Đức Maria trong các sách Tin Mừng
Kinh Thánh và Giáo Hội không chỉ nói về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa một cách trừu tượng và lý thuyết. Giống như thần học thời các giáo phụ, thần học Kinh Thánh là một nền thần học bằng hình ảnh. Nơi con người Đức Maria, các nền thần học trình bày cho chúng ta một hình ảnh cụ thể, một hình ảnh thực sự phản chiếu Lòng Thương Xót của Thiên Chúa và là hình mẫu (archetype) của nhân loại cũng như của lòng thương xót Ki-tô Giáo. Đức Maria là hình mẫu của Giáo Hội, do đó Mẹ cũng là hình mẫu của lòng thương xót Ki-tô Giáo. Niềm tin này được bén rẽ sâu xa trong nhận thức tôn giáo của Giáo Hội, cả Công Giáo lẫn Chính Thống Giáo, từ những thế kỷ đầu tiên cho tới ngày nay. Dần dần, niềm tin ấy chiếm một vị trí lớn hơn trong nhận thức và con tim của rất nhiều Ki-tô hữu sống Tin Mừng.
Trên thực tế, có thể và chắc chắc đã có người phê bình những nỗ lực cường điệu hóa vị thế của Đức Maria dựa trên tiêu chuẩn là những lời chứng của Kinh Thánh về Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là nền tảng – được thiết lập một lần cho tất cả – và là trung tâm điểm vĩnh cửu của Đức Tin Ki-tô Giáo. Mặt khác, họ cũng đồng thời đặt ra quan điểm hạ thấp Đức Maria (Marian minimalism) khi nông nổi, ngạo mạn, và phần nào đó là thiển cận bỏ qua chứng từ của vô vàn Ki-tô hữu qua mọi thế kỷ, là những người đã nại đến Mẹ Thiên Chúa như người Mẹ của Lòng Thương Xót, và kinh nghiệm được sự trợ giúp, an ủi của Mẹ trong rất nhiều khó khăn nội tại lẫn ngoại tại. Quan điểm này cho rằng tất cả những điều trên xảy ra như thể chúng chỉ là những tình cảm đạo đức dồi dào, và lòng sùng kính Đức Maria được đẩy lên đỉnh điểm. Rốt cuộc, họ phải thừa nhận rằng: Đức Maria xuất hiện trong Tin Mừng với một vai trò thực sự nổi bật.
Trước nhất, có thể thấy có hai trích đoạn trong Tân Ước đã hình thành nên một nền tảng vững chắc cho linh đạo Đức Maria: bối cảnh Truyền Tin trong phần đầu của Tin Mừng (Lc 1,26-38) và khung cảnh ở cuối Tin Mừng khi Đức Maria đứng gần thập giá (Ga 19,26). Khung cảnh trong Tin Mừng theo thánh Gio-an được kết nối với trình thuật tiệc cưới Cana ở đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su (Ga 2,1-12). Như vậy, ta có thể nói rằng các bối cảnh liên quan tới Thánh Mẫu học đã tạo khung cho toàn bộ Tin Mừng; dù mới chỉ lướt qua, thì các bối cảnh ấy cũng đã dành cho Đức Maria một vị trí nổi bật trong lịch sử Cứu Độ. Rõ ràng, một vài đoạn trích trên về Đức Maria được tìm thấy trong Kinh Thánh đã làm sáng tỏ vai trò quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của Đức Maria trong lịch sử hành động của Thiên Chúa đối với chúng ta – những người tội lỗi.
Bối cảnh Truyền Tin ở đầu Tin Mừng theo thánh Luca, giống như toàn bộ giai đoạn chuẩn bị cho sự xuất hiện công khai của Đức Giê-su, đã giới thiệu các vấn đề mang tính lịch sử và suy tư văn chương. Điều cần được nói trong văn cảnh này thì đã được trình bày. Theo tư tưởng của thánh Luca, rõ ràng là đã có một ý nghĩa thần học quan trọng tập trung ở giai đoạn chuẩn bị. Trong giai đoạn ấy, mọi mô-típ quan trọng của Tin Mừng đã được vang lên như một khúc nhạc dạo đầu. Vì lý do đó, trong bài ca Magnificat, Đức Maria đã tóm kết toàn bộ lịch sử Cứu Độ và miêu tả lịch sử ấy như là câu chuyện về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ người” (Lc 1,50). Cùng với việc tuyển chọn và mời gọi Đức Maria trở thành mẹ Đấng Cứu Thế, lịch sử này đã bước vào thời kỳ viên mãn và quyết định. Với Lòng Thương Xót vô bờ của Thiên Chúa, giờ đây Ngài thực hiện một nỗ lực cuối cùng, dứt khoát và thuyết phục để cứu dân Ngài cũng như cứu toàn thể nhân loại.
Đức Maria được tuyển chọn để cộng tác vào công trình cứu chuộc vĩ đại này. Mẹ đã được “đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30). Điều này có nghĩa là: về phần mình, Mẹ hoàn toàn không là gì, nhưng Mẹ là mọi sự nhờ ân sủng. Mẹ chỉ là “tôi tớ của Thiên Chúa” (Lc 1,38). Mọi vinh quang không thuộc về Mẹ, nhưng thuộc về một mình Thiên Chúa, vì với Ngài thì không có gì là không thể (Lc 1,37). Bởi thế, Mẹ ca lên rằng:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi.
Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả
Danh người thật chí thánh chí tôn! (Lc 1,46-47,49)
Mẹ hoàn toàn như một con thuyền, và đơn giản là một khí cụ khiêm tốn của Lòng Thương Xót Chúa. Martin Luther đã làm sáng tỏ điểm này trong lời chú giải của ông liên quan tới kinh Magnificat. Đối với ông, Đức Maria không là gì ngoài một hình mẫu của “Sola gratia”, tức là “chỉ bởi ân sủng mà thôi.”
Mẹ là khí cụ của lòng thương xót Chúa nhờ tiếng “xin vâng” tín trung trước sứ điệp không thể hiểu thấu của sứ thần là điều đã khiến Mẹ ngạc nhiên và choáng ngợp phút ban đầu. Với tiếng “xin vâng” của mình, Đức Maria tự nhận mình là người nữ tỳ, người tôi tớ của Thiên Chúa. Với lời này, Mẹ diễn tả đồng thời tính ứng trực trọn vẹn và thuần túy thụ động cũng như sự sẵn sàng chủ động của Mẹ để cộng tác vào công trình cứu độ. Mẹ dành cho Chúa khoảng trống để Ngài thực hiện kỳ công của Ngài. Mẹ chỉ có thể thưa lên tiếng “xin vâng” đáp lại điều vượt quá khả năng tượng tưởng của con người như một người được chúc phúc bởi Thiên Chúa.
Với tiếng “xin vâng” tuân phục này, Đức Maria đã khai mở cuộc giáng lâm của Thiên Chúa nơi thế giới này. Bằng cách thức đó, Mẹ đã trở nên bà Evà mới. Trong khi Evà đầu tiên mang thống khổ và đớn đau đến cho nhân loại vì sự bất tuân của bà, thì nhờ sự vâng phục tín trung của mình thay cho loài người, Đức Maria “đã mở nút thắt của sự bất tuân mà Evà xưa đã buộc lại. Do đó Mẹ đã trở thành mẹ của toàn nhân sinh.” Cũng nhờ tiếng “xin vâng” ấy, Đức Maria đã trở thành người nữ tỳ được Thiên Chúa tuyển chọn và chúc phúc để làm tôi tớ lòng thương xót của Ngài. Thực tế, vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện công trình lòng thương xót, nên Ngài đã chọn và ban cho Mẹ từ một con người, một thiếu nữ bình dị trở thành khí cụ lòng thương xót của Ngài; điều này chính là một diễn tả của lòng thương xót Chúa vốn vượt quá mọi mong đợi và mọi đòi hỏi của con người. Sự tuyển chọn đầy ân sủng dành cho Đức Maria và tiếng “xin vâng” tín trung của Mẹ đã dọn sẵn một khoảng không cho Thiên Chúa ngự vào thế giới và đồng thời khiến Mẹ trở thành Đấng cưu mang Đức Kitô, hòm bia giao ước mới và đền thờ Chúa Thánh Thần. Do đó, Giáo Hội đã trở thành một thực tại trong Đức Maria. Mẹ đã tóm kết nơi mình lịch sử của dân Thiên Chúa trong Cựu Ước và Mẹ cũng đồng thời là nhân tố đầu tiên của dân Thiên Chúa trong Tân Ước. Mẹ là nhân tố đã có trước khi các tông đồ được gọi và dấn bước vào kế hoạch cứu độ. Như một vị đại diện của những kẻ thấp cổ bé họng trên mặt đất này, một “người mẹ của dân thánh” như bài thánh ca của Giáo Hội có nhắc đến, Mẹ là giáo hội do bởi lòng thương xót tinh tuyền của Thiên Chúa trước cả khi nền tảng được thiết lập cho Giáo Hội phẩm trật sau này. Thậm chí trước đó, Mẹ là hiện thân của Giáo Hội nơi chính con người Mẹ, như một người sống hoàn toàn do bởi ân sủng từ nhân của Thiên Chúa và là kẻ đã được chọn như khí cụ sẵn sàng phục vụ của Ngài. Nhìn vào địa vị ưu đãi của Đức Maria, thật là một giả tưởng khi nói rằng Giáo Hội nam quyền đã tạo ra một hình ảnh áp bức về người nữ. Điều ngược lại mới đúng trong trường hợp này.
Đức Maria cũng đã phải cất bước trên con đường đức tin của kẻ hành hương. Như các sách Tin Mừng thuật lại, không có bất cứ chuyện ly kỳ nào trong đời Mẹ giống như các ngụy thư và các truyền thuyết đạo đức muốn tô điểm cho cuộc đời Mẹ. Hầu như trái ngược, Mẹ Maria, “người mẹ của dân thánh” đã phải chịu đựng và đứng vững qua bao khó khăn và gian khổ: việc sinh con giữa cảnh cấp bách tìm chốn náu thân; cuộc trốn chạy sang Ai-cập; hành trình tìm kiếm con; sự xáo trộn trong suốt cuộc đời công khai của con mình, người con mà Mẹ muốn giữ lại trong gia đình; và cuối cùng là sự chịu đựng can trường khi Mẹ đứng dưới thập giá. Mẹ đã chẳng được miễn trừ bất cứ điều gì.
Mẹ Maria thậm chí đã kinh qua đêm đen tối tăm nhất của thập giá với con mình. Mẹ đã không lẩn tránh nó và cũng không trốn chạy. Điều này được diễn tả qua câu nói: “Bà đã đứng ở đó,” “đứng gần thập giá có mẹ Người” (Ga 19,25). Cuối cùng, theo vô số miêu tả nghệ thuật của Pieta (hình thức nghệ thuật mô tả Đức Trinh Nữ Maria bên xác Chúa Giêsu), Mẹ đã ôm ấp thân xác bầm dập của con mình trong lòng Mẹ – là kinh nghiệm đau đớn nhất có thể xảy đến với một người mẹ. Vì thế trong bài ca Magnificat, Đức Maria không chỉ thấy trước những mối phúc của người nghèo, người sầu khổ và những người bị bách hại trong Bài giảng trên núi (Mt 5,2-12; Lc 6,20-26); mà Mẹ còn kinh qua tất cả kinh nghiệm đó.
Kết thúc Tin Mừng Gioan, chu kỳ này đã được khép lại. Đức Maria, người xuất hiện lúc khởi đầu câu chuyện cứu độ của Tân Ước đã nhận lãnh một địa vị quan trọng vào lúc cao trào. Vì từ trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao phó Đức Maria cho Gioan như là mẹ của ông, và ngược lại, Chúa trao phó Gioan môn đệ của mình cho Đức Maria như là con của Mẹ (Ga 19,26). Một lần nữa, khung cảnh này diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Gioan là môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến (Ga 19,26); trong Tin Mừng thứ tư, ông đóng vai trò người môn đệ kiểu mẫu của Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa là, nơi Gioan, Chúa Giêsu trao phó tất cả môn đệ của Ngài cho Đức Maria như những người con, và ngược lại, Chúa trao Đức Maria cho tất cả môn đệ của mình. “Ai cũng hiểu những lời này của Chúa Giêsu chính là ước muốn cuối cùng và di chúc của Ngài. Bằng cách này, Chúa Giêsu nói lên những lời mang tính quyết định và liên hệ tới tương lai của Giáo Hội.”
Sẽ là hữu ích nếu ta đọc chính xác những lời này trong Tin Mừng thứ tư. Tin Mừng nói rằng kể từ lúc đó Gioan rước Mẹ Maria về với ông. Đúng hơn, ta phải dịch câu này: ông khiến bà “trở thành của chính ông” (eig xa I’Sia). Thánh Âugustinô đã suy tư về ý nghĩa của cụm từ “của chính ông”. Theo thánh nhân, ở đây không có nghĩa là ông khiến Mẹ “trở thành sở hữu của ông,” nhưng có nghĩa là ông đưa Mẹ “vào phạm vi hoạt động của ông.” Bởi vì Gioan được cho là người môn đệ còn ở lại cho đến khi Đức Ki-tô trở lại (Ga 21,22), và bằng cách đó, Đức Maria cũng được nhận vào “sự ở lại” của Gioan cũng như trong lời chứng còn mãi của ông. Do đó, Mẹ Maria vĩnh viễn thuộc về Tin Mừng của lòng thương xót Chúa; Mẹ mãi mãi là chứng nhân và khí cụ của lòng thương xót Chúa.
Chuyển ngữ: Quang Khanh, S.J. – Minh Vương, S.J.
(Bài này được dịch từ phần Mary, Mother of Mercy trong cuốn sách The Essence of The Gospel And The Key to Christian Life, của tác giả Walter Kasper, nhà xuất bản Claretian Communications Foundation, Inc., 2015.)