Đến với chiên lạc
Mt 10,1-7
1 Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.
2 Đây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, 3 Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, 4 Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
5 Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: “Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. 6 Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. 7 Các con hãy đi rao giảng rằng: ‘Nước Trời đã gần đến'”.
(Nguồn: Uỷ ban Thánh Kinh / HĐGMVN)
“Các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel.” (Mt 10,6)
A- Phân tích (Hạt giống…)
Bài Phúc Âm này có ba ý:
1. Chúa Giêsu ban quyền cho nhóm 12: họ có quyền trên các thần ô uế và có quyền chữa lành các bệnh tật.
Đây chính là những quyền của Chúa Giêsu (x. Mt 9,35), cho nên nhóm 12 có cùng những quyền với Chúa Giêsu… Hơn nữa nếu so với Mt 4,17 (tóm sứ điệp Chúa Giêsu rao giảng) với câu cuối cùng của đọc Phúc Âm này (“các con hãy đi rao giảng rằng Nước trời đã gần đến”) thì các ông cũng rao giảng cùng sứ điệp như Chúa Giêsu. Như thế danh dự của người giảng Phúc Âm là có cùng quyền năng như Chúa Giêsu và giảng cùng một sứ điệp như Ngài.
2. Trong danh sách 12 tông đồ chúng ta thấy. Họ xuất thân từ nhiều nơi và từ nhiều thành phần khác nhau, đa số là nghèo, ít học và không có địa vị cao trong xã hội.
3. Những chỉ dẫn đầu tiên về cách cư xử:
– Đừng đến với dân ngoại nhưng chỉ đến với chiên lạc nhà Israel
– Nội dung rao giảng: “Nước trời đã gần đến”.
B- Suy gẫm (…nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu không chọn những người tài cao học rộng giàu sang và có địa vị xã hội cao, mà chọn những người có tấm lòng và có thiện chí. Hai điều này là đủ, mọi điều khác Chúa sẽ lo.
2. Một tác giả tưởng tượng việc Chúa chọn các tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào, Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện Ngài cũng không chọn được ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất thời giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hồn vào công việc. Ngài nghĩ thầm họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài. (Trích “Chờ đợi Chúa”).
3. Con số 12 tông đồ: Theo Thánh Agustinô và R. Maur thì con số 12 là nhân lên bởi 3 và 4. Con số 3 là chỉ sự hoàn hảo như 3 Ngôi, Chúa chết 3 ngày đêm. Con số 4 là chỉ bốn phương trời. Vậy nếu con số 3 là hoàn hảo, được nhân lên 4 lần càng hoàn hảo. Ngoài ra Thánh Kinh còn nói Giacob có 12 người con nắm quyền trị vì 12 cho tộc Israel. Sách Khải huyền mô tả nước trời là một Giêrusalem ngợp đầy ánh sáng huy hoàng có 12 cửa, và trên cửa có 12 thiên thần (Kh 21,12). Tóm lại con số 12 ám chỉ sự khiêm hạ và trưởng thành dần dần.
12 tông đồ khác biệt nhau về tính tình, học thức, nghề nghiệp và lòng tin. Đa số là người miền Bắc Do Thái, có mình Giuda ở miền nam. Các tông đồ làm thành một nhóm gọi là Tông đồ đoàn. Ngày nay Giáo hội cũng được tổ chức rập khuôn như thế là trên hết có Đức giáo hoàng và dưới là các Giám mục năm châu.
4. Mười hai tông đồ còn rất non yếu nên Chúa Giêsu không sai họ đến với những đối tượng khó khăn (dân ngoại), mà chỉ đến với những người Israel trước. Chúa không giao sứ mạng quá sức con người đâu. Cho nên tôi đừng ngần ngại và sợ hãi gì cả.
5. Chúa cũng chọn Giuđa, cũng ban quyền cho Giuđa và cũng sai Giuđa đi rao giảng Phúc Âm. Nghĩa là Chúa cũng tin tưởng và đặt hy vọng vào Giuđa. Nhưng Giuđa không đáp lại niềm tin tưởng và hy vọng của Chúa.
Chúa cũng tin tưởng và đặt hy vọng vào con, xin cho con đừng phụ lòng Chúa.
6. Sứ mạng của người rao giảng Phúc Âm là đẩy lùi sự xấu (xua đuổi các thần ô uế) và cứu chữa những khổ đau (chữa lành những người bệnh).
7. “Chúa Giêsu gọi 12 môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trước các thần ô uế, để các ông trừ khử chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. (Mt 10,1)
Vào thời Chúa Giêsu, người ta quan niệm người bị tật nguyền là người tội lỗi và làm điều ô uế. Nhưng theo Chúa Giêsu, những người đó được sinh ra là để làm sáng danh Chúa, và chính Ngài đã từng chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Ngài cũng đã cảm hoá được nhiều người tội lỗi trở về với Chúa Cha.
Ngày nay, sự ô uế hiện ở nhiều mặt: dối trá, tham lam, trộm cắp, ăn chơi sa đoạ… Cánh cửa ô uế vẫn luôn luôn mở và tồn tại song song với cánh cửa Nước trời. Chính vì thế, sau khi Phục sinh Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ một đặc ân là: trừ khử mọi ô uế và chữa lành mọi bệnh tật.
