Đức Maria, Hình ảnh của Giáo hội hiệp hành: Bài 01 – Đầy ơn sủng và Thiên Chúa ở cùng

Là Giáo hội hiệp hành, chúng ta cũng hãy mừng vui với Đức Maria, vì Thiên Chúa đang bước đi cùng chúng ta. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi bất kỳ ai. Sự hiện diện yêu thương của Ngài vượt qua những rào cản tôn giáo, sắc tộc và văn hóa.

 

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM

Ngay từ buổi sơ khai, Đức Maria đã chiếm một vị trí quan trọng trong lòng các Tông đồ và các tín hữu đầu tiên, với một lòng yêu mến và tôn kính đặc biệt. Riêng đối với người tín hữu Việt Nam, lòng sùng kính ấy đã thấm nhập sâu xa vào đời sống đức tin và được thể hiện qua các việc đạo đức rất thường xuyên như: lần chuỗi, dâng hoa, rước kiệu, ca hát, khấn xin, kính nhớ Đức Mẹ vào mỗi thứ Bảy hằng tuần, cử hành hằng tháng cách long trọng các ngày Đức Mẹ hiện ra…

Chính vì thế, trong bối cảnh của toàn thể Giáo Hội đang hướng về Thượng Hội Đồng Giám Mục về Hiệp Hành cấp hoàn vũ sẽ được tổ chức vào tháng 10.2023 sắp tới tại Rôma, Khoa Thánh Mẫu của Học Viện Giáo hoàng tại Vatican đã xuất bản tác phẩm “Đức Maria, Hình ảnh của Giáo hội Hiệp Hành”.

Tác phẩm gồm 12 bài giải thích và suy niệm dựa trên nền tảng Thánh Kinh về các nhân đức của Đức Maria, đặc biệt là các nhân đức thể hiện tinh thần hiệp hành mà toàn thể Giáo hội đang hướng tới. Đó là các nhân đức trong việc phân định ý Chúa, lắng nghe và thi hành Lời Chúa, ngoan ngùy với Chúa Thánh Thần, thinh lặng chiêm niệm, bước đi với mọi người, yêu thương nâng đỡ những người bé nhỏ, và cộng tác loan báo Tin mừng… Những bài suy niệm này dễ đọc và mang tính thực hành rất cao, sẽ giúp mọi tín hữu đi vào sâu vào “tiến trình Hiệp Hành” đã khởi sự từ hai năm qua.

Thật vậy, “Trong cuốn sách mang tính thiêng liêng, giáo dục và rất sâu sắc này, D. Kulandaisamy và Y. Karunanidhi giúp chúng ta suy tư về Đức Maria, hình ảnh của Giáo hội Hiệp Hành. Và cùng với Thượng Hội đồng năm 2021 – “Vì một Giáo hội Hiệp Hành: Hiệp Thông, Tham Gia và Sứ Vụ” – chúng ta đã bước vào một tiến trình hiệp hành, cả hai đều đề nghị với chúng ta việc chiêm ngắm Đức Maria như là một hình ảnh truyền cảm hứng để hướng dẫn chúng ta bước vào con đường hoán cải để trở thành một Giáo hội Hiệp Hành” (trích Lời Kết của tác phẩm).

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15.8.2023

+ Giuse Đỗ Mạnh Hùng

Giám mục Phan Thiết

Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam

 

LỜI TỰA

Đức Maria, Hình ảnh của Giáo hội hiệp hành” là tựa đề tác phẩm quan trọng của hai linh mục: Denis Kulanadaisamy và Yesu Karunanidhi. Tác phẩm giới thiệu với độc giả về ý nghĩa Thánh Kinh của mẫu gương Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Khi Mẹ đứng dưới chân thập giá, thì chính Đức Kitô đã đặt Mẹ là người mẹ thiêng liêng của các môn đệ yêu quý của Người. Đây là lý do vì sao Giáo hội nhận Mẹ của Chúa Giêsu cũng là Mẹ của Giáo hội và chỉ ra chính Mẹ là khuôn mẫu của mỗi người môn đệ, người biết lắng nghe Lời Thầy và đem ra thực hành.

