CHÚA NHẬT V PHỤC SINH
Ga 13,31-33a.34-35
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới
là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34)
Bài Tin Mừng hôm nay quá quen thuộc, tuy nhiên vẫn có nhiều điều chúng ta có thể nói với nhau.
1. Chúa ban điều răn mới: Phải chăng luật yêu thương bây giờ mới có?
– Không! Luật yêu thương đã có từ lâu, có ngay từ trong Cựu Ước.
Nhưng tại sao hôm nay Chúa lại nói về một giới răn mà Chúa bảo là mới?
– Giới luật yêu thương trong Cựu Ước theo ý của Chúa là giới răn yêu thương “cũ”.Giới răn này cũ không phải bởi hình thức nhưng là cũ trong nội dung. Sở dĩ tôi dám nói như thế là vì giới răn yêu thương trong Cựu Ước mới chỉ có tính cách tiêu cực và rất giới hạn, không những giới hạn trong cách thực hiện mà còn giới hạn trong đối tượng phải thực hiện tình yêu thương: Chẳng hạn như chỉ yêu thương những người yêu thương mình hoặc chỉ yêu thương những người cùng đạo với mình, cùng một tôn giáo với mình v.v..
Trái lại giới răn yêu thương mà Chúa gọi là mới thì có một nội dung sâu xa hơn. Đối tượng của luật đó cũng được mở rộng ra đối với tất cả mọi người kể cả những kẻ thù địch với mình. Đàng khác cách thức thực luật yêu thương thương cũng tích cực và quyết liệt hơn. Phải yêu thương như Chúa yêu. “Yêu như Thày yêu chúng con”. Mức độ Chúa đòi hỏi rất cao, nó không còn nằm ở trong phạm vi lòai người nữa mà phải vươn lên đến Thiên Chúa. “Yêu như Thầy”
2. Thế nào là yêu như Chúa?
a. Chúa không định nghĩa về Tình yêu như Ngài chỉ cho chúng ta cách thức để thực hiện, cách thức để sống luật yêu thương.
Chúng ta hãy chú ý một chút đến hòan cảnh khi Chúa dậy về luật yêu thương. Lúc đó Chúa đang ở với các môn đệ trong nhà Tiệc ly. Tôi thấy Chúa đã làm ba việc rất đặc biệt có thể nói là khác thường, để tạo nên một ấn tượng làm cho các môn đệ của Chúa sau này hễ nhớ đến Chúa là phải nhớ đến những việc này:
* Việc khác thường thứ nhất: Chúa quì xuống rửa chân cho các môn đệ.
Chẳng cần phải nói anh chị em cũng thấy được đây là một việc làm thật khó hiểu.
Ông Phêrô một trong những môn đệ thân tín của Chúa hầu như đã không còn làm chủ được sự xúc động của mình, nên ông đã phải lên tiếng công khai xin Chúa đừng làm như thế đối với ông. Thế nhưng không những Chúa không thuận theo đề nghị của ông mà ngược lại Chúa còn làm cho ông hoảng sợ khi Chúa đe doạ cắt đứt mối dây thân tình đối với ông nếu ông không để cho Ngài làm những việc Ngài muốn.
Thế là tất cả các môn đệ đã được chính Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho. Đây là việc khác thường thứ nhất.
* Việc khác thường thứ hai là Chúa chọn đúng lúc các môn đệ đang ngỡ ngàng về việc Chúa vừa làm cho mình để tuyên bố cho họ biết về một sự việc làm cho các ông cảm thấy choáng váng. Chúa nói: “Một người trong các con sẽ nộp Thầy”. Tin Mừng cho chúng ta biết ngay sau khi Chúa nói những lời đó thì tất cả môn đệ đều hoang mang không biết Chúa nói về ai.
* Việc khác thường thứ ba: “Chúa mời cho các môn đệ ăn chính mình và uống Máu của Ngài”.
Chúa cầm lấy bánh đã biến thành Mình Chúa và Rượu đã trở thành Máu của Chúa rồi Chúa bảo các môn đệ của Ngài: “Hãy cầm lấy mà ăn – Hãy lãnh nhận mà uống”. Xưa nay chẳng có ai có thể lấy thịt mình mà cho người khác ăn, lấy máu mình mà cho người khác uống. Vậy mà hôm nay chính Chúa đã làm như thế.
b. Chúng ta tự hỏi: Chúa làm như thế để làm gì?
Thưa để cắt nghĩa một phần nào về giới răn yêu thương mới của Ngài .
* Yêu thương trước hết là phục vụ. Khi đã yêu thương thì người ta sẽ chẳng quản ngại bất cứ một công việc nào dù công việc đó là công việc có tính thấp hèn đến như thế nào đi nữa.
* Yêu thương là hy sinh biết quên mình vì người khác. Khi chịu chết trên Thập giá Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống của mình để đền tội cho cả lòai người chúng ta. Thánh Phao-lô còn quả quyết thêm: “Ngài – Chúa Giêsu – phận là phận Thiên Chúa nhưng Ngài đã quên mình, tự hủy ra như không vì phần rỗi thế gian”
* Và cuối cùng “Yêu thương còn là ban tặng, là dâng hiến” Chúa Giêsu đã ban tặng cho chúng ta không phải chỉ là một phẩm vật mà là chính mình. “Đây là mình Thầy chúng con cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy chúng con hãy cầm lấy mà uống.” Yêu là cho đi. Cho đi ít là dấu chỉ yêu thương ít. Cho đi nhiều là dấu chỉ yêu thương nhiều. Cho tất cả là dấu chỉ của một tình yêu thương không bờ không bến”
Đó là bài học Chúa muốn dạy cho chúng ta. Yêu thương là phục vụ trong hy sinh với tinh thần tự hiến. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người đã hiến thân vì người mình yêu.
3. Chúng ta có thể yêu như Chúa không?
Có. Xin minh họa bằng một thí dụ.
Có một cậu bé tự cho mình là đứa trẻ bất hạnh nhất thế giới này. Trong con mắt của bạn bè, cậu là kẻ nhát gan, yếu đuối. Trên nét mặt cậu thường lộ vẻ sợ hãi. Cậu thở phì phò giống người ta kẻo bễ vậy. Khi bị cô giáo gọi đứng dậy đọc bài hay trả lời câu hỏi, đôi chân cậu lập tức run rẩy, môi liên tục mấp máy. Đương nhiên, cậu trả lời ấp úng và đứt quãng. Cuối cùng, cậu đỏ mặt xấu hổ quay về chỗ ngồi. Nếu cậu có một gương mặt đẹp, thì người khác có thể cảm tình với cậu một chút. Nhưng khi bạn thương hại nhìn cậu ta, thì bạn có thể nhìn thấy hàm răng hô xấu xí của cậu.
Vào một ngày mùa xuân, bố cậu bé xin nhà hàng xóm một ít cây giống. Bố cậu muốn trồng chúng trước nhà. Ông bảo các con, mỗi đứa trồng một cây. Ông nói với chúng, cây của ai lớn nhanh nhất, người đó sẽ được ông tặng cho một món quà giá trị. Cậu bé ấy cũng muốn nhận được món quà.
Nhưng khi nhìn thấy anh chị em hào hứng chạy đi chạy lại tưới nước cho cây, không hiểu tại sao, trong đầu cậu lại nảy sinh ý nghĩ kỳ quặc: cậu mong cái cây mình trồng mau chóng chết đi. Vì thế, cậu chỉ tưới nước cho cây hai lần, sau đó bỏ mặc nó.
Một tuần sau, khi xem cái cây mình trồng, cậu bé ngạc nhiên phát hiện nó không những không héo úa, mà còn mọc ra mấy cái lá xanh nõn nà. So với những cái cây mà anh chị em cậu trồng, nó dường như tươi tốt hơn và tràn đầy sức sống. Bố cậu thực hiện đúng lời hứa, mua cho cậu một món quà mà cậu thích nhất. Đồng thời, ông còn nói với cậu, cứ xem cách cậu trồng cây, thì sau này chắc chắn cậu sẽ trở thành một nhà thực vật học xuất sắc.
Từ đó trở đi, cậu bé dần dần trở nên lạc quan.
Vào một buổi tối, cậu bé trằn trọc không sao ngủ được. Nhìn ánh trăng vằng vặc ngoài sân, cậu chợt nhớ đến câu nói của thầy giáo dạy sinh vật: thực vật thường lớn lên vào lúc trời tối. Cậu nghĩ bụng, tại sao mình không xem thử xem cái cây mình trồng lớn như thế nào nhỉ? Khi cậu rón rén đi ra ngoài sân. Cậu nhìn thấy bố đang dùng gáo tưới nước cho cái cây cậu trồng. Ngay lập tức, cậu hiểu ra tất cả. Hóa ra, bố cậu âm thầm bón phân cho cái cây cậu trồng. Cậu trở về phòng ngủ, gục mặt xuống giương mặc cho nước mắt chảy đầm đìa trên khuôn mặt.
Thấm thoắt mấy chục năm đã trôi qua. Cậu bé với đôi chân tập tễnh ấy mặc dù không trở thành một nhà thực vật học như ước nguyện của người cha, nhưng lại trở thành tổng thống của nước Mỹ. Tên của ông là Franklin Roosevelt.
Tình yêu chính là chất dinh dưỡng tốt nhất của cuộc đời. Chỉ cần một gáo nhỏ, nhưng nó cũng có thể làm cho cái cây của cuộc đời trở nên tươi tốt, cành lá xum xuê. Có thể cái cây đó rất bình thường, có thể cái cây đó rất nhỏ bé, thậm chí còn héo úa, nhưng chỉ cần được chăm bón bởi chất dinh dưỡng này, thì nó vẫn có thể trở thành những thân cây tươi tốt, thậm chí còn cao lớn chọc trời.
THÁNH MARCÔ
1. LỊCH SỬ
Thánh Marcô có thể thuộc dòng tộc Arong, sinh tại Galilê. Là một trong 72 môn đệ của Chúa Giêsu. Trong công cuộc truyền giáo, ngài là đệ tử trung kiên của thánh Phêrô. Chính nhờ sự giúp đỡ và lời yêu cầu nguyện của vị thủ lãnh các tông đồ mà thánh nhân đã viết cuốn Tin Mừng thứ hai, gọi là Tin Mừng theo thánh Marcô.
Tin Mừng của ngài vắn gọn. Lời văn không chải chuốt như thánh Matthêo hoặc Luca, nhưng rất chân thành và thực tế. Ngài không giấu diếm sự chậm hiểu, kém tin của các tông đồ: “Các ông không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hóa nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội” (Mc 5, 52 ); ngài cũng chẳng che đậy tham vọng của các ông: “Khi di đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả ” (Mc 9. 34 ).
Theo nhiều nguồn tài liệu, mẹ ngài là bà Maria, một bà góa giàu có ở Giêrusalem, có nhà rộng rãi, có thể làm nơi hội họp của các tín hữu được và thánh Phêrô cũng thường trú ngụ ở nơi này.
Thánh nhân theo người bà con là Barnabê và tông đồ Phaolô trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất. Nhưng khi đến Pergê thì ngài trở về Giêrusalem, có lẽ vì lý do sức khỏe. Sau đó, ngài đã tháp tùng theo thánh Phêrô giảng đạo ở Rôma. Ngài đã chứng kiến “khoảng ba ngàn người theo đạo ” nhờ bài giảng của thánh Phêrô; ngài thấy tận mắt thánh Phêrô chữa lành người què từ khi lọt lòng mẹ” tại cửa Đền thờ; ngài cũng bị “các tư tế viên lãnh binh Đền thờ và các người thuộc nhóm Sađôc”bắt giam…
Chính thánh Phêrô đã trao cho ngài sứ mạng phúc âm hoá Alexandia. Ngài đã thành lập giáo đoàn này, và hướng đẫn mọi người sống hoàn thiện đạo đức không kém giáo đoàn Giêrusalem. Toàn thể giáo đoàn đều hiệp nhất trong một niềm tin, cậy, mến, chuyên cần phụng sự Chúa và phục vụ nhau.
Chính vì thế mà ma quỷ ganh tị. Chúng xúi dục những người ngoại giáo quá khích chống đối bách hại thánh nhân. Họ bắt ngài; cột cổ kéo lôi trên sỏi đá làm cho da thịt ngài bị xé rách nát ra. Máu chảy đầm đìa. Rồi đem bỏ vào ngục. Sáng hôm sau, họ lại dắt ngài ra và hành hạ y như hôm trước. Đau đớn quá, ngài kiệt sức dần và tắt thở..
II. GƯƠNG TÔNG ĐỒ
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Bổn phận loan báo Tin Mừng là bổ phận của mọi người. Mỗi người đều có thể là tông đồ cho Chúa trong hoàn cảnh và khả năng của mình.
June là một cô bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha là một mục sư. Mẹ mỗi khi đi đâu, thường cho em theo.
Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền hỏi:
– Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế ?
– Chúa cho cháu đó!
Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:
– Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu không?
Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp :
– Không, bé ạ!
– Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ !
Nói xong, bé vội chạy theo mẹ.
Ít tuần sau, ông tìm đến nhà thờ và theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa. (Góp nhặt)
Tại sao thế? Thưa vì chúng ta đã được lãnh nhận nhưng không thì chúng ta cũng phải biết cho đi nhưng không.
Lịch sử kể lại rằng Fritz Kreisler (18751962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một cơ nghiệp đồ sộ nhờ các buổi hoà nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết của cải. Do đó, trong một chuyến lưu diễn, ông tìm được một cây vĩ cầm thanh tú nhưng không đủ tiền mua.
Đến khi ông kiếm đủ tiền và trở lại, thì cây đàn đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Kreisler tìm đến chủ mới của cây vĩ cầm để xin mua lại. Nhà sưu tầm không muốn bán vì theo ông, nó là một bảo vật quí giá. Kreisler buồn bã và sắp sửa ra về, bỗng nảy ra một ý:
Xin đàn một lần trước khi nó bị ký thác cho sự câm lặng.
Chủ nhân chấp thuận. Vị nhạc sĩ tài ba đã làm cho nhà sưu tầm thực sự xúc động vì tiếng đàn du dương của mình, đến nỗi ông ấy phải kêu lên:
– Kreisler ơi ! Tôi, tôi không có quyền giữ chiếc đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới để thiên hạ được thưởng thức âm thanh của nó.
Chúng ta cũng thế, chúng ta không có quyền giữ cho mình tất cả hồng ân Chúa đã ban tặng cho ta. Tất cả đã được đón nhận thì tất cả cũng phải được sẻ chia. (Epphata)
Thế giới hôm nay vẫn còn đầy dẫy những nạn nhân của chiến tranh, của đói nghèo, của bệnh tật, thiên tai, phân biệt chủng tộc vv đang cần những người đem đến cho họ tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
làm chân tay cho người què cụt,
làm đôi mắt cho ai đui mù,
làm lỗ tai cho người bị điếc,
làm miệng lưỡi cho người không nói được,
làm tiếng kêu cho người chịu bất công.Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đồng lúa,
Để đem cơm cho người đói đang chờ,
Và đem nước cho người họng đang khô,
Đem thuốc thang cho người đang đau ốm,
Đem áo quần cho người đang trần trụi,
Đem mền đắp cho người rét đang run.Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đường vắng,
Thắp đèn soi cho ai bước trong đêm,
Đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh,
Truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi,
Nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp,
Đem tự do cho những kiếp đọa đày.Lạy Chúa, xin cứ gửi con vào thôn xóm,
Đem an hòa cho những ai bất thuận,
Đem thanh bình cho kẻ sống âu lo,
Đem ủi an cho người đang sầu khổ,
Đem niềm vui cho những ai bất hạnh,
Đem vận may cho người gặp rủi ro.Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả,
Cho mọi người được hạnh phúc an vui.
Còn phần con xin gửi hết nơi Ngài,
Là Thiên Chúa, là tình yêu, là lẽ sống.
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng,
để tin yêu mà vui sống trọn đời.(Một Linh mục Dòng Tên)
THỨ HAI TUẦN 5 PHỤC SINH
Ga 14,21-26
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.
Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy.
Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”
(Ga 14,23)
Hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi.
1. Sách Giáo Lý Chung số 234 dạy: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Đây là giáo huấn căn bản nhất và trọng yếu nhất theo “phẩm trật các chân lý đức tin” (DCG 43). “Trọn lịch sử cứu độ chỉ là lịch sử về đường lối và các phương tiện mà Thiên Chúa chân thật và duy nhất là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dùng để tự mặc khải, để giao hòa và kết hợp với Người những ai từ bỏ tội lỗi” ( DCG 47).
Làm Kitô hữu là được gia nhập gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương và chăm sóc chúng ta. Đó là một vinh dự và là một hạnh phúc to lớn. Chúng ta hãy hết lòng cảm tạ ơn Chúa.
Thái độ đối xử đúng nhất của Kitô hữu với Ba Ngôi Thiên Chúa là nghe các giới răn Chúa truyền và tuân giữ.
Trong cuốn sách Tảng Đá Sống Động “The living stone”, có một câu chuyện như sau: Gionathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thần khả kính. Ngày vị thần sắp lìa trần, ông gọi Gionathan về để gặp lần cuối. Gionathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời trăn trối của ông chỉ vỏn vẹn có mấy chữ “Hãy hành động vì lòng yêu mến”.
Chúa Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản “Ai nghe và giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,23). Chúa Giêsu không đòi hỏi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính. Tuy nhiên, một tình yêu đúng nghĩa là một tình yêu luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người mình yêu, sẵn sàng cho đi tất cả vì người mình yêu, chứ không dừng lại ở những rung động có tính cách xác thịt đầy lòng vị kỷ của mình (Mỗi ngày một niềm vui).
2. “Ai yêu mến Thầy, cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại nơi người ấy” (Ga 14,23).
Thánh Phanxicô Assisi có lòng yêu mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm, ngài gặp một người bạn, người này nói với thánh nhân rằng, ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa được.
Đang khi hai người đi đường thì gặp một hành khất vừa mù, vừa què. Thánh nhân hỏi người hành khất:
– Nếu tôi chữa cho anh để anh thấy và đi được thì anh có yêu mến tôi không?
Người hành khất trả lời:
– Thưa Ngài, không những tôi yêu mến Ngài mà xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ Ngài.
Nghe câu trả lời của người hành khất, thánh nhân quay sang người bạn đang đứng bên Ngài nói:
– Đấy anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được, thế mà còn hứa với tôi như thế, huống hồ là anh, không những anh được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn, Ngài lại còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh. Vậy mà anh lại không yêu mến Ngài sao?
Yêu Chúa, đó là bổn phận của mỗi người chúng ta. Nhưng thế nào là yêu Chúa?
Yêu mến Chúa không phải chỉ là làm một số việc đạo đức bên ngoài như đọc kinh dâng lễ, còn cuộc sống thì sao cũng được. Yêu Chúa như thế chưa đủ mà còn phải sống nữa.
Một người thanh niên có lòng yêu mến cha mẹ nên mỗi lần, bạn ấy đi đâu bạn ấy đều xin phép cha mẹ. Một số bạn bè thấy thế liền cười nhạo:
– Lớn rồi mà còn xin với xỏ. Mình trưởng thành rồi, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm tuỳ ý.
Người bạn ấy đã giải thích một cách đơn sơ nhưng hợp lý hợp tình như thế này:
– Hẳn ba má đã không cần tôi xin, nhưng chắc chắn ba má tôi sẽ rất vui khi tôi xin phép như vậy. Tôi làm thế để được làm con và làm con thảo của ba mẹ tôi.
Hẳn Chúa cũng rất vui khi chúng ta biết quan tâm lắng nghe và tuân giữ lời Ngài, để Ngài có thể đưa chúng ta vào sự hiệp thông sâu xa với tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa!
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng !
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Augustinô)
THỨ BA TUẦN 5 PHỤC SINH
Ga 14,27-31a
“Thầy để lại bình an cho anh em,
Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.”
(Ga 14,27)
Hôm nay, chúng ta suy niệm về sự bình an của Chúa.
1. Bình an của Chúa Giêsu mang đến không phải là thứ bình an mà thế gian ban tặng. Bình an của Chúa chỉ có khi con người có thể thốt lên như Thánh Phaolô “Lương tâm tôi không trách tôi điều gì” (1Cr 4,4).
Một người hành khất có dáng vẻ băn khuăn tiều tụy lạ thường. Sau manh áo rách rưới, ông còn đeo trên cổ một Thánh Giá vàng mà ai cũng có thể trông thấy.
Ngày ngày, ông ta tới xin ăn trước cửa một nhà thờ ở Paris. Người quen thuộc nhất của ông là một Linh mục trẻ. Vị Linh mục thường đến dâng lễ ở nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, Linh mục thường có thói quen hỏi han và giúp đỡ người hành khất này.
Bỗng một hôm, vị Linh mục không thấy người ăn xin ấy trước cửa nhà thờ nữa. Ngài đã tìm đến để thăm và giúp đỡ người hành khất này đang lúc ông ta lên cơn rét run, vì bệnh tật và đói ăn.
Cảm động trước nghĩa cử của Linh mục, người hành khất đã kể lại cuộc đời mình cho Linh mục nghe. Ông tâm sự rất thật, không giấu diếm điều gì. Ông nói:
– Lúc cách mạng bùng nổ thì tôi đang làm quản gia cho một gia đình giầu có. Hai vợ chồng chủ tôi là những người đạo đức, giầu lòng thương người. Thế nhưng, tôi đã phản bội họ. Quân cách mạng đã đến và đã bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con bị bắt giữ và bị kết án tử hình. Chỉ có người con trai duy nhất là thoát được.
Nghe tới đây, vị Linh mục cảm thấy choáng váng mặt mày. Nhưng rồi ngài cũng cố gắng lấy lại được vẻ bình tĩnh. Người hành khất khều khào nói tiếp:
– Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Quả thật, tôi là một con quái vật khát máu. Nhưng sau đó tôi bỗng ân hận. Tôi bị lương tâm giày vò. Tôi không thể nào có được sự bình an trong tâm hồn nữa và tôi bắt đầu đi lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm để cố quên đi tội ác của mình…Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh gia đình họ trong túi áo này đây. Cây Thánh Giá treo ở đầu giường kia là của người chồng. Còn Thánh Giá bằng vàng tôi đeo đây là của người vợ… Xin Chúa tha thứ cho tôi.
Nghe xong những lời tâm sự và cũng là những lời tự thú trên đây, vị Linh mục trẻ quỳ gối xuống cạnh giường người hành khất đang hấp hối. Và thay cho một công thức giải tội, ngài nói:
– Tôi chính là người con trai còn sống sót của gia đình. Đại diện cho gia đình tôi và với tư cách là một Linh mục, tôi tha tội cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. (Người hành khất lạ thường)
Vâng, phải sống với một “Lương tâm không trách móc điều gì”, chúng ta mới có sự bình an của Chúa.
2. Thật chẳng có gì quý hơn một cuộc sống mà tâm hồn an bình thư thái. Muốn có được sự bình an đó, chính chúng ta phải tạo ra.
Lịch sử kể lại, Purna là một môn đệ của Đức Thích Ca. Một hôm, anh xin thầy cho anh được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Thấy môn sinh của mình có thiện chí nhưng Đức Phật vẫn sợ, sợ anh ta không kham nổi những thử thách tại nơi đó.
Đức Thích Ca cho anh biết:
– Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?
Purna thưa:
– Nếu thật sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây vẫn còn tốt lành, vì họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng võ lực, đánh đập và ném đá con.
Đức Thích Ca tiếp lời:
– Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế nào?
Purna thưa:
– Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa- Ranta còn tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột để đánh đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con.
Nghe môn đệ nói như thế, Đức Phật không khỏi ngạc nhiên, Ngài hỏi tiếp:
– Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?
Không cần suy nghĩ lâu, Purna đáp:
– Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là những người thật tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay hư nát này.
Nghe vậy, Đức Thích Ca bảo:
– Purna, con đã tu tâm dưỡng tánh đến nơi đến chốn để có được sự ôn hoà, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bản tính hiếu chiến và bất nhân như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét.
THỨ TƯ TUẦN 5 PHỤC SINH
Ga 15,1-8
“Hãy ở lại trong Thầy
như Thầy ở lại trong anh em.”
(Ga 15,4)
Hôm nay chúng ta suy niệm về sự sống trong Chúa Giêsu.
1. Chữ “Kitô hữu” có nghĩa là “người thuộc về Đức Kitô”.
Cho nên cuộc sống Kitô hữu đương nhiên phải là cuộc sống trong Đức Kitô và sống bằng sức sống của Ngài.
Một nhà truyền giáo sống tại Phi Châu, một lục địa còn sống rất xa đối với ánh sáng văn minh hiện đại.
Tại một trung tâm truyền giáo mà vị thừa sai kia làm việc, người ta mới mua được một máy điện nhỏ, để cung cấp điện cho trung tâm.
Vì nghe thấy tiếng máy nổ, một số những người sống chung quanh trung tâm, kể cả con nít lẫn người lớn, đã kéo nhau đến để xem tiếng nổ kia là gì.
Khi đến trung tâm, họ vô cùng ngạc nhiên, vì không hiểu tại sao lại có những chiếc đèn, dài có, tròn có, treo ngược ở trên trần nhà và đang tỏa sáng. Họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy nhà truyền giáo thắp sáng những ngọn đèn này mà không cần phải mồi lửa cho chúng. Họ chỉ thấy ngài sờ vào một cục gì đó ở trên tường, thế là ngọn đèn bỗng sáng trưng.
Một người trong nhóm đến xem, thấy ở trong góc nhà có một cái bóng đèn dài người ta bỏ đi đang nằm ở đó. Anh đánh bạo xin nhà truyền giáo.
Tưởng là người này xin bóng đèn kia về nhà trưng chơi, nên ông đồng ý.
Ít ngày sau, trong dịp đi thăm các gia đình, nhà truyền giáo ghé vào nhà của người hôm trước đã xin bóng đèn. Vừa bước vào trong căn nhà lụp sụp, nhà truyền giáo đã thấy ngay cái bóng đèn điện mà ngài cho hôm trước, được treo ở trên xà nhà, bằng một sợi giây. Ngài còn đang tủm tỉm cười về ý nghĩ thật đơn sơ của người dân ở đây, thì chủ nhà lên tiếng ;
– Thưa Cha, sao bóng đèn cha cho con chẳng sáng gì cả. Phải thắp sáng nó như thế nào hở cha?
Nhà truyền giáo phá lên cười rồi giải thích:
– Để cho đèn này sáng, cần phải có một dòng điện, phát ra từ một máy phát điện. Dòng điện này được dẫn đến bóng đèn bằng một dây kim loại. Ở đây không có điện, đàng khác bóng đèn này hư rồi, nên làm sao sáng được.
Ngày xưa, khi giảng về sự cần thiết phải liên kết với Chúa, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cây nho và cành nho.
Ngày nay, nếu Chúa có trở lại trần gian này để giảng cho chúng ta về đề tài phải liên kết với Ngài, có lẽ Ngài sẽ không dùng hình ảnh cây nho và cành nho nữa, mà có thể Ngài dùng hình ảnh bóng đèn điện, với máy phát điện.
Điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua hình ảnh cây nho và cành nho được thuật lại trong Tin Mừng hôm nay, đó là chúng ta phải liên kết với Ngài để sức sống của Thiên Chúa được chuyển thông đến chúng ta. Đừng để bất cứ thứ gì cản ngăn sự chuyển thông đó.
2. Liên kết bằng cách nào đây?
Chúng ta có thể và phải kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô: bằng cầu nguyện, bằng tưởng nhớ, bằng thi hành những lời Ngài dạy…Ai không làm những điều đó thì người ấy không phải là Kitô hữu thật, người ấy là cành nho khô, sớm muộn gì thì cũng bị chặt đi và quăng vào lửa.
Hơn nữa, để cây nho được sai trái thì Chúa bảo cần phải cắt tỉa. Thánh Anphongsô đã được Thiên Chúa cắt tỉa bằng việc để Ngài thất bại ê chề trong một cuộc xử kiện mà Ngài làm luật sư. Thánh Ingatiô được cắt tỉa khi bị thương què chân trong một trận chiến.
Cắt tỉa là bị chặt đi, mất đi nhưng thử hỏi có cuộc đời nào mà chẳng được đánh giá bằng những cái mất và những cái được không. Tuy nhiên, với con mắt đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất….Đức Hồng Y Etchegaray có lần đã nói: “Đứng trước cánh rừng, chúng ta không nên dừng lại ở tiếng ngã đổ của cây rừng, nhưng hãy lắng nghe âm thanh của những mầm non đang mọc lên. (Mỗi ngày một tin vui).
Nếu Thánh Anphongsô đã không được Thiên Chúa cắt tỉa bằng việc để cho Ngài thất bại ê chề trong một cuộc xử kiện mà Ngài làm luật sư, cũng như thánh Ignatiô không bị cắt tỉa bằng việc bị thương què chân trong một trận chiến, thì chưa chắc gì các ngài đã tìm ra lý tưởng để đi theo. Chính nhờ sự cắt tỉa đớn đau đó mà các ngài đã nhận ra tiếng Chúa mời gọi và đã đi theo Chúa, làm cho cuộc đời của mình đẹp hơn nhiều. Như vậy, các Ngài mất một điều nhưng được lại nhiều điều khác còn quý hơn.
Bài thơ của Tagore
Chỉ mong Ngài lấy đi
Mong chẳng còn gì thuộc về con,
Mong chẳng còn gì là của con.Để con được trắng tay,
Con chỉ còn Ngài để giữ lấy,
Con được chọn Chúa mãi là của con.Chỉ mong Ngài xóa đi
Mong chẳng còn gì để chiếm hữu,
Mong chẳng còn gì ràng buộc con.Để con được ngước lên
Con tìm được Ngài là chân lý.
Con được cùng Chúa đồng hành luôn.Chỉ mong Ngài cất đi,
mong chẳng còn gì để nắm giữ,
mong chẳng còn gì mà tự tôn.Để con chỉ biết yêu,
Yêu một mình Ngài trọn đời con.
THỨ NĂM TUẦN 5 PHUC SINH
Ga 15,9-11
“Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy,
anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy.”
(Ga 15,10)
Nói tiếp về việc “Sống trong Chúa”.
1. Lý luận của Chúa Giêsu thật rõ ràng: Chúa Cha đã yêu mến Chúa Con. Chúa Con đã ở trong tình yêu này bằng cách tuân giữ những lệnh truyền của Chúa Cha. Chúa Con cũng đã yêu thương các môn đệ bằng chính tình yêu này, và các môn đệ cũng có thể ở lại trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Con. Như vậy, đối với Chúa Con: yêu thương và vâng phục là một. Do đó, yêu thương thật sự và trọn hảo là sẵn sàng hy sinh quan điểm của mình để tin tưởng người khác, nhưng không phải do sợ hãi hoặc tính toán, mà là để làm theo ý muốn và ước nguyện của người mình yêu. Không có sự kết hợp giữa hai ý muốn, tình yêu sẽ không bao giờ được trọn vẹn. Sự tuân phục lẫn nhau là tiêu chuẩn đích thực của một tình yêu trưởng thành.
Tình yêu đòi hỏi phải chấp nhận thói quen của người mình yêu. Khi ta quen và chấp nhận những chi tiết nhỏ trong cuộc sống của người khác, tức là ta đã thực sự yêu người đó. Tình yêu là sự thừa nhận của ta đối với thói quen của người khác. Nấc thang cao nhất trong tình yêu chính là thừa nhận và chấp nhận thói quen của người mình yêu.
Đây là câu chuyện xảy ra tại Belfast bên xứ Iceland:
Một linh mục công giáo, một mục sư tin lành, và một giáo trưởng Do thái, đang tranh luận rất sôi nổi về vấn đề thần học. Thình lình một Thiên Thần hiện ra giữa họ và nói:
– Thiên Chúa chúc lành cho các ngươi. Các ngươi hãy nói lên một ước nguyện về hòa bình và Thiên Chúa toàn năng sẽ chấp nhận.
Thế là vị mục sư tin lành liền khẩn cầu:
– Xin Chúa cho tất cả mọi người Công Giáo biến khỏi mảnh đất thân yêu này thì hòa bình sẽ trở lại tức khắc.
Vị Linh mục công giáo thì cầu nguyện:
– Xin đừng để cho một người Tin Lành nào còn có mặt trên mảnh đất Iceland thân yêu này, và hòa bình sẽ trở lại.
Vị giáo trưởng Do thái thì lại cúi đầu thinh lặng. Thấy thế Thiên Thần liền hỏi:
– Còn ngươi, hỡi giáo trưởng, ngươi không có ước nguyện nào ư?
Ông ta liền thưa:
– Vâng, tôi không có điều gì để xin nữa. Tôi chờ cho lời cầu của hai vị này được Chúa chấp nhận là tôi mãn nguyện rồi.
Tình yêu đòi hỏi phải chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đó cũng là nền tảng của một xã hội tốt đẹp. Giềng mối của mọi đố kỵ, chia rẽ dẫn đến bạo động, hận thù và chiến tranh chính là thái độ bất khoan dung.
2. Trái lại nếu con người biết tôn trọng những khác biệt của người khác, thì cuộc sống giữa người với người chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn.
Đức Giám Mục Helder Camara, vị tông đồ nổi tiếng của người nghèo xứ Brasil, đã ghi lại trong tập thơ của Ngài mang tựa đề “Có muôn ngàn lý do để sống” câu chuyện sau đây:
Bên cạnh nhà tôi có một con sáo, quanh năm ngày tháng sống giữa trời. Tôi vẫn có thói quen nói chuyện với nó. Một hôm, tôi hỏi sáo có nơi ngủ không. Nó ngạc nhiên trả lời:
– Có chứ, màn là trời, chiếu là đất, có bao giờ thiếu đâu.
Với những đòi hỏi của trí khôn, con người muốn biết mọi chuyện, tôi mới tò mò hỏi nó:
– Thế thì những lúc mưa gió, sáo trú ẩn mình nơi đâu?
Sáo nhanh nhẩu trả lời:
– Bộ ông nghĩ là thỉnh thoảng tôi không cần tắm gội sao?
Tôi hỏi nó có đói không. Con chim chỉ mỉm cười đáp:
– Điều tôi muốn là được hót. Tôi sinh ra để hót mà.
Nói thế rồi nó cất tiếng hót như sau:
– Hỡi loài người kiêu ngạo, hãy nói cho ta biết đi, liệu các ngươi không chết sao?
Có lần, tôi nài nĩ con sáo nhận món quà tôi biếu, đó là khúc bánh mì kẹp thịt. Thế là sáo lại được dịp cười nhạo sự ngây ngô của tôi. Nó bảo:
– Ông không biết loài sáo chúng tôi không ăn bánh mì và thịt như các ông à?
Một lần khác tôi hỏi sáo có cầu nguyện không? Nó không hiểu được câu hỏi của tôi. Nó chỉ cười và nói:
– Có mấy chú nhóc con lấy đá ném tôi. Nhưng tôi bay đi, tôi cười và tôi hót.
Ngày kia, tôi có ý nghĩ đưa con sáo vào bệnh viện nhờ các bác sĩ khám bệnh và chữa trị cho nó. Nhưng tôi chợt nhận ra rằng nó chỉ là một con chim.
Nguyên nhân của những nỗi bất hạnh nơi con người là việc con người không biết chấp nhận tư tưởng, hành động và cách sống của nhau.
Ai cũng muốn người khác phải suy nghĩ, hành động và sống như mình. Ý thức hệ nào cũng tự cho mình là ưu việt và muốn áp đặt trên mọi người bằng mọi cách.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết thay đổi tấm lòng, mang lấy một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương, biết tôn trọng phẩm giá và tự do của người khác, để chúng con góp phần vào việc kiến tạo nên một thế giới, trong đó mỗi người chúng con biết sống quảng đại với nhau hơn. Amen.
THÁNH NỮ CATARINA SIENA
1. TIỂU SỬ
Catarina Benincasa chào đời tại thành Siena vào năm 1347, và gia nhập dòng Ba Đaminh khi còn rất trẻ. Ngài nổi bật về tinh thần cầu nguyện và sám hối. Được thúc đẩy vì tình yêu nồng nàn đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, và Giáo Hoàng Roma, thánh nữ đã hoạt động không biết mệt mỏi cho sự nghiệp bình an và hợp nhất của Giáo Hội, trong những năm tháng gian truân của thời kỳ di tản Avignon. Thánh nữ đã dành rất nhiều thời gian hoạt động tại phủ Giáo Hoàng để thuyết phục Đức Gregoriô XI trở về giáo đô Roma, vì đó mới chính là nơi Đấng Đại Diện Chúa Kitô điều hành toàn thể Giáo Hội. Chỉ vài hôm trước khi qua đời, ngày 29 tháng 4 năm 1380, thánh nữ đã tâm sự rằng: “Nếu tôi qua đời, hãy cho người ta biết rằng tôi chết vì nhiệt tâm với Giáo Hội.”
Thánh nữ đã viết rất nhiều thư từ, hiện còn giữ được chừng 400 bức, một số kinh nguyện, ‘những lời than thở,’ và một quyển sách duy nhất là cuốn ‘Đối Thoại.’ Trong quyển sách này, thánh nữ đã ghi lại những lần tâm tình thân mật của mình với Chúa. Người nữ tu dòng Ba Catarina được Đức Piô II tôn phong hiển thánh, và lòng sùng kính ngài mau chóng lan rộng khắp Âu Châu. Thánh nữ Têrêsa Avila nói rằng: “Sau Thiên Chúa, người mà ngài mang ơn nhiều nhất về sự tiến bộ trên đường thiêng liêng là thánh nữ Catarina Siena”. Đức chân phúc giáo hoàng Piô IX đã tôn nhận thánh nữ Catarina lên làm quan thầy nhì cho nước Ý (cùng với thánh Phanxicô khó nghèo). Đến năm 1970, Đức Phaolô VI đã tôn phong thánh nữ Catarina Siena danh hiệu Tiến Sĩ Hội Thánh.
2. NHỮNG DIỂM NỔI BẬT TRONG CUỘC ĐỜI CỦA THÁNH NHÂN.
a/ Trước hết phải kể là: “Lòng yêu mến Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng,(Chúa Kitô dịu hiền trên trần gian).”
Mặc dù không được học hành đến nơi đến chốn (chỉ đủ biết đọc biết viết), và qua đời khi mới 33 tuổi, nhưng thánh nữ Catarina Siena đã có một cuộc đời phi thường với nhiều thành tích, như thể thánh nữ đã rảo bước đến cung thánh muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài là tấm gương tuyệt vời về lòng yêu mến Giáo Hội và Giáo Hoàng Roma, đấng được thánh nữ xưng tụng là Chúa Kitô dịu hiền trên trần gian, cũng như về lòng chính trực và can đảm, khiến nhiều người đương thời phải lắng nghe thánh nữ.
Vào thời kỳ ấy, một trong những thời kỳ rối ren nhất của lịch sử Giáo Hội, các Đức Giáo Hoàng đến ngụ tại thành Avignon ở miền Nam nước Pháp. Còn Roma, trung tâm Kitô Giáo, lại bị để hoang tàn. Chúa tỏ cho Catarina biết các Đức Giáo Hoàng cần phải trở về Roma để khởi sự công cuộc chấn hưng đời sống Giáo Hội. Việc này rất khẩn thiết và được mong đợi từ lâu cho. Vì mục đích ấy, thánh nữ không những đã không biết mệt mỏi để cầu nguyện, thực hành khổ chế, mà còn viết rất nhiều thư cho Đức Giáo Hoàng, các hồng y, và các vị chức sắc trong Giáo Hội.
Thánh nữ Catarina luôn vâng phục và yêu mến Đức Giáo Hoàng Roma. Chị thánh đã viết: “Người nào không tùng phục Chúa Kitô trên trần gian, đại diện Chúa Kitô trên trời, thì không được dự phần vào hiệu quả Máu thánh Con Thiên Chúa”
Thánh nữ không ngừng hối thúc các hồng y, giám mục và linh mục trong công cuộc chấn hưng Giáo Hội và đời sống các tín hữu. Thánh nữ không ngần ngại kêu gọi các ngài hãy nghiêm chỉnh trở về với nhiệm vụ. Lúc nào thánh nữ cũng khiêm tốn và tỏ lòng tôn kính chức phẩm của các giáo sĩ, bởi vì các ngài là những thừa tác viên Mình Máu thánh Chúa Kitô. Thánh nữ chủ yếu viết thư cho các mục tử trong Giáo Hội, vì biết tinh thần đạo đức của đoàn chiên tùy thuộc rất nhiều vào sự sám hối và nếp sống gương mẫu của những vị này.
b/ Thứ đến Thánh nữ đã hiến dâng cả cuộc đời của mình cho Giáo Hội.
