Nguyên văn các câu trả lời của Đức Phanxicô trong cuộc họp báo trên đường từ Armenia trở về Rôma

Trên đường từ Armenia trở lại Rôma, Đức Thánh Cha đã trả lời nhiều câu hỏi liên quan tới nhiều vấn đề khác nhau, trong đó có vai trò của Đức Giáo Hoàng hưu trí, Công Đồng Toàn Chính Thống, Phong Trào Cải Cách, nữ phó tế và Brexit (nước Anh ra khỏi Liên Hiệp Âu Châu). Sau đây là nội dung các câu trả lời của Đức Thánh Cha, dựa theo bản tiếng Anh của Hãng Catholic News Agency.

PopeFrancis.jpg

Trước nhất là lời giới thiệu của Cha Federico Lombardi, sau đó, Đức Thánh Cha tỏ lời cám ơn các nhà báo nói chung về việc làm tốt đẹp của họ.

Cảm tưởng đối với Armenia và Azerbaijan

Trả lời câu hỏi của Artur Grygorian thuộc Đài Truyền Hình Công Cộng của Armenia về cảm xúc và ấn tượng của ngài đối với Armenia và sứ điệp cho tương lai nước này, Đức Thánh Cha nói rằng:

“Ta hãy nghĩ tới tương lai rồi sau đó sẽ trở về quá khứ. Tôi hy vọng có công lý và hoà bình cho dân tộc này và tôi cầu xin điều đó, vì đây là một dân tộc can trường. Và tôi cầu xin cho họ tìm được công lý và hòa bình. Tôi biết rất nhiều người đang làm việc để có điều đó; và tuần trước, tôi cũng rất vui khi thấy bức hình Tổng Thống Putin với hai Tổng Thống Armenia và Azerbaijan… Ít nhất họ cũng đang nói chuyện với nhau! Và cả với Thổ Nhĩ Kỳ và tổng thống cộng hòa trong bài diễn văn chào mừng của ông đã nói rõ ràng, ông đã có can đảm nói thế này: chúng ta hãy tiến tới một thỏa hiệp, tha thứ cho nhau, và nhìn về tương lai. Và đó là một sự can đảm rất lớn đối với một dân tộc đã chịu nhiều đau khổ, không phải sao? Đó chính là hình ảnh của dân tộc Armenia. Ý tưởng này đến với tôi hôm nay khi tôi đang cầu nguyện. Đó là một đời sống bằng đá nhưng lại là một sự dịu hiền của người mẹ. Nó từng mang thập giá, thập giá bằng đá, hẳn qúy vị đã thấy những thập giá đó chứ! Nhưng nó không đánh mất sự dịu hiền của nó, nghệ thuật, âm nhạc, những “dây đàn lơ lửng”, rất khó hiểu nhưng hết sức chân tình. Một dân tộc đã đau khổ xiết bao trong lịch sử của mình và chỉ nhờ đức tin mà đứng vững được vì sự thực là đây là quốc gia đầu tiên theo Kitô Giáo, điều này chưa đủ! Đây là quốc gia đầu tiên theo Kitô Giáo vì Chúa đã chúc phúc cho nó, vì nó có các vị thánh, có các giám mục thánh, các vị tử đạo, và vì điều này khi đối kháng, Armenia đã tự biến mình thành “da đá”, ta hãy gọi nó như thế, nhưng nó không đánh mất nét dịu dàng của trái tim người mẹ. Armenia cũng là một người mẹ!

Trên đây là câu hỏi thứ hai, bây giờ ta nói tới câu hỏi thứ nhất: tôi có nhiều tiếp xúc với người Armenia… Tôi thường đi Lễ với họ, tôi có nhiều bạn bè người Armenia… Một điều tôi thường không thích làm với người khác, nhưng tôi thích đi ăn tối với họ và là những bữa tối rất no, nhé! Nhưng, đều là những bạn hữu rất tốt, không phải sao? Một người bạn rất tốt là Đức Tổng Giám Mục Kissag Mouradian và Boghossian, một người Công Giáo… nhưng với các ông, “làm người Armenia” là điều quan trọng hơn là thuộc Giáo Hội Tông Truyền hay Giáo Hội Công Giáo, và tôi hiểu điều này ngay từ thời đó. Ngày nay, một người Á Căn Đình xuất thân từ một gia đình Armenia, người mà Đức Tổng Giám Mục luôn đặt cạnh tôi khi tôi đi lễ để ông giải thích một số nghi thức hay một số lời lẽ tôi không biết, đã nghinh đón tôi…”

Câu hỏi thứ hai là của nữ ký giả Jeannine Paloulian của tờ Nouvelles d’Arménie, hỏi về cuộc tông du sắp đến tại Azebaijan: ngài sẽ nói gì với họ. Đức Thánh Cha trả lời rằng:

“Tôi sẽ nói với người Azerbaijan về sự thật của những điều tôi đã thấy, của những điều tôi đã cảm nhận và tôi cũng sẽ khích lệ họ. Tôi từng gặp Tổng Thống của Azerbaijan và nói chuyện với ông… Tôi cũng sẽ nói với cô rằng không tạo hòa bình chỉ vì một miếng đất nhỏ quả là một điều tăm tối, vì nó đâu phải chuyện lớn lao gì, đúng không? Nhưng tôi nói điều đó với mọi người Armenia và Azerbaijan… Có lẽ họ không thể đồng ý với nhau về các cung cách tạo hòa bình, và về khía cạnh này, họ cần phải làm việc nhiều hơn nữa. Nhưng tôi không biết phải nói gì thêm… Tôi xin nói rằng lúc này điều trên xuất hiện trong trái tim tôi, nhưng luôn phải cố gắng tích cực tìm các giải pháp khả thi, để tiến lên”.

Cuộc diệt chủng Armenia

Câu hỏi thứ ba là của Jean Luis de La Vassiere của AFP, người sẽ rời nhiệm sở ở Rôma. Ông hỏi lý do tại sao Đức Thánh Cha thêm chữ “diệt chủng” vào bài diễn văn ở dinh tổng thống. Liệu điều đó có lợi cho hòa bình trong một vùng phức tạp như thế này? Đức Thánh Cha trả lời khá chi tiết:

“Ở Á Căn Đình, khi ông nói tới cuộc tàn sát ở Armenia, người ta luôn luôn sử dụng chữ ‘diệt chủng’. Tôi không biết chữ nào khác. Ở nhà thờ chính tòa Buenos Aires, chúng tôi có đặt một cây thập giá bằng đá ở bàn thờ thứ ba bên tay trái, để tưởng niệm cuộc diệt chủng Armenia. Hai vị Tổng Giám Mục, cả hai là người Armenia, một Công Giáo, một Tông Truyền, các ngài đã khánh thành cây thập giá… Ở Nhà Thờ Công Giáo Thánh Bartôlômêô, Vị Tổng Giám Mục Tông Truyền cũng đã làm một bàn thờ kính Thánh Bartôlômêô… nhưng luôn luôn… tôi không biết chữ khác. Tôi xuất phát từ chữ này. Khi tôi tới Rôma, tôi nghe được chữ khác “Tai Ương Vĩ Đại” hay “thảm kịch khủng khiếp”, nhưng trong tiếng Armenia, tôi không biết phải nói nó thế nào… và người ta bảo tôi rằng đừng (nói chữ ấy), chữ ấy xúc phạm, chữ “diệt chủng” ấy mà, Đức Thánh Cha phải nói chữ này này. Tôi vẫn đã luôn nói đến 3 cuộc diệt chủng trong thế kỷ trước… luôn luôn số ba! Cuộc đầu tiên là Armenia, rồi cuộc của Hitler và cuối cùng là cuộc của Stalin… cũng có những cuộc nhỏ hơn, có một cuộc ở Phi Châu, nhưng trong quĩ đạo của hai cuộc chiến tranh lớn thì có ba cuộc này… Tôi hỏi tại sao… ‘nhưng một số người cảm thấy như nó không đúng, nó không phải là một cuộc diệt chủng’… một người khác bảo tôi… một luật sư nói với tôi điều này khiến tôi thực sự lưu ý: chữ ‘diệt chủng’ là một từ kỹ thuật. Nó là một chữ có tính kỹ thuật không đồng nghĩa với ‘tận diệt’ (extermination). Đức Thánh Cha có thể nói chữ ‘tận diệt’, nhưng tuyên bố một ‘cuộc diệt chủng’ là kéo theo nó các hành động đòi bồi thường… đó là điều vị luật sư nói với tôi. Năm ngoái, khi tôi soạn bài diễn văn, tôi thấy Thánh Gioan Phaolô II dùng chữ này, ngài dùng cả hai chữ: Tai Ương Vĩ Đại và diệt chủng. Và tôi trích dẫn câu ngài nói trong ngoặc kép… và câu ấy không được tiếp nhận tốt. Một tuyên bố đã được Chính Phủ Thỗ Nhĩ Kỳ đưa ra. Thổ Nhĩ Kỳ, trong vòng mấy ngày, cho triệu hồi đại sứ của họ về Ankara, ông vốn là một vĩ nhân, Thổ Nhĩ Kỳ vốn gửi cho chúng ta một vị đại sứ hàng đầu, ông đã trở lại cách nay 3 tháng… ‘một thứ chay tịnh đại sứ’. Nhưng ông có quyền làm thế… Quyền phản kháng, tất cả chúng ta đều có quyền này. Trong bài diễn văn lần này, thoạt đầu vốn không có chữ đó, đúng như thế. Tôi trả lời vì tôi đã thêm nó vào. Nhưng sau khi đã nghe giọng điệu của bài diễn văn của tổng thống và cả quá khứ của tôi đối với chữ ấy, và sau khi đã nói chữ này năm ngoái một cách công khai ở Nhà Thờ Thánh Phêrô, xem ra khá kỳ cục nếu ít nhất không nói cùng một điều. Nhưng ở đây, tôi muốn nhấn mạnh một điều khác và tôi không nghĩ mình lầm khi cũng đã nói rằng: trong cuộc diệt chủng này, cũng như trong hai cuộc diệt chủng khác, các cường quốc quốc tế đã nhìn đi nơi khác (ngoảnh mặt làm ngơ). Và đó là sự việc. Trong Thế Chiến II, một số cường quốc, đã chụp hình các đường xe lửa dẫn vào Auschwitz nên có khả năng dội bom nhưng đã không làm thế. Một thí dụ. Trong bối cảnh Thế Chiến I, đâu là vấn đề của người Armenia? Và trong bối cảnh Thế Chiến II, đâu là vấn đề của Hitler và Stalin và sau Yalta, đâu là vấn đề của vùng… và tất cả những điều này, không ai nói tới cả. Người ta phải nhấn mạnh điều đó. Và phải đặt câu hỏi lịch sử này: các đại cường, tại sao các ông không làm điều đó?

