Ngày 06 Tháng 06
Hai ngọn đuốc sáng
Đức Kitô, ánh sáng vĩnh cửu đã nhập thể trong trần gian để mặc khải về Chân Lý Cứu Độ. Ngài đến và kêu mời những ai theo Ngài hãy trở nên ánh sáng cho thế gian, làm chứng cho Tin Mừng Cứu độ bằng lời nói, bằng thái độ và bằng cuộc sống của chính mình. Người tín hữu sẽ trở thành ánh sáng, sẽ biểu hiện một cuộc sống gương mẫu “để mọi người ngợi khen cha của anh em, đấng ngự trên trời” (Mt 5,16) qua việc phục vụ tận tình như dấu chỉ Nước Trời đang hình thành và với thái độ chấp nhận hi sinh dấn thân cho Chân lý.
Hai vị thánh Phêrô Dũng và Phêrô Thuần khi chấp nhận bản án thiêu sinh hơn là bỏ đạo, đã dùng chính thân thể mình làm ngọn đuốc sáng: Chấp nhận hủy diệât mạng sống hầu được sống trường tồn. Để rồi ngọn lửa rực sáng trong khoảng khắc ấy, mọi người sẽ thấy bừng lên Aùnh sáng Thần Linh của Thượng Đế, Đấng các vị làm chứng cho đến hơi thở cuối cùng.
Khó khăn thử thách.
Ông Phêrô Đinh Văn Dũng (con ông Phê rô Mẫn và bà Maria An) và ông Phêrô Đinh Văn Thuần đều đã ngoài 60 tuổi, là anh em con chú con bác, người họ Đông Phú thuộc giáo xứ Trung Đồng, Kẻ Mèn, tỉnh Thái Bình trong giáo phận Trung Đàng Ngoài. Hai ông làm nghề đánh cá, một nghề như thánh Phê rô, bổn mạng hai ông đã từng làm. Riêng ông Phêrô thuần còn được chọn làm Lý trưởng nhờ tấm lòng cương trực và khả năng của mình. Là những giáo hữu bình dân chất phác và nhiệt thành, sau khi lập gia đình, hai ông đã tận tâm giáo dục con cái sống đạo cách sốt sắng theo tinh thần Phúc Âm.
Tháng 08-1861 với chiếu chỉ phân sáp của Vua Tự Đức, việc bách hại đạo gia tăng cách khủng khiếp nhất là trong giáo phận Trung. Các quan thi hành triệt để lệnh Vua, không những cho quân lính truy lùng các vị thừa sai, giám mục, linh mục, thày giảng, mà còn cưỡng ép mọi giáo hữu bất kể nam phụ lão ấu đều phải chối đạo và bước qua Thánh Giá. Đất đai, vườn ruộng, nhà cửa, sức vật. của giáo hữu sau khi bị phân sáp đều bị tịch thu, phá hủy. Hơn nữa, giáo hữu còn bị khắc trên má hai chữ “Tả Đạo” để khỏi lẩn trốn. Quả thực, Giáo Hội Việt Nam đang phải chìm đắm trong những thử thách lớn lao.
Đầu năm 1862, thảm họa đã đổ xuống trên làng Đông Phú. Trong dịp này, hai ông Phêrô Dũng và Phêrô Thuần đã bị bắt và bị giải về phủ huyện, rồi bị tống giam vào ngục Ngọc Chí. Tại đây hai ông chịu nhiều cực hình, cổ mang gông, chân chịu xiềng xích, và nhiều lần quân lính đưa hai ông đến trình diện quan lớn, rồi bị cưỡng ép chà đạp Thánh Giá. Nhưng các ông vẫn nhất mực từ chối lời quan, và thẳng thắn tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Kitô.
Hai mẫu gương sống động.
Các quan đã phải dùng đến phương sách tình cảm để mong khuất phục hai ông. Quan cho quân lính dẫn hai ông về thăm gia đình, gặp vợ con. Trước cảnh gông cùm xiềng xích của người chồng, người cha, cả hai gia đình đều nức nở khóc lóc buồn thương. Nhưng điều quan quân không ngờ được: Hai ông bình tĩnh an ủi và khích lệ vợ con hãy sẵn sàng chấp nhận việc dâng hiến của mình. Ông Phêrô Dũng nói: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Đức Kitô”.
Sau đó hai vị anh hùng bình thản trở về nhà tù sống chung với các chứng nhân khác.
Tháng 04-1862, các quan đầy hai ông ra làng Lương Mỹ, thuộc huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, và giam ở đó hai tháng. Trong hoàn cảnh này, ông Phêrô Thuần đã một lần thối chí và nghe lời quan đạp lên Thánh Giá. Thế nhưng sau khi gặp các bạn hữu, ông tìm được can đảm, tiếp tục tuyên xưng niềm tin cho đến chết, bất chấp mọi đòn vọt tra tấn.
Nhận thấy việc kéo dài thời gian giam giữ hai ông Phêrô Dũng và Phêrô Thuần cũng vô ích, các quan liền kết án thiêu sinh hai ông. Ngày 06-06-1862, quan cho nhốt hai chiến sỹ đức tin vào một chiếc cũi tre chật hẹp, rồi chất củi thiêu sống hai ông. Trong ngọn lửa phừng phực nóng bỏng, hai chứng nhân của Chúa Kitô chắp tay cầu nguyện, tạ ơn Chúa trong tâm tình hiến dâng mạng sống mình để nói lên niềm tin kiên vững vào Đấng Cứu Chuộc. Thi thể cháy đen của hai vị tử đạo được chôn cất ngay tại chỗ. Về sau, giáo dân đem an táng tại sân nhà thờ Đông Phú, quê hương của cac ngài.
Cùng với 23 vị tử đạo khác tại Việt Nam, hai ông Phêrô Đinh Văn Dũng và Phêrô Đinh Văn Thuần đã được Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP