Tông huấn Familiaris consortio của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II về các nhiệm vụ của gia đình Kitô giáo trong thế giới hôm nay

Tông huấn Familiaris consortio được Linh mục Giuse Đinh Quang Vinh, Ban Mục vụ Gia đình của Giáo phận Đà Lạt chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Ý: ESORTAZIONE APOSTOLICA “FAMILIARIS CONSORTION” DI SUA SANTITÀGIOVANNI PAOLO II; ALL’EPISCOPATOAL CLERO ED AI FEDELIDI TUTTA LA CHIESA CATTOLICA; CIRCA I COMPITIDELLA FAMIGLIA CRISTIANANEL MONDO DI OGGI; Trích trong quyển: ENCHIRIDION DELLA FAMIGLIA E DELLA VITA; DOCUMENTI MAGISTERIALI E PASTORALI DAL CONCILIO DI FIRENZE (1439) A PAPA FRANCESCO; A cura del PONTIFICIO CONSIGLIO PER LA FAMIGLIA, LIBRERIA EDITRICE VATICANA, trang 1884 – 1987. Có tham khảo bản dịch của Linh mục Augustinô Nguyễn Văn Dụ – Rôma 2011 (in lần thứ tư).

TÔNG HUẤN

FAMILIARIS CONSORTIO

CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II

GỬI ĐẾN HÀNG GIÁM MỤC, GIÁO SĨ VÀ TOÀN THỂ TÍN HỮU TRONG HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

VỀ CÁC NHIỆM VỤ CỦA GIA ĐÌNH KITÔ GIÁO TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY

LỜI GIỚI THIỆU

Hội thánh trong sứ vụ phục vụ gia đình

1. Gia đình trong thời đại hôm nay – cũng như, và có lẽ còn hơn cả những thiết chế khác – đang chịu tác động sâu rộng, mạnh mẽ và nhanh chóng bởi những biến chuyển xã hội và văn hóa. Nhiều gia đình đang sống trong hoàn cảnh ấy vẫn trung thành với những giá trị nền tảng của định chế gia đìnhMột số khác thì trở nên lưỡng lự và lạc lõng trước các trách nhiệm của mình; thậm chí, có những gia đình rơi vào tình trạng hoài nghi và gần như đánh mất ý thức về ý nghĩa tối hậu và chân lý của đời sống hôn nhân và gia đình. Sau cùng, cũng có những gia đình bị ngăn cản không thể thực hiện các quyền căn bản của mình do nhiều hoàn cảnh bất công khác nhau.

Ý thức rằng hôn nhân và gia đình là một trong những thiện hảo cao quý nhất của nhân loại, Hội thánh tha thiết cất lên tiếng nói và trao ban sự nâng đỡ cho tất cả những ai đang sống trong hoàn cảnh liên quan đến thực tại này: những người đã nhận ra giá trị của hôn nhân và gia đình và đang nỗ lực sống trung thành với ơn gọi ấy; những người còn ngập ngừng, lo âu và đang trên hành trình tìm kiếm chân lý; và những người đang bị ngăn cản cách bất công, không được tự do sống theo dự phóng gia đình của mình. Bằng việc nâng đỡ những người thứ nhất, soi sáng cho những người thứ hai và trợ giúp những người thứ ba, Hội thánh dấn thân phục vụ tất cả những ai đang thao thức về vận mệnh của hôn nhân và gia đình(x. Gaudium et Spes, 52).

Cách riêng, Hội thánh ngỏ lời với các bạn trẻ – những người đang chuẩn bị bước vào hành trình hôn nhân và đời sống gia đình – nhằm mở ra cho họ những chân trời mới, giúp họ khám phá vẻ đẹp và sự cao cả của ơn gọi sống tình yêu và phục vụ sự sống.