“Tôi không lên án, tôi chỉ đặt một câu hỏi. Quả là kỳ lạ. Họ nhìn cuộc chiến, nhìn nhiều điều lắm… nhưng không nhìn con người… và tôi không biết có đúng không, nhưng tôi muốn biết có phải lúc Hitler bách hại người Do Thái, một trong những lời, một trong những điều ông ta nói là ‘trời đất, ngày nay có ai nhớ tới người Armenia đâu, ta hãy làm cùng một điều ấy với người Do Thái’. Tôi không biết có đúng như thế hay không, có thể chỉ là lời đồn thổi, nhưng tôi nghe người ta nói thế. Thưa các sử gia, xin qúy vị sưu tầm để xem điều đó có đúng hay không. Tôi nghĩ tôi đã trả lời. Nhưng tôi không bao giờ nói chữ đó với ý định xúc phạm… “.

Chỉ có một Giáo Hoàng

Câu hỏi thứ tư là của Elisbetta Piqué của tờ La Nacion, liên quan tới nhận định của Đức Tổng Giám Mục Georg Gaenswein về thừa tác vụ Phêrô chung giữa hai vị giáo hoàng hiện còn sống. Liệu có phải ta đang có hai vị giáo hoàng hay không? Đức Thánh Cha đã trả lời như sau:

“Trong Giáo Hội, có lúc có tới ba vị giáo hoàng (cười)! Tôi không đọc các lời nhận định ấy vì tôi không có thì giờ xem những điều như vậy. Đức Bênêđíctô là vị giáo hoàng hưu trí, ngài nói rõ ràng như thế ngày 11 tháng Hai khi ngài tuyên bố sẽ từ nhiệm vào ngày 28 tháng Hai và sẽ giúp Giáo Hội bằng lời cầu nguyện.

“Và Đức Bênêđíctô đang cầu nguyện trong đan việc. Tôi đã đến thăm ngài nhiều lần… hoặc điện thoại. Hôm nọ, ngài đã viết một thư ngắn cho tôi. Ngài vẫn ký chữ ký của ngài, chúc tôi thượng lộ bình an, và có lần, không phải một lần mà là nhiều lần, tôi từng nói rằng quả là một ơn phúc có người ông khôn ngoan ở trong nhà. Tôi cũng nói với ngài điều đó trước mặt ngài và ngài cười, nhưng đối với tôi, ngài là Giáo Hoàng Hưu Trí. Ngài là người ông khôn ngoan. Ngài là người che chở hai vai tôi và lưng tôi bằng lời cầu nguyện của ngài.

“Tôi không bao giờ quên bài diễn văn ngài đọc với các Hồng Y chúng tôi hôm 28 tháng Hai, “trong số qúy hiền huynh, tôi chắc chắn có vị kế nhiệm tôi. Tôi hứa vâng lời (vị ấy)”. Và ngài đã làm như thế. Nhưng, rồi tôi có nghe, nhưng tôi không biết có đúng không, đấy nhé – tôi xin nhấn mạnh, tôi nghe thấy thôi, có thể chỉ là tin đồn nhưng tin đồn này rất hợp với cá tính của ngài – rằng một số người đã đến đó (gặp ngài) để than phiền về vị giáo hoàng mới… và ngài xua họ đi, đấy nhé, kiểu Bavaria, rất học thức, nhưng ngài xua họ đi. Tôi không biết có đúng như thế hay không. Đó là điều đáng hoan nghinh vì con người này như thế đó. Ngài là người giữ lời nói của mình, một người ngay thẳng, ngay thẳng và ngay thẳng.