Nhờ đức tin, Đức Maria đã đón nhận Con Thiên Chúa, Đấng trở thành người anh của chúng ta. Chính Mẹ là người đã đưa Chúa vào lịch sử, vào văn hóa, và vào đời sống nhân loại trong cuộc sống thường ngày tại Nazareth và là người đã bước theo Chúa Giêsu trong sứ mạng của Chúa. Như Mẹ đã từng chăm sóc cho Chúa Giêsu, thì Mẹ cũng sẽ tiếp tục chăm sóc những anh chị em của Con mình, những người mà chính Chúa Giêsu đã cứu chuộc bằng chính mạng sống của Ngài.

Đức Maria đã được chính Chúa Giêsu trên Thánh giá giới thiệu như là người Mẹ quy tụ tất cả con cái Israel lại với nhau, chính là Giêrusalem mới, là hình ảnh sống động của Giáo hội. Đây là lý do chúng ta thấy Đức Mẹ Đồng Trinh đã ở cùng với các tông đồ trong phòng Tiệc ly: một dấu chỉ của sự gặp gỡ và tính hiệp nhất! Giáo hội sơ khai quy tụ chung quanh Mẹ và Giáo hội ngày nay cũng vậy: Mẹ ở lại trong lịch sử như là nguyên lý cho tính hiệp hành của Giáo hội.

Đối với Giáo hội Công giáo, Đức Maria vẫn luôn là một khía cạnh nền tảng trong suy nghĩ của Kitô hữu, nhưng về giá trị thì vượt khỏi ranh giới Kitô giáo. Nơi Đức Maria chúng ta có thể tìm thấy một trong những biểu tượng văn hóa phổ biến và mạnh mẽ nhất trong hai ngàn năm qua.

Hình ảnh Đức Maria là biểu tượng cho mọi nền văn hóa về sự dịu dàng của người Mẹ, một sự dịu dàng muốn đón nhận tất cả mọi người vào trong cung lòng của Mẹ.

Trách nhiệm không ngừng của Giáo hội là luôn phải xem xét kỹ lưỡng những dấu chỉ của thời đại và giải thích chúng dưới ánh sáng Lời Chúa. Trong sứ mạng mang tính quyết định này của Giáo hội, vị thế và vai trò trung tâm của Đức Trinh nữ Maria luôn nổi bật. Để có thể hiểu được chính con người của Mẹ và để bắt chước các nhân đức của Mẹ, chúng ta cần chiêm ngắm Mẹ từ nền tảng vững chắc của Thánh Kinh.

Chúng ta cảm ơn hai tác giả của bộ sách này vì đã cung cấp những nền tảng chắc chắn, giúp chúng ta hiểu một cách chính xác và hữu ích về nguồn gốc Thánh Mẫu cho tính hiệp hành của Giáo hội.

Lm. Stefano Cecchin, OFM,

Viện trưởng Học viện Giáo hoàng Quốc tế về Đức Maria

 

DẪN NHẬP

Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Giáo hội và Thượng Hội đồng là đồng nghĩa với nhau”. Tái khám phá chiều kích hiệp hành của Giáo hội là lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô đối với tất cả những người đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.

Tính hiệp hành nghĩa là bước đi cùng nhau. Như một Giáo hội lữ hành, chúng ta xem Đức Maria như người đồng hành trong hành trình thiêng liêng của chúng ta, bởi vì Mẹ là Mẹ và là Khuôn mẫu của Giáo hội. Giáo hội luôn luôn được soi sáng bởi chính sự hiện diện của Đức Maria. Đức thánh Giáo hoàng Phaolô VI nhận xét: “Tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria vượt không gian, thời gian và thuộc về lịch sử của Giáo hội hoàn vũ, bởi Mẹ luôn hiện diện trong Giáo hội với sự trợ giúp từ mẫu.… Mọi giai đoạn lịch sử của Giáo hội đã được và sẽ được hưởng lợi từ sự hiện diện của Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ luôn gắn bó bền chặt với mầu nhiệm của Nhiệm Thể, mà Đầu của Nhiệm Thể là Chúa Giêsu Kitô, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời (Dt 13,8)”.