Đặc ân ấy ngày nay không chỉ dành riêng cho 12 tông đồ mà cho mọi tín hữu. Mỗi Kitô hữu phải nhận lấy nhiệm vụ trừ khử ô uế nơi chính mình và giúp anh em thoát khỏi mọi điều ô uế.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ quyền trừ khử ô uế nhằm làm Sáng Danh Chúa, thì xin Chúa cũng ban thêm cho con sức mạnh để trừ khử ô uế nơi chính bản thân con, sống tốt hơn và yêu mến Chúa hơn. (Hosanna)
(Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đã làm người để con người làm con cái Thiên Chúa. Chúa đã đến để thánh hoá chúng con nên con người mới. Con người của ân sủng thay cho con người cũ đã chết bởi tội lỗi xâm nhập vào thế gian và làm băng hoại bản tính loài ngưới chúng con. Xin thanh tẩy con người chúng con nên thanh sạch, vẹn tuyền hầu xứng đáng là hoạ ảnh của Chúa giữa trần gian.
Lạy Chúa, cánh đồng truyền giáo thật mênh mông bát ngát. Chúa đã nhìn thấy lúa vàng đã chín rộ, nhưng ma quỷ lại đang phá hoại bằng biết bao trò chơi đồi trụy. Qua sách báo, phim ảnh xấu đã len lỏi vào tâm hồn chúng con những tư tưởng lỗi đức trong sạch. Xin Chúa ban cho giáo hội nhiều tông đồ nhiệt thành để đẩy lùi sự dữ và khử trừ sự ô uế ra khỏi môi trường chúng con đang sống. Xin Chúa cũng ban thêm sức mạnh để chúng con làm chủ tư tưởng và ước muốn của mình luôn thanh sạch, và dám can đảm tẩy trừ sự ô uế nơi chính bản thân chúng con.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thao thức trước cảnh “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, xin hãy sai chúng con đi làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa. Dù phận hèn sức yếu nhưng chúng con vẫn xin được là khí cụ gieo vãi yêu thương và bình an cho thế gian. Amen.
(Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Xem thêm:
BÀI ĐỌC I: St 41, 55-57; 42, 5-7a. 17-24a
“Chúng ta phải chịu thế này thật xứng đang, vì chúng ta đã phạm đến em chúng ta”
Bài trích sách Sáng Thế
Trong những ngày ấy, cả nước Ai-cập gặp nạn đói kém, dân chúng kêu vua Pharaon, xin cho họ của ăn. Vua trả lời họ rằng: “Các ngươi hãy đến cùng Giuse và ông bảo thế nào, các ngươi hãy làm như vậy”. Cơn đói kém ngày càng gia tăng khắp mặt đất. Bấy giờ ông Giuse mở các kho lúa, bán cho người Ai-cập, vì họ cũng đói kém khổ sở. Khắp mọi nước, người ta tuôn đến Ai-cập để mua lương thực ăn cho đỡ đói. Các con ông Giacóp cũng đi chung với những người khác đến Ai-cập để mua lúa, vì nạn đói cũng hoành hành trong đất Canaan. Giuse có quyền trên toàn lãnh thổ Ai-cập, nên ông bán lúa thóc cho hết mọi người.
Khi các anh của Giuse sấp mình lạy ông, ông nhận ra các anh, nên ông nói giọng cứng cỏi như nói với khách lạ. Ông hỏi họ: “Các ngươi ở đâu đến?” Họ đáp: “Chúng tôi từ đất Canaan đến mua thực phẩm”. Giuse đã truyền giam họ trong ba ngày; đến ngày thứ ba, ông cho dẫn họ ra khỏi tù và bảo rằng: “Các ngươi hãy làm điều ta dạy bảo, thì sẽ được sống: vì ta kính sợ Thiên Chúa. Nếu các ngươi là người lương thiện thì một người trong các ngươi sẽ ở lại trong tù, còn những người khác hãy đem lúa về nhà. Rồi các ngươi hãy dẫn đứa em út các ngươi tới đây cho ta, để ta có thể tin lời các ngươi, và các ngươi sẽ khỏi chết. Họ đã làm như Giuse dạy bảo. Bấy giờ họ mới nói với nhau rằng: “Chúng ta phải chịu thế này thật xứng đáng, vì chúng ta đã phạm đến em chúng ta. Chúng ta đã thấy tâm hồn em chúng ta khổ sở, khi nó năn nỉ chúng ta tha cho nó, nhưng chúng ta không chịu nghe. Vì thế nên chúng ta phải chịu nỗi khốn khổ này”. Bấy giờ, một người trong anh em là Ruben nói rằng: “Chớ thì tôi đã chẳng bảo anh em đừng có phạm đến đứa trẻ sao”. Nhưng không ngờ rằng Giuse hiểu tiếng họ, vì ông dùng thông ngôn mà nói với họ. Ông Giuse lánh mặt đi một chút mà khóc.
(Nguồn: Uỷ ban Thánh Kinh / HĐGMVN)