Thánh nữ Catarina có một nữ tính rất rõ nét, nhưng đồng thời cũng biểu lộ một khát vọng và một năng lực phi thường, đặc trưng của những người nữ bản lãnh, đảm đương những công việc hy sinh lớn lao và kiên trì dưới chân thập giá Chúa Kitô. Thánh nữ không khoan nhượng trước bất cứ sự nhát đảm nào trong việc phụng sự Chúa Kitô. Ngài tin rằng đang khi phần rỗi các linh hồn bị lâm nguy thì không thể khoan nhượng một cách vô lý. Thái độ khoan nhượng cho sự lạnh nhạt như thế là hoàn toàn không thể chấp nhận, bởi vì thực sự đó là nhượng bộ thói ươn lười hoặc nhát đảm.
Một năm sau, sau khi trở về Roma vào năm 1377, Đức Thánh Cha đã từ trần. Cuộc bầu Giáo Hoàng kế vị đánh dấu một thời kỳ rối ren trong lịch sử Giáo Hội, đó là cuộc đại ly giáo Tây Phương, một trong những cơn khủng hoảng gây chia rẽ đau đớn nhất cho Giáo Hội. Thánh nữ Catarina đã tiếp xúc và viết thư cho các hồng y, giám mục và vương công, nhưng đều vô ích. Hoàn toàn kiệt sức và đau đớn, cuối cùng thánh nữ đã hiến dâng mạng sống lên Thiên Chúa như một của lễ để cầu nguyện cho Giáo Hội. Vào một ngày tháng Giêng năm 1380, khi đang cầu nguyện trước mộ thánh Phêrô, thánh nữ cảm thấy trên vai của mình gánh nặng kinh khủng của Giáo Hội. Cơn hấp hối của thánh nữ kéo dài vài tháng. Và ngày 29 tháng Tư năm ấy, lúc giữa trưa, Thiên Chúa đã gọi Catarina về hưởng vinh quang. Trên giường hấp hối, thánh nữ đã dâng lên lời nguyện cảm động: “Ôi Thiên Chúa hằng hữu, xin đón nhận hiến lễ cuộc sống của con vì Nhiệm Thể Hội Thánh. Con không có gì để dâng lên, ngoài những gì Chúa đã ban cho con”. Trước đó vài ngày, thánh nữ đã thưa với cha giải tội: “Con bảo đảm với cha, nếu con chết, nguyên nhân duy nhất cái chết của con là nhiệt tâm và lòng yêu mến Giáo Hội đã thiêu đốt và làm con tiêu tan”. Chúng ta hãy cầu xin thánh nữ ban cho chúng ta một lòng mến bừng cháy đối với Mẹ Giáo Hội như thế.
c/ Và cuối cùng Catarina là người luôn nhiệt thành bảo vệ chân lý.
Thánh nữ Catarina luôn thẳng thắn và can đảm lên tiếng mỗi khi có vấn đề nào ảnh hưởng đến Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng, và lợi ích các linh hồn. Ngài cảm thấy mình có trách nhiệm phải bảo vệ chân lý. Ở điểm này, chúng ta có thể học được rất nhiều từ thánh nữ Catarina: ngài không bao giờ nhượng bộ trong những điều căn bản, bởi vì ngài đặt trót niềm tin nơi Chúa.
Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Catarina cho chúng ta được chia sẻ phần nào lòng yêu mến của ngài đối với Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng Roma, và cả những ước vọng nóng bỏng muốn truyền bá giáo lý của Chúa Giêsu khắp nơi. Đồng thời, luôn cố gắng khám phá ra những khía cạnh tích cực của mọi vấn đề, không bỏ phí một cơ hội nào. Chúng ta hãy nài xin Đức Mẹ bằng những lời của chính thánh nữ Catarina: “Ôi Maria, con đến van nài, xin Mẹ dâng lời khẩn nài của con cho Hiền Thê dịu hiền của Chúa Kitô và cho vị Đại Diện trên trần gian của Người. Ước chi ngài luôn luôn được ánh sáng để cai trị Giáo Hội một cách khôn ngoan sáng suốt.” Amen.
THỨ SÁU TUẦN 5 PHỤC SINH
Ga 15,12-27
“Điều Thầy truyền dạy anh em là
hãy yêu thương nhau.” (Ga 15,17)
Hôm nay, chúng ta suy niệm về việc Kitô hữu phải yêu mến nhau.
1. Những tiếng “Yêu thương”, “Tình gia đình”, “Huynh đệ”, “Chia sẻ”, “hiệp thông”…là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Chính chúng ta cũng rất nhiều lần nói như thế. Ước gì từ nay chúng ta nói những chữ ấy một cách thật lòng, nhất là nói với những người cùng niềm tin, cùng lý tưởng với chúng ta.
2. “Điều Thầy truyền dạy cho anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17).
Chúa muốn thế, nhưng hình như còn rất nhiều người chưa sống được như thế.
Đây là một câu chuyện đã xảy ra ở bên Trung quốc, một quốc gia có truyền thống của Đạo Khổng, đạo luôn khuyên dạy mọi người hãy sống với nhau như anh em một nhà (tứ hải giai huynh đệ).
Mỗi năm, cứ vào khoảng từ 23 tháng chạp đến tết, là đất Trung Quốc nhộn nhịp hẳn lên vì đó là thời gian chuẩn bị cầu Phúc. Năm đó, trong khoảng thời gian này, Lỗ Tấn gặp thím Tường Lâm cứ lang thang ở ngoài đường giữa lúc trời lạnh giá. Thím là một nông dân cần cù. Chồng trước thì chết sớm, chồng sau chết vì thương hàn, thằng con nhỏ thì bị chó sói vồ…Dân chúng đã không thương thì chớ lại còn bày chuyện nói rằng, mai sau thím sẽ bị cưa đôi để chia cho hai con ma chồng. Bị dân làng nghĩ như thế cho nên thím luôn phải sống trong sợ hãi. Ai cũng nói thím là đồ ô uế. Chủ nhà không cho thím sờ tay vào các lễ vật, dù đó chỉ là cái chân đèn…Sống trong hoàn cảnh như thế, thím từ từ suy sụp và sinh hoảng loạn. Rồi một hôm kia thím bỏ nhà ra đi.
Lỗ Tấn nhìn thấy tóc thím trắng xóa, tay thím xách cái làn tre, trong có cái bát mẻ không đựng gì, còn tay kia thì cầm cây gậy trúc đầu toe tóe, lang thang trên đường, miệng lẩm bẩm gọi tên con mình. Không chịu nổi tiết trời lạnh lẽo, thím nằm chết trên một đống tuyết vào lúc giao thừa đến, pháo nổ vang trời. Các gia đình giàu có mở cửa ra, thấy vậy, không những đã không thương còn quát lên: “Tại sao chết vào lúc tao đang cầu phúc?”.