Sự hiện diện của Đức Maria trong Giáo hội thì mang tính từ mẫu, tích cực và công hiệu, nguyện cầu, vĩnh cửu, nữ tính, gương mẫu, bí tích, linh thiêng, riêng biệt, cá vị, và đặc trưng. Khi sống tính hiệp hành của Giáo hội, chúng ta có Đức Maria là mẫu gương để chúng ta noi theo. Để noi theo Mẹ, chúng ta cần hiểu biết và thấm nhuần trong tâm hồn chúng ta những giá trị và tinh thần của Mẹ nhiều hơn. Thánh Kinh là nguồn đáng tin cậy và lâu đời nhất để chúng ta biết về cuộc sống của Đức Maria và sự cộng tác của Mẹ với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Đọc và suy niệm những sứ điệp Thánh Kinh về Đức Maria, chúng ta có thể học nơi Mẹ cách sống linh đạo của Mẹ trong tiến trình hiệp hành.

Đức Maria rất thân quen và vâng phục Lời Thiên Chúa. Về việc Mẹ thân quen với Lời Chúa, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói, “điều này được minh chứng rõ ràng trong Kinh Magnificat. Ở đây, theo một nghĩa nào đó, ta thấy Đức Maria đã tự đồng hoá với Lời, đi vào trong Lời; trong bài thánh ca đức tin đầy tuyệt diệu này, Đức Trinh Nữ đã ngợi khen Đức Chúa bằng chính lời của Ngài… Ở đây, chúng ta thấy với Lời Thiên Chúa, Đức Maria tỏ ra thật sự thân quen như ở trong nhà mình, Mẹ thoải mái đi ra, đi vào. Mẹ nói năng và suy nghĩ với Lời Thiên Chúa; Lời Thiên Chúa trở thành lời của Mẹ, và lời của Mẹ phát sinh từ Lời Thiên Chúa. Hơn nữa, ta thấy tư tưởng của Mẹ hoà điệu với tư tưởng của Thiên Chúa, ý muốn của Mẹ nên một với ý muốn của Thiên Chúa. Vì được Lời Thiên Chúa thấm nhuần sâu xa, Mẹ có thể trở thành Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể”. Đức Maria mời gọi chúng ta hãy yêu mến và sống với Lời Thiên Chúa.

Liên quan đến tính trung tâm của Lời Chúa trong hành trình hiệp hành, Tài liệu “những nguồn Thánh Kinh cho tính hiệp hành” nói rằng: “Nhờ hành động thầm lặng và tinh tế của Chúa Thánh Thần, Lời trong Thánh Kinh đã trở thành Lời trong Giáo hội. Lời đối mới, truyền cảm hứng và nâng cõi lòng cùng trí tưởng tượng của chúng ta, để nhìn thấy ơn cứu độ và tình yêu chữa lành của Chúa trong cuộc sống, trong Giáo hội và trong thế giới của chúng ta. Lời của Chúa thực sự là ‘lương thực cho cuộc hành trình’ của chúng ta, để dù có khó khăn và mệt mỏi đến đâu, thì tâm hồn trĩu nặng vẫn được bồi dưỡng và tâm hồn sầu muộn vẫn được an ủi (Gr 31,25). Vì Lời của Chúa như nguồn nước tưới cho đất đang khô hạn, vươn tới sự sống đời đời (Ga 4,14). Đây là lý do tại sao Thánh Kinh là trung tâm của tiến trình hiệp hành”.

Và thực sự vì lý do này mà sách này mời gọi người đọc suy niệm những đoạn văn về Đức Maria trong Tân ước và học với Mẹ cách để sống tính hiệp hành trong Giáo hội. Vì thế, Thánh Kinh, Đức Maria và Giáo hội hiệp hành là 3 yếu tố then chốt cấu thành nội dung cuốn sách. Hơn nữa, Lời Chúa và Đức Maria là những chủ đề cung cấp cho người đọc những hướng dẫn thực tế cho tiến trình hiệp hành.

 

BÀI 1: ĐẦY ƠN SỦNG VÀ THIÊN CHÚA Ở CÙNG

Thiên thần Gabriel vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28).

Nền tảng Thánh Kinh

Trong Tin mừng Matthêu, thánh Giuse được biết đến như một người công chính (tiếng Hy Lạp là ‘dikaios’) (x. Mt 1,19), và trong Tin mừng Thánh Luca, Đức Maria được giới thiệu với hai cụm từ: “Đầy ân sủng” (kecharitomene) và “Thiên Chúa ở cùng” (kyrios-meta-sou) (x. Lc 1,28). “Đầy ân sủng” thường được dùng ở một vài nơi trong Tân ước, như thư Êphêsô 1,16. Thành ngữ “đầy ân sủng” gợi lên nhiều vấn đề về văn bản và dịch thuật. Bản Vulgata dịch từ này là “gratia plena”, trong khi những bản dịch khác là “gratia cumulata” hoặc “đã được chấp nhận”. Điều này ngụ ý rằng Đức Maria là đấng đầy ân sủng và được Thiên Chúa chấp nhận. Được ưu ái trong mắt một người có nghĩa là người đó trở thành lựa chọn và mong muốn duy nhất. Đức Maria đã đón nhận được nhiều ân sủng từ Thiên Chúa và Mẹ luôn tràn đầy những tập quán hoặc giá trị cao quý. Ân sủng đặc biệt làm cho Mẹ trở thành người được chọn giữa những người nữ để làm Mẹ Đấng Mêssia. Việc Đức Maria hạ sinh Chúa Giêsu cách diệu kỳ (x. Lc 1,31-33) là một ví dụ về ân sủng của Thiên Chúa. Chính Đức Maria đã nhận ra điều này (x. Lc 1,46-47). Trong khi Mẹ luôn sẵn sàng và trung thành, thì Mẹ cũng giống như mỗi người chúng ta, thường gặp rắc rối ở bước khởi đầu (x. Lc 1,29), và Mẹ luôn tự hỏi Thiên Chúa làm thế nào để hoàn thành kế hoạch của Ngài (x. Lc 1,34), không giống Dacaria (x. Lc 1,18), câu hỏi của Mẹ là “làm thế nào để những Lời này trở nên hiện thực, không phải là câu hỏi theo kiểu “Nếu như”.

Cụm từ “Thiên-Chúa-ở-cùng” là một lời chào phổ biến của người Do Thái (x. Tl 6,12; Ruth 2,4). Trong Thủ lãnh 6,12, khi Ghiđêon được Thiên thần của Thiên Chúa gửi lời chào, thì ông đã hỏi vặn lại: “Ôi, thưa Ngài, nếu Đức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe” (Tl 6,13). Cụm từ “Thiên Chúa ở cùng ngươi” được ban như là một sự bảo đảm và là một dấu hiệu cho Akhát: “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel” (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) (x. Is 7,14). Câu này đã được Thánh Matthêu trích dẫn trong trình thuật Thời Thơ Ấu khi việc sinh hạ Chúa Giêsu được thông báo cho thánh Giuse (x. Mt 1,23).

Trong hai cách diễn đạt “đầy ân sủng” và “Thiên Chúa ở cùng”, Thiên Chúa là trung tâm. Thiên Chúa là nhân vật chính của câu chuyện. Thiên Chúa chọn Đức Maria và Thiên Chúa ở cùng Mẹ.

Ý nghĩa hiệp hành

Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội lữ hành. Thiên Chúa là nguồn gốc và đích đến của hành trình cùng nhau. Và Ngài đồng hành với chúng ta suốt quãng đường đi. Tuy nhiên, Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những đồ vật. Thiên Chúa bước vào mối tương quan liên vị với từng người chúng ta trên thế giới. Thế giới này trở thành nơi quy tụ ân sủng và sự hiện diện của Thiên Chúa. Trong thế giới hôm nay, “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” đã bị giải thích sai theo ba cách:

Thiên Chúa không ở cùng chúng ta

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã rời bỏ một số người trong một số điều kiện. Tại thung lũng Sorek, khi Samson phá vỡ lời thề Nazirite, Đức Chúa đã rời bỏ ông: “Nhưng Samson không hề hay biết Thiên Chúa đã rời xa ông” (Tl 16, 20). Khi Saul không vâng lời Đức Chúa, Thần Khí Chúa đã rời xa ông: “Bấy giờ, Thần khí Đức Chúa rời khỏi vua Saul và một thần khí xấu từ Đức Chúa đến ám vua” (1 Sm 16,14). Khi vua Nabucôđônôso của Babylon phá hủy thành Giêrusalem, đốt Đền thờ, và đưa dân Israel đi lưu đày thì vinh quang của Chúa đã rời Giêrusalem (x. Ed 11,23). Vì thế, một số cá nhân và cộng đoàn đã cảm nghiệm được sự vắng mặt của Thiên Chúa trong cuộc sống của họ. “Thiên Chúa không ở cùng chúng ta” là một kinh nghiệm hiện sinh cho những người này.

Liên quan đến nhiều loại khủng hoảng toàn cầu khác nhau như đại dịch Covid-19, Tài Liệu Chuẩn Bị cho Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành, ngay từ đầu đã làm rõ: “Tình trạng này, bất kể nhiều dị biệt rất lớn, liên can đến toàn thể gia đình nhân loại, thách thức khả năng của Giáo hội trong việc đồng hành cá nhân và cộng đồng để nhìn lại những kinh nghiệm tang thương, qua đó cho phép chúng ta vạch trần vô số những an toàn giả tạo và vun trồng niềm hy vọng và tin tưởng nơi lòng nhân hậu của Đấng Tạo Hóa và sự tốt lành trong công trình tạo dựng của Ngài. Tuy nhiên, chúng ta không thể che dấu một thực tế rằng Giáo hội đang phải đương đầu với sự thiếu đức tin và suy đồi của chính mình”. Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng: “Đấng Tạo hóa không bỏ rơi chúng ta; Ngài chưa bao giờ từ bỏ kế hoạch yêu thương của Ngài hoặc hối hận vì đã tạo dựng nên chúng ta. Nhân loại vẫn có khả năng làm việc chung với nhau để xây dựng ngôi nhà chung”.

Khi trình bày về cách tiến hành thỉnh ý ở cấp giáo phận, Cẩm nang cho Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành nhấn mạnh rằng cần đặc biệt quan tâm đến những người có nguy cơ bị loại trừ như phụ nữ, người khuyết tật, người di dân, người tị nạn, người già, người nghèo đói, những người Công giáo ít khi hay không bao giờ thực hành đức tin, v.v…. Những người đã mất niềm tin vì sự mất mát, mất người thân yêu, thất vọng, sầu muộn, mắc bệnh nan y, không thể vượt qua nghiện ngập, thiên tai, chiến tranh, và bạo lực. Trong những khoảng thời gian này, chúng ta cảm nhận mạnh mẽ Thiên Chúa không còn ở cùng chúng ta. Đôi khi, chúng ta rơi vào tuyệt vọng rằng Thiên Chúa đang trừng phạt chúng ta vì tội lỗi của mình. Kết thúc bài giáo lý về lòng thương xót trong Cựu Ước, Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích về thánh vịnh 51, được gọi là Miserere (xin thương xót) như sau: “Tình yêu Chúa là đại dương của lòng thương xót và tha thứ vô tận, cho dù tội lỗi chúng ta có tồi tệ đến đâu cũng được rửa sạch”

Thiên Chúa không cần ở cùng chúng ta

Từ thời Khai sáng, khi lý trí con người được tôn vinh, thì niềm tin vào Thiên Chúa đã bị loại trừ. Những gì không thể cảm nhận được bằng lý trí hay giác quan thì không có ý nghĩa gì đối với con người. Quan điểm này xem tôn giáo là một điều gì thuộc về thế giới siêu nhiên hoặc mê tín dị đoan. Hơn nữa, khi thấy bạo lực, chiến tranh và những sai lạc về luân lý đã xảy ra nhân danh Thiên Chúa, thì những người trí thức xem tôn giáo là dư thừa và lỗi thời. Những người ủng hộ lối sống tự do thì coi sự hiện diện của Thiên Chúa là mối đe dọa. Khi gặp đau khổ, Gióp cũng đã suy nghĩ theo khuynh hướng này, nhất là khi đau khổ của ông đã vượt quá sức chịu đựng: “Ngày đời con, nào có được bao nhiêu! Xin Ngài nương tay, để con được đôi phần thanh thỏa, trước khi con ra đi, không hẹn ngày trở lại, đi về nơi tăm tối, dưới bóng tử thần” (G 10, 20-21). Gióp nghĩ rằng Thiên Chúa ngăn cấm hạnh phúc của ông. Kinh nghiệm về Thiên Chúa vượt trên cảm nhận của con người. Mặc dù người ta vẫn nhân danh Thiên Chúa hoặc tôn giáo để sử dụng bạo lực, nhưng tôn giáo vẫn là một sức mạnh hợp nhất và giải phóng. Giáo hội hiệp hành nên tin chắc rằng sự hiện diện của Thiên Chúa luôn giúp giải thoát Giáo hội. Còn xu hướng loại trừ Thiên Chúa của chúng ta sẽ gây hại cho chính chúng ta mà thôi.

Thiên Chúa ở cùng một mình chúng ta

 Khi quan điểm ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta’ trở thành quan điểm ‘Thiên Chúa ở cùng một mình chúng ta’, thì chủ nghĩa cực đoan tôn giáo bắt đầu nổi lên. Điều này trở thành một hệ tư tưởng muốn loại bỏ những người theo tôn giáo khác. Hệ tư tưởng này tạo ra một sự chia rẽ giữa mọi người. Nó dành thời gian và năng lượng trong việc bảo vệ Thiên Chúa. Chính hệ tư tưởng này dẫn đến việc theo đạo hàng loạt và chính sách thực dân hóa ở nhiều quốc gia, điều đó vẫn còn để lại những vết sẹo. Chính do khái niệm này mà sự phân tầng xã hội cách xấu xa vẫn còn tồn tại mãi. Con người bị phân loại là trong sạch và ô uế, cao và thấp, đụng chạm được và không đụng chạm được. Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội quy tụ, nơi đó tất cả mọi người đều được tôn trọng và chào đón. Giáo hội biểu dương sự đa dạng của các tôn giáo và nhiều cách thức diễn tả mạc khải của Thiên Chúa.

Hãy vui lên, vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta

Lời chào của Thiên thần Gabriel gửi tới Đức Maria (chaire) có thể dịch là “Mừng vui lên”, bởi vì đó là nghĩa đen của động từ chairein (x. Lc 1,28). “Bình an” (Shalom) là một cách chào bình thường, nhưng lời chào đặc biệt của Thiên thần gửi tới Đức Maria là một lời mời gọi mừng vui lên. Tại sao Đức Maria được chào là mừng vui lên? Bởi vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Các học giả Thánh Kinh đề nghị chọn đoạn văn Xôphônia 3,14-17 làm nền tảng cho Luca 1,28-30. Dân Israel được mời gọi mừng vui lên vì Thiên Chúa ở với họ: “Mừng vui lên… Thiếu nữ Sion… Vua Israel là Đức Chúa ở với ngươi” (Xp 3, 14-17).

Trong hành trình hiệp hành, chúng ta hãy cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa đối với chúng ta giống như sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài qua việc đồng hành đối với dân Israel và Đức Maria. Là Giáo hội hiệp hành, chúng ta cũng hãy mừng vui với Đức Maria, vì Thiên Chúa đang bước đi cùng chúng ta. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi bất kỳ ai. Sự hiện diện yêu thương của Ngài vượt qua những rào cản tôn giáo, sắc tộc và văn hóa. Chúng ta hãy cùng nhau bước đi trong niềm xác tín này.

Chuyển ngữ: Nt. Têrêsa Kiều Thị Yến Ly, SPC

Trích từ: Tác phẩm “Đức Maria, Hình ảnh của Giáo hội hiệp hành”

Nguyên tác: Mary Icon of the Synodal Church: Biblical Reflections

WHĐ (02.06.2024)