Thượng Hội đồng Giám mục năm 1980 trong sự tiếp nối với các Thượng Hội đồng trước đó

2. Một dấu chỉ cho thấy mối quan tâm sâu xa của Hội thánh đối với gia đình chính là Thượng Hội đồng Giám mục gần đây nhất, được tổ chức tại Rôma từ ngày 26 tháng 9 đến ngày 25 tháng 10 năm 1980. Thượng Hội đồng này là sự tiếp nối tự nhiên của hai Thượng Hội đồng trước đó (x. Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ VI, số 2, ngày 26/9/1980). Thật vậy, gia đình Kitô hữu là cộng đoàn đầu tiên được mời gọi loan báo Tin mừng cho nhân vị đang lớn lên, và dẫn đưa họ – qua tiến trình giáo dục và huấn giáo – đến sự trưởng thành trọn vẹn về nhân bản và Kitô giáo.

Không chỉ vậy, Thượng Hội đồng này còn được liên kết cách lý tưởng với các Thượng Hội đồng trước đó về chức linh mục thừa tác và về công lý trong thế giới đương đại. Thật vậy, với tư cách là một cộng đoàn giáo dục, gia đình có trách nhiệm giúp con người phân định ơn gọi của mình và đảm nhận sự dấn thân cần thiết cho một nền công lý lớn hơn, bằng cách đào luyện con người ngay từ đầu trong các mối tương quan liên vị, phong phú về công lý và tình yêu.

Kết thúc khóa họp, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã trình lên tôi một danh sách phong phú các đề nghị, trong đó quy tụ những thành quả của các suy tư được triển khai trong suốt những ngày làm việc chuyên sâu. Với sự đồng thuận nhất trí, các ngài đã khẩn khoản mời gọi tôi trở thành người diễn đạt trước nhân loại mối quan tâm sống động của Hội thánh đối với gia đình, đồng thời đưa ra những chỉ dẫn thích hợp cho một sự dấn thân mục vụ được canh tân trong lĩnh vực nền tảng này của đời sống con người và đời sống Hội thánh.

Khi hoàn thành nhiệm vụ ấy qua Tông huấn này – như một sự thể hiện đặc biệt của thừa tác vụ tông đồ được trao phó cho tôi – tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với tất cả các thành viên của Thượng Hội đồng vì sự đóng góp quý báu về giáo huấn và kinh nghiệm mà các ngài đã cống hiến, đặc biệt qua tài liệu “Các Đề nghị” (Propositiones). Tôi đã ủy thác văn bản này cho Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình, đồng thời truyền cho Hội đồng nghiên cứu sâu hơn, nhằm khai triển và làm sáng tỏ mọi khía cạnh của sự phong phú mà tài liệu ấy đang chứa đựng.

Hôn nhân và Gia đình: Một thiện hảo cao quý

3. Hội thánh, được soi sáng bởi đức tin – nhờ đó nhận biết toàn bộ chân lý về thiện hảo quý báu của hôn nhân và gia đình, cũng như những ý nghĩa sâu xa nhất của thực tại này – một lần nữa cảm nhận sự cấp bách của việc loan báo Tin mừng(Vangelo), tức là “Tin Vui” (buona novella), cho tất cả mọi người không phân biệt. Cách riêng, Hội thánh muốn ngỏ lời với những ai được mời gọi sống ơn gọi hôn nhân và đang chuẩn bị bước vào đời sống gia đình, cũng như với mọi đôi bạn và các bậc cha mẹ trên khắp thế giới

Hội thánh tin tưởng sâu xa rằng: chỉ khi đón nhận Tin mừng, mọi hy vọng chính đáng mà con người đặt vào hôn nhân và gia đình mới có thể được thực hiện cách trọn vẹn.

Ngay từ công trình tạo dựng (x. St 1–2), Thiên Chúa đã muốn có hôn nhân và gia đình; và chính thực tại này được sắp đặt cách nội tại để được hoàn tất trong Đức Kitô (x. Ep 5). Hôn nhân và gia đình cần đến ân sủng của Người để được chữa lành khỏi những vết thương do tội lỗi gây ra (x. Gaudium et Spes, số 47; Insegnamenti di Giovanni Paolo II, III, 2 [1980], tr. 388tt), và được đưa trở về với “thuở ban đầu”(principio)của mình (x. Mt 19,4), nghĩa là đạt tới sự hiểu biết trọn vẹn và thực hiện toàn diện kế hoạch (disegno) của Thiên Chúa.

Trong một thời điểm lịch sử mà gia đình đang là đối tượng của nhiều thế lực tìm cách phá hủy hoặc làm biến dạng, Hội thánh – ý thức rằng thiện ích của xã hội và của chính mình gắn bó sâu xa với thiện ích của gia đình (x. Gaudium et Spes, 47) – cảm nhận một cách sống động và khẩn thiết hơn sứ mạng của mình: công bố cho mọi người ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, nhằm bảo đảm sức sống trọn vẹn của thực tại này, thúc đẩy sự phát triển nhân bản và Kitô giáo, và qua đó góp phần vào việc canh tân xã hội cũng như chính Dân Thiên Chúa.

PHẦN MỘT – ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI CỦA GIA ĐÌNH HÔM NAY

Sự cần thiết phải hiểu rõ thực trạng

Vì ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình liên quan đến người nam và người nữ trong tính cụ thể của đời sống thường nhật, giữa những hoàn cảnh xã hội và văn hóa nhất định, nên Hội thánh – để chu toàn sứ vụ của mình – cần chuyên tâm tìm hiểu những hoàn cảnh mà trong đó hôn nhân và gia đình đang được thực hiện ngày nay (x. Đức Gioan Phaolô II, Diễn từ trước Hội đồng Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng Giám mục, ngày 23/2/1980; Insegnamenti di Giovanni Paolo II, III/1 [1980], tr. 472–476).

Vì thế, sự hiểu biết này là một đòi hỏi không thể thiếu trong công cuộc loan báo Tin mừng. Thật vậy, chính các gia đình trong thời đại chúng ta là nơi mà Hội thánh được mời gọi mang đến Tin mừng bất biến và luôn luôn mới mẻ của Đức Giêsu Kitô; và cũng chính các gia đình đang sống trong những điều kiện cụ thể của thế giới hôm nay là những người được mời gọi đón nhận và sống ý định của Thiên Chúa dành cho họ. Không chỉ thế, những lời khẩn nguyện và tiếng gọi của Thánh Thần cũng vang vọng trong chính các biến cố của lịch sử; và vì vậy, Hội thánh có thể được dẫn dắt đến một sự hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm vô tận của hôn nhân và gia đình, qua những hoàn cảnh, những vấn nạn, những thao thức và những hy vọng của người trẻ, các đôi bạn và các bậc cha mẹ hôm nay(x. Gaudium et Spes, 4).

Thêm vào đó là một suy tư nữa mang tầm quan trọng đặc biệt trong thời điểm hiện tại. Không hiếm khi người nam và người nữ ngày nay, trong cuộc tìm kiếm chân thành và sâu sắc một lời giải đáp cho những vấn đề thường nhật và hệ trọng của đời sống hôn nhân và gia đình, lại được đề nghị những quan điểm và giải pháp tuy hấp dẫn, nhưng ở mức độ khác nhau, làm tổn hại đến chân lý và phẩm giá của con người. Những đề nghị ấy thường được hậu thuẫn bởi một hệ thống truyền thông xã hội mạnh mẽ và rộng khắp, vốn tinh vi đe dọa đến tự do và khả năng phán đoán cách khách quan.

Nhiều người đã nhận thức rõ mối nguy hiểm mà nhân loại đang đối diện và đang dấn thân hành động vì sự thật. Hội thánh, với sự phân định theo Tin mừng, liên kết với họ, dâng hiến sự phục vụ của mình cho sự thật, cho tự do và cho phẩm giá của mỗi người nam và nữ.

Sự phân định theo Tin mừng

5. Sự phân định được Hội thánh thực hiện trở thành lời đề nghị mang tính định hướng đem lại ơn cứu thoát, đạt được chân lý toàn vẹn cũng như hôn nhân và gia đình có được phẩm giá viên mãn.

Việc phân định ấy được hoàn tất nhờ cảm thức đức tin (sensus fidei) (x. Lumen Gentium, 12), một ân huệ mà Thánh Thần ban cho tất cả các tín hữu (x. Ga 2,20); vì thế, đó là công trình của toàn thể Hội thánh, tùy theo sự đa dạng của các ân huệ và đặc sủng khác nhau, cùng nhau và theo trách nhiệm riêng của mỗi người, tất cả cùng cộng tác để đạt tới sự hiểu biết sâu xa hơn và việc thực thi Lời của Thiên Chúa.Do đó, Hội thánh không thực hiện sự phân định Tin mừng của mình chỉ qua các Mục tử – những người giảng dạy nhân danh và với quyền năng của Đức Kitô – mà còn qua giáo dân: Đức Kitô “làm cho họ trở thành chứng nhân của Người và ban cho họ cảm thức đức tin cùng ân sủng của Lời” (x. Cv 2,17–18; Kh 19,10), để sức mạnh của Tin mừng có thể tỏa sáng trong đời sống thường nhật, trong gia đình và trong xã hội (Lumen Gentium, 35).Thật vậy, chính nhờ ơn gọi đặc biệt của mình, giáo dân có sứ mạng riêng biệt là giải thích lịch sử của thế giới này dưới ánh sáng của Đức Kitô, bởi họ được mời gọi soi sáng và sắp đặt các thực tại trần thế theo dự phóng của Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc.

“Cảm thức siêu nhiên về đức tin” (sensus fidei supernaturalis) (x. Lumen Gentium, 12; Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Mysterium Ecclesiae, 2: AAS 65 [1973], tr. 398–400) không chỉ bao hàm, cũng không nhất thiết đồng nghĩa với sự đồng thuận của các tín hữu. Hội thánh, bước theo Đức Kitô, tìm kiếm chân lý – điều không phải lúc nào cũng trùng khớp với ý kiến của đa số. Hội thánh lắng nghe tiếng nói của lương tâm chứ không theo quyền lực, và chính trong điều này, Hội thánh bảo vệ người nghèo và những ai bị khinh miệt.Hội thánh cũng có thể trân trọng các nghiên cứu xã hội học và thống kê, khi chúng tỏ ra hữu ích trong việc nắm bắt bối cảnh lịch sử mà hoạt động mục vụ cần được thực hiện, và để hiểu biết sâu xa hơn về chân lý. Tuy nhiên, bản thân những nghiên cứu ấy không thể được xem là biểu hiện đầy đủ của cảm thức đức tin.

Bởi vì nhiệm vụ của thừa tác vụ tông đồ là bảo đảm cho Hội thánh luôn tồn tại trong chân lý của Đức Kitô và được dẫn sâu hơn vào trong chân lý ấy, các Mục tử phải cổ võ cảm thức đức tin nơi mọi tín hữu, thẩm định và xét đoán cách có thẩm quyền tính chân thực của những biểu hiện của cảm thức ấy, đồng thời giáo dục các tín hữu đạt tới một sự phân định Tin mừng ngày càng trưởng thành hơn (x. Lumen Gentium, 12; Dei Verbum, 10).

Để xây dựng một sự phân định theo Tin mừng đích thực trong những hoàn cảnh và nền văn hóa khác nhau, nơi người nam và người nữ sống đời sống hôn nhân và gia đình của mình, các đôi bạn và các bậc cha mẹ Kitô hữu có thể và phải đóng góp phần riêng biệt, không thể thay thế của mình. Chính đặc sủng hay ân huệ riêng của họ – là ân huệ của Bí tích Hôn phối – làm cho họ có khả năng thực hiện điều đó (x. Insegnamenti di Giovanni Paolo II, III, 2 [1980], tr. 735s).

Thực trạng đời sống gia đình trong thế giới hôm nay

6. Thực trạng của gia đình hiện nay bao gồm cả những khía cạnh tích cực lẫn tiêu cực: những khía cạnh tích cực là dấu chỉ của ơn cứu độ mà Đức Kitô đang thực hiện trong thế giới; còn những khía cạnh tiêu cực là dấu chỉ của sự khước từ mà con người đặt ra trước tình yêu của Thiên Chúa.

Thật vậy, một mặt, đang có một ý thức sống động hơn về tự do cá nhân, cùng với sự quan tâm ngày càng lớn đến phẩm chất của các mối tương quan trong đời sống hôn nhân, đến việc thăng tiến phẩm giá của người phụ nữ, đến việc sinh sản có trách nhiệm và việc giáo dục con cái. Đồng thời, cũng đang hình thành một ý thức về sự cần thiết phải phát triển các mối liên hệ giữa các gia đình để hỗ trợ nhau về mặt tinh thần và vật chất, tái khám phá sứ mạng Hội thánh gắn liền với gia đình, cũng như trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng một xã hội công bằng hơn.Mặt khác, cũng không thiếu những dấu hiệu đáng lo ngại về sự suy thoái của một số giá trị nền tảng: một quan niệm sai lầm – cả về lý thuyết lẫn thực hành – liên quan đến sự độc lập giữa vợ và chồng; sự mơ hồ nghiêm trọng trong mối tương quan quyền bính giữa cha mẹ và con cái; những khó khăn cụ thể mà gia đình thường gặp phải trong việc truyền đạt các giá trị; số vụ ly hôn ngày càng gia tăng; nỗi đau thương của nạn phá thai; việc sử dụng biện pháp triệt sản ngày càng phổ biến; và sự hình thành một não trạng tránh thai thực sự và rõ nét.

Gốc rễ của những hiện tượng tiêu cực này thường là sự lệch lạc trong ý niệm và kinh nghiệm về tự do, khi tự do không còn được hiểu là khả năng thực hiện chân lý trong ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, mà bị coi như một sức mạnh tự trị để khẳng định bản thân – không ít khi chống lại người khác – nhằm phục vụ cho lợi ích ích kỷ của chính mình.

Chúng ta cũng cần lưu tâm đến thực tế rằng, tại các quốc gia được gọi là Thế Giới Thứ Ba, các gia đình thường thiếu cả những phương tiện sinh tồn căn bản – như lương thực, việc làm, nhà ở, thuốc men – cũng như những quyền tự do tối thiểu nhất. Ngược lại, tại các quốc gia giàu có hơn, sự sung túc quá mức và não trạng tiêu thụ, một cách nghịch lý, lại gắn liền với nỗi lo âu và bất định về tương lai, khiến các đôi bạn mất đi lòng quảng đại và sự can đảm để đón nhận và khai mở sự sống mới: vì thế, sự sống thường không còn được nhìn nhận như một phúc lành, mà như một mối đe dọa cần phải phòng tránh.

Do đó, hoàn cảnh lịch sử mà gia đình đang sống hiện lên như một thực tại đan xen giữa ánh sáng và bóng tối.

Điều này cho thấy rằng lịch sử không đơn thuần là một tiến trình tất yếu hướng tới điều tốt đẹp hơn, nhưng là một biến cố của tự do – đúng hơn, là một cuộc chiến giữa những tự do đối kháng nhau. Theo cách diễn đạt nổi tiếng của thánh Augustinô, đó là một cuộc xung đột giữa hai tình yêu: tình yêu Thiên Chúa được đẩy đến mức khinh thường chính mình, và tình yêu bản thân được đẩy đến mức khinh thường Thiên Chúa (x. thánh Augustinô, De civitate Dei, XIV, 28: CSEL 40, II, tr. 25s).

Do đó, chỉ có việc giáo dục con người sống tình yêu được bén rễ trong đức tin mới có thể dẫn đến khả năng đọc và giải thích “các dấu chỉ của thời đại” – vốn là biểu hiện lịch sử của hai tình yêu đối nghịch nhau.

Hoàn cảnh hiện tại ảnh hưởngđến lương tâm tín hữu

7. Khi sống trong một thế giới như thế, dưới những áp lực – đặc biệt là từ các phương tiện truyền thông đại chúng – các tín hữu không phải lúc nào cũng đã biết và đang biết cách giữ mình khỏi bị ảnh hưởng bởi sự lu mờ của các giá trị nền tảng, cũng như đảm nhận vai trò như một lương tâm phê phán đối với nền văn hóa gia đình hiện nay và như những chủ thể tích cực trong việc xây dựng một nhân bản gia đình đích thực.

Trong số những dấu hiệu đáng lo ngại nhất của hiện tượng này, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đặc biệt nhấn mạnh đến sự lan rộng của tình trạng ly hôn và việc chính các tín hữu tìm đến một cuộc kết hợp mới; việc chấp nhận hôn nhân thuần túy dân sự – điều trái ngược với ơn gọi của người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội là “kết hôn trong Chúa”; việc cử hành Bí tích Hôn phối mà không có một đức tin sống động, nhưng vì những lý do khác; và sự từ chối các chuẩn mực luân lý vốn hướng dẫn và thăng tiến việc thực hành đời sống tính dục mang tính nhân bản và Kitô giáo trong hôn nhân.

Thời đại của chúng ta đang cần đến sự khôn ngoan

8. Vì thế, toàn thể Hội thánh được mời gọi đảm nhận một nhiệm vụ suy tư sâu xa và dấn thân mạnh mẽ, để nền văn hóa mới đang hình thành được thấm nhuần Tin mừng cách mật thiết, các giá trị chân thực được công nhận, các quyền của người nam và người nữ được bảo vệ, và công lý được thăng tiến ngay trong chính các cơ cấu của xã hội. Như thế, “chủ nghĩa nhân bản mới”sẽ không làm con người xa rời mối tương quan với Thiên Chúa, nhưng sẽ dẫn họ đến với Người cách trọn vẹn hơn.

Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa nhân bản này, khoa học và các ứng dụng kỹ thuật của nó mở ra những khả năng mới mẻ và to lớn. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng từ những chọn lựa chính trị vốn định hướng hoạt động nghiên cứu và ứng dụng, khoa học thường bị sử dụng lệch khỏi ý nghĩa nguyên thủy của mình: đó là việc thăng tiến con người.

Do đó, điều cần thiết là mọi người phải phục hồi ý thức về tính ưu việt của các giá trị luân lý – những giá trị vốn thuộc về nhân vị con người như chính họViệc tái khám phá ý nghĩa tối hậu của cuộc sống và các giá trị nền tảng của nó là một nhiệm vụ lớn lao được đặt ra cho công cuộc canh tân xã hội hôm nay. Chỉ khi ý thức được tính ưu việt của những giá trị ấy, con người mới có thể sử dụng cách đúng đắn những khả năng bao la mà khoa học đã đặt vào tay mình – những khả năng thực sự nhằm phục vụ cho việc thăng tiến nhân vị trong toàn bộ chân lý, tự do và phẩm giá của họ. Khoa học được mời gọi liên kết với sự khôn ngoan.

Do đó, những lời của Công đồng Vaticanô II cũng có thể được áp dụng cho các vấn đề của gia đình: “Thời đại của chúng ta, hơn cả các thế kỷ trước, đang cần đến sự khôn ngoan này, để tất cả những khám phá mới của nó trở nên nhân bản hơn. Thật vậy, tương lai của thế giới đang bị đe dọa, nếu không có những con người khôn ngoan hơn được khơi dậy” (Gaudium et Spes, số 15).

Việc giáo dục lương tâm luân lý – giúp con người biết nhận định, phân định và chọn lựa cách sống phù hợp với chân lý nguyên thủy nơi họ – vì thế trở thành một nhiệm vụ cấp thiết và không thể bỏ qua.

Chính giao ước với Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa cần được tái lập một cách sâu sắc hơn trong nền văn hóa ngày nay. Mỗi con người được thông phần vào Sự Khôn Ngoan ấy ngay từ chính hành động sáng tạo của Thiên Chúa. Và chỉ trong lòng chung thủy với giao ước này, các gia đình hôm nay mới có thể thực sự góp phần tích cực vào việc xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn.

Tính tiệm tiến và sự hoán cải

9. Tất cả chúng ta phải chống lại sự bất công bắt nguồn từ tội lỗi – vốn đã thâm nhập sâu vào nhiều cơ cấu của thế giới ngày nay – và thường gây trở ngại cho gia đình trong việc sống trọn vẹn theo đúng phẩm giá và thực thi các quyền căn bản của mình. Đáp lại, chúng ta cần một sự hoán cải của tâm trí và con tim, theo gương Đức Kitô chịu đóng đinh, trong việc từ bỏ chính lòng ích kỷ của mình. Một sự hoán cải như thế chắc chắn sẽ mang lại ảnh hưởng tích cực và đổi mới cho cả các cơ cấu của xã hội.

Điều cần thiết là một sự hoán cải liên lỉ và bền vững: tuy đòi hỏi sự gỡ bỏ khỏi nội tâm mọi điều xấu xa và gắn bó với điều thiện trong sự viên mãn của nó, nhưng lại được thực hiện cách cụ thể qua những bước tiến không ngừng, luôn hướng tới những giá trị cao thượng hơn. Từ đó hình thành một tiến trình sống động, phát triển từng bước với sự hội nhập ngày càng sâu sắc các ân huệ của Thiên Chúa và những đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối và dứt khoát của Người vào toàn bộ đời sống cá nhân và xã hội của con người. Vì thế, cần có một lộ trình sư phạm để tăng trưởng, nhờ đó từng tín hữu, các gia đình, các cộng đoàn dân tộc – và thực sự là cả nền văn minh – được kiên nhẫn dẫn dắt từ những gì họ đã đón nhận nơi Mầu nhiệm Đức Kitô, tiến đến một sự hiểu biết sâu xa hơn và một sự hội nhập trọn vẹn hơn của Mầu nhiệm ấy vào đời sống của họ.

Hội nhập văn hóa

10. Việc đón nhận từ các nền văn hóa những gì có thể diễn tả cách tốt nhất sự phong phú vô tận của Đức Kitô là điều phù hợp với truyền thống không gián đoạncủa Hội thánh (x. Ep 3,8; Gaudium et Spes, số 15 và 22). Chỉ với sự đóng góp của mọi nền văn hóa, những phong phú ấy mới ngày càng được tỏ hiện rõ hơn, và Hội thánh mới có thể tiến bước trong hành trình đạt tới sự hiểu biết ngày càng đầy đủ và sâu xa hơn về chân lý mà Chúa đã ban trọn vẹn cho mình.

Giữ vững nguyên tắc kép: sự tương hợp với Tin mừng của các nền văn hóa được đón nhận và sự hiệp thông với Hội thánh hoàn vũ, việc nghiên cứu cần được tiếp tục – đặc biệt từ phía các Hội đồng Giám mục và các cơ quan hữu trách của Giáo triều Rôma – cùng với sự dấn thân mục vụ, để việc “hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo ngày càng được thực hiện cách sâu rộng hơn, kể cả trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.

Chính nhờ việc hội nhập văn hóa mà chúng ta tiến bước tới việc tái lập trọn vẹn giao ước với Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, Đấng là chính Đức Kitô. Hội thánhtoàn thể cũng sẽ được phong phú nhờ những nền văn hóa – tuy thiếu vắng công nghệ – nhưng lại chất chứa sự khôn ngoan nhân loại và thấm nhuần những giá trị luân lý sâu sắc.

Để mục tiêu của lộ trình này được sáng tỏ và nhờ đó con đường tiến bước được xác định cách chắc chắn, Thượng Hội Đồng trước hết đã suy xét cách đúng đắn và sâu xa ý định nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình. Thượng Hội Đồng đã muốn “trở về thuở ban đầu”, trong tinh thần vâng phục giáo huấn của Đức Kitô (x. Mt 19,4tt).

PHẦN HAI – Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu

11. Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và họa ảnh của  Ngài (x. St 1,26tt): khi gọi con người vào hiện hữu vì tình yêu, Ngài đồng thời cũng kêu gọi họ sống trong tình yêu.

Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,8), và nơi chính bản thân Ngài, Ngài sống một mầu nhiệm hiệp thông tình yêu giữa các Ngôi Vị. Khi tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài và không ngừng gìn giữ họ trong hiện hữu, Thiên Chúa đã khắc ghi vào nhân tính của người nam và người nữ một ơn gọi – và do đó, cả khả năng lẫn trách nhiệm – đối với tình yêu và sự hiệp thông (x.Gaudium et Spes, 12). Vì thế, tình yêu là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi con người.