“Ngài là vị giáo hoàng hưu trí. Rồi, tôi không biết cô có còn nhớ tôi đã cám ơn ngài một cách công khai không. Tôi không nhớ khi nào nhưng trên một chuyến bay, cám ơn Đức Bênêđíctô vì đã khai mở sự kiện giáo hoàng hưu trí. Chứ 70 năm trước đây, làm gì có các giám mục hưu trí. Ngày nay, chúng ta có… nhưng với việc kéo dài sự sống hiện nay, cô có thể cai quản Giáo Hội vào cỡ tuổi này, với những cơn đau nhức hay không? Còn ngài, một cách can đảm, và với lời cầu nguyện và hiểu biết, với thần học đã quyết định mở ra chiếc cửa này và tôi tin điều này là điều tốt lành đối với Giáo Hội.

“Nhưng chỉ có một giáo hoàng đơn nhất mà thôi, còn vị kia… có lẽ các ngài sẽ giống như các giám mục hưu trí, tôi không muốn nói nhiều vị nhưng có thể có hai hay ba. Các ngài sẽ là các vị hưu trí… Các Ngài là các vị hưu trí.

“Ngày mốt, việc kỷ niệm 65 thụ phong giám mục của ngài (Cha Lombardi nói nhỏ với Đức Giáo Hoàng), xin lỗi, thụ phong linh mục của ngài sẽ được cử hành. Anh Georg của ngài cũng có mặt trong dịp này vì các ngài thụ phong với nhau. Sẽ có một biến cố cử hành nhỏ với các trưởng bộ sở và một ít người vì ngài thích một… ngài chấp thuận, nhưng rất giản dị, và tôi cũng sẽ có mặt để nói một đôi điều với con người vĩ đại của cầu nguyện, của can đảm đang là Giáo Hoàng Hưu Trí, chứ không phải Giáo Hoàng thứ hai, người trung thành với lời nói của mình và là một người vĩ đại của Thiên Chúa, rất thông minh, và đối với tôi là người ông khôn ngoan trong nhà”.

Công Đồng Toàn Chính Thống

Câu hỏi thứ năm là của Alexej Bukalov, đại diện cho hãng Italtass và văn hóa Nga. Ông hỏi phán đoán của ngài về Công Đồng Tòan Chính Thống, mà ông gọi là một “diễn đàn”. Đức Thánh Cha cho hay:

“Một phán đoán tích cực. Một bước tiến lên, không hẳn trăm phần trăm, nhưng là một bước tiến lên. Những điều đã được “biện minh”, tôi xin để trong ngoặc kép, và tôi thành thực đối với các điều này, là những điều, với thời gian, có thể được giải quyết. Cả họ nữa, bốn Giáo Hội không đi (tham dự), họ muốn thực hiện việc này trễ hơn một chút. Nhưng tôi nghĩ bước đầu tiên đã được thực hiện như ông có thể, như các trẻ em, chúng thực hiện bước đầu tiên của chúng nhưng chúng làm điều chúng có thể làm. Trước hết chúng làm như mèo, rồi chúng bước những bước đầu tiên. Tôi rất vui. Các vị nói về nhiều điều. Tôi nghĩ kết quả rất tích cực. Nguyên một sự kiện các Giáo Hội tự trị này tụ họp với nhau nhân danh Nền Chính Thống để nhìn mặt nhau, để cầu nguyện với nhau, để lên tiếng và có lẽ còn nói khôi hài nữa… Thì điều đó cực kỳ tích cực xiết bao! Tôi cám tạ Thiên Chúa! Ở công đồng kế tiếp, sẽ còn nhiều (thành quả tích cực) hơn nữa. Chúc tụng Chúa”.