Vâng! nếu chúng ta không cẩn trọng có thể cũng có lúc chúng ta cũng chẳng kém ác tâm vô cảm như thế với những anh chị em của chúng ta.
+ Trái lại, nếu người ta biết yêu thương nhau thực sự như Chúa mong muốn, thì hạnh phúc chẳng cần đi tìm, tự nhiên nó sẽ đến.
Một vị đạo sĩ kia kể rằng, ngày nọ, ông từ trên núi cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường, ông gặp một người ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với người Tây Tạng đồng hành:
– Chúng ta mau lại giúp đỡ người gặp nạn đó!
Nhưng người Tây Tạng trả lời:
– Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của chúng ta đang bị giá lạnh đe dọa.
Nhưng vị đạo sĩ nói:
– Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa thì chúng ta cũng nên chết vì đã giúp người khác, đó là điều tốt đẹp hơn.
Nói rồi vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai và khệ nệ đem người đó xuống núi, trong khi người Tây Tạng đã bỏ xuống trước. Đi được một quãng, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành người Tây Tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta mệt quá, ngồi nghỉ và bị lạnh cóng chết lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn nên cơ thể nóng lên thêm, nhờ đó mà ông đã thoát chết vì lạnh.
3. Chúa còn nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn bằng tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Yêu thì phải hy sinh. Một vị Giám mục kia nói: “Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả. Và hy sinh không vì tình yêu là hy sinh thừa”.
Hồi còn học ở Tiểu chủng viện, tôi có được xem một cuốn phim mà nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ nội dung của nó. Cuốn phim có tựa đề là “Anh phải sống”. Nội dung cuốn phim nói về việc hai vợ chồng nọ quá nghèo, nên phải đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trên đường về, họ gặp trời giông bão. Họ bị nước cuốn trôi đi. Họ bám được vào một khúc cây nhưng khúc cây quá nhỏ chỉ đủ cho một người bám. Họ không thể kéo dài mãi tình trạng hai người cùng bám vào khúc cây này. Kéo dài thêm thì sẽ chết cả hai. Trước tình trạng đó, đòi hỏi họ phải có một sự lựa chọn. Người chồng bảo người vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo cho các con”. Người vợ cũng bảo người chồng “anh phải sống”. Cuối cùng, người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và cho con.
Vâng, yêu thương là hy sinh, yêu thương chính là quên mình.
Hãy biết yêu như Chúa để chúng ta được xứng đáng là môn đệ của Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con yêu thương nhau.” (Ga 13,35)
THỨ BẢY TUẦN 5 PHỤC SINH
Ga 15,18-21
“Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian,
nên thế gian ghét anh em.” (Ga 15,19)
Cuộc sống của Kitô hữu ở thế gian.
Chúa Giêsu cho mọi người biết: “Vì các con không thuộc về thế gian…nên thế gian ghét các con” (Ga 15,19).
Chúng ta không nên cố tình chọc tức thế gian, nhưng đừng quên Lời Chúa: Chúng con ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian (Ga 17,16). Chúng ta là những người đang sống trên đất.
Đây mời anh chị em nghe một đoạn trích thư gửi cho Điônhêtô mô tả về chân dung người Kitô hữu thời đó:
Các Kitô hữu không khác người ta về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một nếp sống khác lạ.
Giáo Lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do loài người chủ xướng như một số người khác.
Họ ở trong các thành phố văn minh cũng như bán khai, tùy theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin.
Họ sống ở quê hương mình mà như những khách kiều cư. Họ có chung mọi thứ như những người khác, nhưng phải gánh chịu đủ thứ như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, và quê hương nào cũng là đất khách đối với họ.
Họ lập gia đình và sinh con đẻ cái như mọi người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn, nhưng không chồng chung vợ chạ.
Họ sống trong xác thịt, nhưng không theo xác thịt. Họ sống ở trần gian nhưng họ là công dân Nước Trời. Họ tuân hành luật pháp, nhưng cách sống của họ vượt trên những đòi hỏi của luật pháp.
Họ yêu thương mọi người, nhưng mọi người lại ngược đãi họ. Họ không được nhìn nhận, lại còn bị kết án. Họ bị giết mà vẫn được sống. Họ là những người hành khất, nhưng lại làm cho nhiều người nên giàu. Họ thiếu thốn mọi thứ, nhưng lại dư dật mọi sự.
Họ bị sỉ nhục, nhưng giữa những sỉ nhục, họ lại được vinh quang. Danh thơm của họ bị chà đạp, nhưng bằng chứng về đời sống công chính của họ lại được phô bày. Bị nguyền rủa, họ chúc lành; bị đối xử nhục nhã, họ tỏ lòng kính trọng.
Khi làm điều thiện, họ lại bị trừng phạt như những kẻ bất lương. Khi bị trừng phạt, họ vui mừng như được sống. Người Do Thái giao chiến với họ như với ngoại bang, còn dân ngoại thì ngược đãi họ, và những kẻ ghét họ không thể nói lý do tại sao lại căm thù họ.
Tôi xin nói đơn giản như sau: hồn ở trong xác thế nào, thì các Kitô hữu sống giữa thế gian cũng thế. Linh hồn ở khắp các chi thể thế nào thì các Kitô hữu cũng ở mọi thành thị trên thế giới như vậy. Linh hồn ở trong thân xác nhưng không do thân xác, thì các tín hữu cũng ở trong thế gian nhưng không bởi thế gian. Linh hồn vô hình được gìn giữ trong thân xác hữu hình, thì người ta nhìn thấy các Kitô hữu sống trong thế gian, nhưng không thấy lòng đạo đức của họ.
Xác thịt thù ghét và gây chiến với linh hồn, dù linh hồn không làm hại gì cho xác thịt, mà chỉ ngăn không cho nó hưởng lạc thú; thế gian cũng ghét các Kitô hữu như vậy, dù họ không gây thiệt hại gì cho nó, mà chỉ chống lại các lạc thú.
Linh hồn yêu thân xác, nhưng thân xác và các chi thể lại ghét linh hồn; các Kitô hữu cũng yêu những kẻ ghét mình. Linh hồn bị giam giữ trong thân xác, nhưng thực ra chính linh hồn lại chứa đựng thân xác; các Kitô hữu cũng bị giam giữ trong thế gian như trong tù, nhưng chính họ lại chứa đựng thế gian.
Linh hồn bất tử ở trong nhà tạm phải chết; các Kitô hữu sống giữa những thực tại hay hư nát như khách lữ hành, đang khi đợi chờ sự trường tồn trên thiên quốc. Nhờ ăn uống kham khổ, linh hồn nên tốt hơn; nhờ chịu cực hình, các Kitô hữu ngày một thêm đông nhân số.
Thiên Chúa đã đặt các Kitô hữu vào tình trạng như thế, thì họ không nên trốn tránh…
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Cha Piô:
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn.
Cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa,
và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn.(Cha Piô)