000, ngài mời chị Lucia đến đọc kinh Mân Côi, chị đọc một bè bằng tiếng Bồ Đào Nha, ngài và các Giám mục đọc một bè bằng tiếng La tinh.
Ngài đã viết 2 văn kiện lớn về Đức Mẹ:
– Thông Điệp Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Độ), công bố ngày 25-03-1987, để chuẩn bị năm Thánh Mẫu, bắt đầu từ lễ Hiện Xuống năm 1987 và bế mạc ngày lễ Mông Triệu năm 1988.
– Tông Thư Rosarium Virgilis Mariae (Kinh Rất Thánh Mân Côi) công bố ngày 16-03-2002.
Chính ngài đã thêm vào 5 mầu nhiệm sự sáng và công bố năm Mân Côi (từ tháng 10 năm 2002 đến tháng 10 năm 2003).
3. Tôn kính các Thánh
Đức Gioan Phaolô II có lòng tôn kính đặc biệt đối với các thánh, nhất là các thánh tử đạo. Ngài là người đạt kỷ lục trong việc tôn phong các Thánh và Chân phước. Tính đến ngày 19-11, ngài đã tôn phong 1.322 chân phước và 457 vị hiển thánh, trong đó có 117 vị Thánh tử đạo Việt Nam và 120 vị Thánh tử đạo Trung Hoa. Con số các vị Thánh và Chân phước được ngài tôn phong nhiều hơn tổng số các vị mà các Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài tôn phong trong vòng 400 năm trước đó.
Ngài đăc biệt kính mến thánh Stanislao, Giám mục tử đạo Ba Lan. Chính cuộc đời của vị thánh tử đạo này đã soi sáng cho ngài về ý nghĩa của đau khổ và tử đạo. Thánh nhân sinh năm 1030 tại mạn Bắc Ba Lan, được bổ làm Giám mục Cracovia ngày 8-5-1072. Năm 1972, nhân kỷ niệm 900 năm thánh nhân được bổ nhiệm làm Giám mục Cracovia, hồng y Woityla đã phát biểu rằng thánh Stanislao đã để lại một dấu ấn không thể xoá mờ trên định mệnh của Giáo Hội cũng như định mệnh của chính quê hương. Tôn kính đặc biệt thánh Stanislao, vị giám mục đã dùng chính mạng sống mình để lên tiếng tố cáo những hành động gian ác và cuộc sống vô luân của nhà vua, Đức Gioan Phaolô II luôn ý thức cách đặc biệt rằng ngài cũng phải chịu đau khổ và ngay cả tử đạo vì lòng ái quốc, vì tôn giáo, vì tự do con người. Đối với ngài, Người đã và đang kinh qua đau khổ vì Giáo Hội, vì những quyền cơ bản của con người, thì không có cái chết nào cao cả hơn cái chết cho công lý và tự do cũng như cho tôn giáo. Chính vì thế, trong Tông thư đề ra đường hướng chuẩn bị năm thánh 2000, ngài đã kêu gọi mọi giáo hội địa phương viết lại chứng từ của các vị tử đạo trong những thập niên gần đây.
Tạm kết
Hẳn quý độc giả cùng đồng ý với chúng tôi rằng, chúng ta không thể nào khái quát hết những điểm son trong đời sống tâm linh của Đức thánh cha Gioan Phaolô II trong một vài trang giấy. Để kết thúc bài viết này, xin được trích dẫn một suy tư của cố Giáo hoàng khi ngài viết: “Tôi vẫn luôn xác tính rằng, nếu tôi muốn thoả mãn cơn đói nội tâm của người khác, theo gương Đức Ma-ri-a, trước tiên chính tôi phải lắng nghe Lời Chúa và suy đi nghĩ lại trong lòng(xc. Lc 2, 19). Đồng thời, càng ngày tôi càng hiểu rõ hơn, người giám mục cũng phải biết lắng nghe những người mà mình loan báo Tin Mừng.”ª
Thanh Vân
(trích tuyển tập Từ ô cửa nhiệm mầu, tủ sách Tấm Lòng Vàng)