Nước Anh rút khỏi Liên Hiệp Âu Châu

Câu hỏi thứ sáu của Edward Pentin đại diện tập san National Catholic Register và nhóm nói tiếng Anh. Ông hỏi liệu Đức Thánh Cha có lo âu về việc Nước Anh ra khỏi Liên Hiệp Âu Châu hay không vì rất có thể đây là khởi đầu diễn trình tan rã và cuối cùng gây ra chiến tranh. Đức Thánh Cha cho biết:

“Đã đang có chiến tranh tại Âu Châu rồi. Hơn nữa, đang có bầu khí chia rẽ, không chỉ ở Âu Châu, nhưng ở các nước riêng của nó. Ông có nhớ Catalonia, và năm ngoái Scotland. Các chia rẽ này… Tôi không nói chúng nguy hiểm, nhưng ta phải nghiên cữu kỹ chúng và trước khi chia rẽ thêm, hãy nói chuyện tốt giữa chúng ta với nhau, và tìm ra các giải pháp khả thi… Nói cho ngay, tôi không biết. Tôi chưa nghiên cứu các lý do tại sao Vương Quốc Thống Nhất muốn đưa ra quyết định này, nhưng luôn có chia rẽ. Tôi tin có lần tôi đã nói điều này, tôi không nhớ ở đâu, nhưng tôi đã nói rằng: Nền độc lập ấy sẽ đưa đến thoát ly (emancipation). Thí dụ, mọi nước Châu Mỹ Latinh của chúng tôi, ngay các nước Phi Châu cũng thế, đã thoát ly khỏi vương triều, khỏi Madrid. Cả ở Phi Châu, (người ta cũng thoát ly) khỏi Paris, London, Amsterdam… và đây cũng là một cuộc thoát ly, và cuộc thoát ly này có thể hiểu được hơn vì phía sau nó là một nền văn hóa, lối suy nghĩ… đúng hơn, sự rút chân ra của một quốc gia – tôi vẫn không đang nói tới Brexit; chúng ta nghĩ tới Scotland, tất cả những nước… đây là điều người ta đã đặt tên, và tôi nói điều này không phải để xúc phạm, đây là chữ các chính trị gia hay dùng: Balkan hóa, mà không nói xấu người Balkan. Rút chân ra đúng hơn, không phải thoát ly. Và đàng sau (nó) có lịch sử, văn hóa, hiểu lầm, cả thiện chí nữa… điều này rất rõ. Đối với tôi, hợp nhất luôn luôn tốt hơn tranh chấp, nhưng có nhiều cách hợp nhất khác nhau… và cả tình huynh đệ nữa, và đây là (vấn đề) Liên Hiệp Âu Châu; tình huynh đệ thì tốt hơn thù oán và xa cách. Tình huynh đệ thì tốt hơn và cầu nối thì tốt hơn tường rào. Người ta cần suy tư điều đó. Đúng là: quê hương… tôi ở Âu Châu, nhưng… tôi muốn có một số điều vốn là của tôi từ nền văn hóa của tôi và biện pháp… và tới đây, tôi muốn nói đến Giải Charlemagne do Liên Hiệp Âu Châu trao tặng nhằm khám phá sức mạnh vốn có từ gốc rễ của nó. Đây là một biện pháp sáng tạo, và cả “bất hợp nhất lành mạnh” nữa, nhằm dành nhiều độc lập, nhiều tự do hơn cho các nước trong Liên Hiệp, nhằm nghĩ tới một hình thức liên hiệp khác, có tính sáng tạo. Và sáng tạo tại chỗ làm việc, trong nền kinh tế. Hiện đang có một nền kinh tế lưu chuyển (liquid economy) ở Âu Châu. Thí dụ, ở Ý, 40% người trẻ dưới 25 tuổi không có việc làm. Có một điều gì đó không ổn trong Liên Hiệp rộng lớn này, nhưng chúng ta không ném bé thơ trong chậu tắm ra khỏi cửa sổ (cả xấu lẫn tốt), không phải sao? Ta phải tìm cách cứu vớt sự việc, tái tạo chúng, vì tái tạo con người, cả nhân cách ta nữa, là một hành trình, mà người ta luôn phải đi. Một thiếu niên không như một người trưởng thành, hay một vị cao niên. Vừa như nhau vừa không như nhau. Người ta tái tạo không ngừng. Chính điều đó đem lại sức sống, ý muốn sống, và đem lại thành quả. Và tôi xin nhấn mạnh điều này: ngày nay, chữ, hai chữ chủ yếu đối với Liên Hiệp Âu Châu, là tính sáng tạo và sinh hoa trái. Đây là thách đố. Tôi không biết, nhưng đó là suy nghĩ của tôi”.

Phong trào Cải Cách

Câu hỏi thứ bẩy của Tilmann Kleinjung của Đài ARD, Đức. Vì Đức Thánh Cha sẽ tới Lund tham dự lễ kỷ niệm 500 phong trào Cải Cách, nên ông hỏi ngài liệu đã tới lúc để hủy hay rút lại vạ tuyệt thông đối với Martin Luther chưa. Đức Thánh Cha trả lời:

“Tôi nghĩ rằng các ý hướng của Martin Luther đã không lầm lẫn. Ông là một nhà cải cách. Có lẽ một số phương pháp không đúng. Nhưng vào thời đó, nếu ta đọc câu truyện của Vị Mục Sư, một người Đức theo giáo phái Lutherô sau đó trở lại khi thấy thực tại, đã trở thành người Công Giáo, vào thời đó, Giáo Hội chính xác không phải là một mẫu mực để noi theo. Có sự thối nát trong Giáo Hội, tinh thần thế gian, ham mê tiền bạc, quyền lực… và ông phản đối việc này. Rồi ông thông minh và đã đưa ra một số biện pháp để biện minh, và vì ông đã làm việc này. Còn ngày nay, người Luthêrô và người Công Giáo, người Thệ Phản, tất cả chúng ta đều đồng ý về học lý công chính hóa. Về điểm này, một điểm quan trọng, ông không lầm. Ông tạo thuốc chữa cho Giáo Hội, nhưng rồi thứ thuốc này đã được củng cố thành một tình trạng sự việc, một tình trạng kỷ luật, một cách tin, một cách làm, một cách phụng vụ và ông không cô đơn; còn có Zwingli, Calvin, mỗi người mỗi khác, và đàng sau họ còn có ai, biết không? Các ông hoàng! Ta phải đặt mình vào câu truyện lúc bấy giờ. Đó là một câu truyện không dễ hiểu, không dễ. Rồi sự việc cứ thế tiến, và ngày nay, cuộc đối thoại đang rất tốt. Văn kiện về công chính hóa ấy, tôi nghĩ, là một trong những văn kiện đại kết phong phú nhất trên thế giới, một văn kiện có nhiều thoả thuận. Nhưng chia rẽ vẫn còn và các chia rẽ này cũng tùy thuộc các Giáo Hội. Ở Buenos Aires, có hai nhà thờ Luthêrô, và nhà thờ này nghĩ một đàng, nhà thờ kia nghĩ một nẻo… ngay trong cùng một Giáo Hội Luthêrô, cũng không có hợp nhất; nhưng họ kính trọng nhau, họ thương yêu nhau, và sự khác nhau có lẽ là điều làm mọi người chúng ta rất đau đớn nên hôm nay chúng ta đang tìm cách tiếp nối con đường gặp gỡ nhau sau 500 năm. Tôi nghĩ chúng ta phải cùng nhau cầu nguyện, cầu nguyện. Cầu nguyện là điều quan trọng đối với việc này. Thứ hai, cùng nhau làm việc cho người nghèo, người bị bách hại, cho nhiều người, cho người tị nạn, cho nhiều người đang đau khổ; cùng làm việc và cầu nguyện với nhau, còn các nhà thần học đang nghiên cứu thì cùng nhau cố gắng… nhưng đây là một con đường dài, rất dài. Có lần tôi nói đùa: tôi biết lúc nào thì hợp nhất diễn ra. – ‘Khi nào?’ – ‘ngày sau khi Con Ngưới đến’ vì ta không biết… Chúa Thánh Thần sẽ ban ơn thánh, nhưng trong khi chờ đợi, cầu nguyện, yêu thương nhau và làm việc với nhau. Trên hết cho người nghèo, cho những người đau khổ, cho hòa bình và nhiều điều khác… chống lại việc bóc lột người ta và nhiều điều trong đó người ta kết hợp cùng làm việc với nhau”.

Nữ phó tế

Trả lời câu hỏi thứ tám của Cecile Chambraud, Báo Le Monde về nữ phó tế, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng:

“Có một tổng thống ở Á Căn Đình góp ý với các tổng thống các nước khác rằng ‘khi muốn điều gí đó không được giải quyết, quí vị hãy tổ chức một ủy ban’. Nhưng người đầu tiên ngạc nhiên trước tin vui này là tôi… Cuộc đối thoại với các nữ tu đã được ghi nhận và công bố trên tờ L’Osservatore Romano và còn điều nữa…Và chúng ta từng nghe rằng trong các thế kỷ đầu tiên, đã có các nữ phó tế. Người ta có thể nghiên cứu điều đó và có thể tổ chức một ủy ban. Không có điều gì hơn thế đã được yêu cầu. Và họ là những người hiểu biết, không phải chỉ hiểu biết mà còn được Giáo Hội yêu mến. Và tôi nhớ tôi biết một người Syria, một nhà thần học Syria nay đã qua đời, người đã soạn một ấn bản có phê phán về Thánh Ephrem, bằng tiếng Ý, và có lần đã nói về các nữ phó tế, khi tôi tới ở tại Via della Scrofa, vị này cũng ở đó, nói chuyện lúc dùng điểm tâm… nhưng ngài không biết rõ có phong chức không. Chắc chắn có các phụ nữ này giúp các giám mục và giúp trong ba việc: trong việc rửa tội cho phụ nữ, vì thời ấy, rửa tội bằng cách dìm xuống nước; thứ hai, trong việc xức dầu cho phụ nữ trước khi chịu phép rửa, thứ ba, điều này làm tôi phát cười, khi có người phụ nữ đến khiếu nại với giám mục rằng mình bị chồng đánh, lúc ấy, giám mục sẽ cho mời một trong các nữ phó tế này, họ sẽ nhìn vào thân thể người phụ nữ xem có vết bằm nào không… đó là lý do tại sao cần phải có (chức vụ) này.

“Nhưng, người ta có thể nghiên cứu, xem có phải đây là học lý của Giáo Hội không và liệu có thể lập một ủy ban hay không. Người ta kháo với nhau: ‘Giáo Hội mở cửa cho các nữ phó tế’. Thực vậy sao? Điều ấy có hơi khó chịu vì quả không đúng sự thật. Tôi đã nói với bộ trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, và ngài nói với tôi: ‘dạ thưa, đã có một cuộc nghiên cứu do Ủy Ban Thần Học Quốc Tế thực hiện năm 1988’. Và tôi yêu cầu ngài làm một bản liệt kê.

“Hãy cho tôi một danh sách những người tôi có thể lấy để lập ra ủy ban này. Ngài đã gửi cho tôi bản danh sách để lập ra ủy ban này, nhưng tôi tin đề tài này đã được nghiên cứu khá nhiều rồi, và tôi không nghĩ sẽ phải khó khăn mới rõi sáng cho luận điểm này. Nhưng còn một điều khác, một năm trưỡi trức đây, tôi đã lập một ủy ban các nữ thần học gia từng làm việc với Đức Hồng Y Rylko và họ đã viết một cuốn sách đáng yêu, vì suy nghĩ của phụ nữ rất quan trọng. Phụ nữ suy nghĩ khác với chúng ta, và người ta không thể đưa ra một quyết định tốt nếu không lắng nghe phụ nữ. Ở Buenos Aires, đôi khi tôi tham khảo với các cố vấn của tôi, rồi sau đó mời các phụ nữ đến và họ nhìn sự việc dưới một ánh sáng khác, rất khác… Nhưng, rồi, các giải pháp rất phong phú, rất đáng yêu.

“Tôi phải gặp các phụ nữ từng thực hiện một việc rất tốt, nhưng vì cơ quan lo giáo dân nay đang có thay đổi, và tôi đang chờ xem nó sẽ làm gì. Nhưng, tiếp tục công việc thứ hai này là một điều khác, các nữ thần học gia… Nhưng điều này, tôi muốn nhấn mạnh, là điều quan trọng hơn: lối hiểu, lối suy nghĩ, lối nhìn của phụ nữ và các khả năng của phụ nữ. Giáo Hội vốn là phụ nữ. Là “la Chiesa” chứ không phải gái già; Giáo Hội là một người đàn bà kết hôn với Con Thiên Chúa, Giáo Hội là hiền thê của Chúa Giêsu Kitô”.

Xin lỗi

Câu hỏi thứ chín của Cindy Wooden thuộc hang CNS. Câu cô hỏi liên quan tới lời tuyên bố mới đây của Đức Hồng Y Marx, người Đức, về việc Giáo Hội phải xin lỗi cộng đồng đồng tính luyến ái vì đã đẩy họ qua bên lề. Ngài nghĩ gì, nhất là trong bối cảnh cuộc tàn sát ở Orlanda, Hoa Kỳ? Đức Phanxicô trả lời như sau:

“Tôi sẽ nhắc lại điều tôi đã nói trong cuộc tông du đầu tiên của tôi. Tôi nhắc lại điều Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nói: rằng không được kỳ thị họ, phải kính trọng họ và đồng hành với họ về phương diện mục vụ. Người ta có thể kết án, nhưng không được viện lý do thần học, nhưng vì các lý do tác phong chính trị… Một số biểu hiện quá xúc phạm tới người khác, không phải sao? … Nhưng những điều ấy không liên hệ gì tới vấn đề cả. Vấn đề là người có điều kiện, nhưng có thiện chí và tìm kiếm Thiên Chúa, thì ta là ai mà dám phê phán? Và ta phải đồng hành tốt với họ… đó là điều Sách Giáo Lý dạy, rõ ràng là Sách Giáo Lý. Rồi lại có nhiều truyền thống ở một số quốc gia, một số nền văn hóa có những não trạng khác về vấn đề này. Tôi nghĩ Giáo Hội không những phải xin lỗi, như lời “ông Hồng Y Marxist” (cười) nói, không những xin lỗi người đồng tính bị xúc phạm. Mà còn phải xin lỗi cả người nghèo, cả các phụ nữ bị khai thác, cả các trẻ em bị bóc lột lao động. Giáo Hội phải xin lỗi vì đã chúc lành cho quá nhiều vũ khí. Giáo Hội phải xin lỗi vì đã không đối xử nhiều lần, khi tôi nói Giáo Hội, là tôi muốn nói các Kitô hữu! Giáo Hội thánh thiện, chúng ta mới là người có tội!, các Kitô hữu phải xin lỗi vì đã không đồng hành với quá nhiều quyết định, quá nhiều gia đình… Tôi nhớ nền văn hóa ở Buenos Aires, nền văn hóa khép kín thời tôi còn nhỏ. Tôi đi tới đó, nhé! Gia đình ly dị thì không được vào nhà, tôi đang nói cách nay 80 năm. Nền văn hóa ấy nay đã thay đổi, cám ơn Thiên Chúa. Kitô hữu phải xin lỗi vì nhiều điều, không phải chỉ có thế. Xin tha thứ, chứ không bào chữa. Lạy Chúa, xin tha thứ. Đấy là chữ ta hay quên. Bây giờ tôi là một mục tử, tôi đang giảng một bài giảng. Không, thực như thế, nhiều điều. Nhiều điều… nhưng linh mục là chủ nhân ông chứ không phải người cha, linh mục đánh đập chứ không ôm ấp, tha thứ và an ủi. Nhưng có nhiều. Có nhiều tuyên úy bệnh viện, tuyên úy nhà tù, nhiều vị thánh. Nhưng không ai thấy những vị này. Vì sự thánh thiện thường nhũn nhặn, ẩn mình. Thay vào đó, là trâng trâng tráo tráo rành rành, nó rành rành và cô thấy rất nhiều cơ quan có cả người tốt lẫn người không được tốt bằng, những người… vì cô cho một túi tiền hơi lớn một chút thế là nhìn đi hướng khác hệt như các cường quốc quốc tế (xử) với ba cuộc diệt chủng. Kitô hữu chúng ta, linh mục, giám mục, đã làm như thế. Nhưng chúng ta cũng có Mẹ Têrêxa thành Calcutta và nhiều Mẹ Têrêxa thành Calcutta lắm. Chúng ta có nhiều người phục dịch ở Phi Châu, nhiều giáo dân, nhiều cuộc hôn nhân thánh thiện. Lúa mì và cỏ dại. Và Chúa Giêsu cũng đã nói như thế về Vương Quốc… Ta đừng cảm thấy bị tai tiếng vì đã như thế. Chúng ta phải cầu nguyện để Chúa biến những cỏ dại này mất đi và sẽ có nhiều hạt lúa hơn. Nhưng đấy là đời sống Giáo Hội. Chúng ta không thể đặt giới hạn. Tất cả chúng ta đều là thánh vì tất cả chúng ta đều có Chúa Thánh Thần. Nhưng tất cả chúng ta đều là kẻ có tội, tôi là nhất hạng! Thôi được. Tôi không biết tôi đã trả lời chưa”.

Ngày Giới Trẻ Thế Giới

Câu hỏi cuối cùng của Cha Federico Lombardi. Cha hỏi cảm tưởng của Đức Thánh Cha đối với Ngày Giới Trẻ Thế Giới sắp tới tại Ba Lan, nơi ngài sẽ đi thăm Auschwitz mà cha nghĩ Đức Thánh Cha sẽ cầu nguyện trong thinh lặng tại đó cũng như ngài đã làm tại đài tưởng niệm diệt chủng Armenia. Đức Thánh Cha cho hay:

“Hai năm trước đây tại Redipuglia, tôi đã làm như thế để tưởng niệm một trăn năm cuộc Đại Chiến, tại Redipuglia. Tôi đứng im lặng… rồi có Thánh Lễ, trong Thánh Lễ, tôi có giảng, nhưng có một điều khác. Im lặng. Hôm nay, chúng ta thấy sự im lặng sáng nay… mới hôm nay, đúng không?”.

Cha Lomabardi: Hôm qua.

Đức Phanxicô: Hôm qua… Sự im lặng… tôi muốn tới nơi kinh hoàng ấy, không diễn văn, không có ai, chỉ những điều cần thiết nho nhỏ… nhưng chắc chắn sẽ có các nhà báo… nhưng không có chào mừng này nọ… không, không… một mình, đi vào, cầu nguyện và xin Chúa ban ơn cho tôi được khóc. Thế thôi”.

Sau lời cám ơn của Cha Lombardi và lời cha xin Đức Thánh Cha “nghỉ ngơi đôi chút, ăn uống nữa, và nghỉ ngơi trong tháng Bẩy”, Đức Thánh Cha đã cám ơn các nhà báo.

Vũ Văn An