Là một linh hồn nhập thể– nghĩa là một linh hồn biểu lộ qua thân xác, và một thân xác được linh hoạt bởi một linh hồn bất tử – con người được mời gọi sống tình yêu trong sự hiệp nhất toàn diện của chính bản thể mình. Tình yêu bao gồm cả thân xác con người, và thân xác được mời gọi tham dự vào tình yêu thiêng liêng.

Mạc khải Kitô giáo nhận biết hai cách cụ thể để thực hiện ơn gọi của con người – trong toàn thể hiện hữu của họ – đối với tình yêu: Hôn nhân và đức trinh khiết. Cả hai, trong hình thức riêng của mình, đều là sự cụ thể hóa chân lý sâu xa nhất về con người: “con người là hình ảnh của Thiên Chúa”.

Do đó, tính dục – qua đó người nam và người nữ trao ban chính mình cho nhau bằng những hành vi riêng biệt và độc hữu của bậc vợ chồng – hoàn toàn không phải là điều thuần túy sinh học, nhưng liên quan đến cốt lõi sâu kín của nhân vị con người đúng nghĩa. Tính dục chỉ được thực hiện cách thực sự nhân bản nếu nó là phần không thể tách rời của tình yêu, trong đó người nam và người nữ dấn thân trọn vẹn cho nhau đến mãn đời. Việc trao hiến trọn vẹn về thể xác sẽ là một sự dối trá nếu nó không phải là dấu chỉ và hoa trái của sự trao hiến trọn vẹn về nhân vị, trong đó toàn thể con người – kể cả trong chiều kích trần thế của mình – hiện diện. Nếu một người giữ lại điều gì đó cho riêng mình, hoặc giữ lại khả năng chọn lựa khác cho tương lai, thì chỉ vì lý do đó, người ấy đã không thực sự tự hiến cách trọn vẹn.

Sự toàn vẹn này, vốn là điều tình yêu vợ chồng đòi hỏi, cũng đáp ứng những yêu cầu của một sự sinh sản có trách nhiệm. Bởi vì việc sinh ra một con người không chỉ thuộc về trật tự sinh học, mà theo bản chất, vượt lên trên nó và bao hàm một tổng thể các giá trị nhân vị. Để những giá trị ấy có thể lớn lên cách hài hòa, thì sự đóng góp bền bỉ và đồng thuận của cả cha lẫn mẹ là điều không thể thiếu.

“Nơi chốn” duy nhất làm cho việc trao hiến này có thể được thực hiện theo toàn bộ chân lý của nó chính là hôn nhân – tức là giao ước tình yêu vợ chồng, một chọn lựa có ý thức và tự do, qua đó người nam và người nữ đón nhận sự hiệp thông thân mật của sự sống và tình yêu, vốn được chính Thiên Chúa thiết lập (x. Gaudium et Spes,số 48). Chỉ trong ánh sáng này, hôn nhân mới biểu lộ ý nghĩa đích thực của mình.Thể chế hôn nhân không phải là sự can thiệp bất chính của xã hội hay chính quyền, cũng không phải là sự áp đặt bên ngoài của một hình thức, nhưng là một đòi hỏi nội tâm phát xuất từ giao ước tình yêu vợ chồng, được công khai khẳng định là duy nhất và độc hữu, để có thể sống trọn vẹn lòng chung thủy với ý định của Thiên Chúa Tạo Hóa.lòng chung thủy ấy, thay vì làm tổn hại đến tự do của con người, lại bảo vệ con người khỏi mọi chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa tương đối, đồng thời làm cho con người trở thành người tham dự vào Sự Khôn Ngoan Sáng Tạo của Thiên Chúa.

Hôn nhân và sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con người

12. Sự hiệp thông tình yêu giữa Thiên Chúa và con người – vốn là nội dung nền tảng của Mạc khải và của kinh nghiệm đức tin của Israel – được diễn tả cách đầy ý nghĩa nơi giao ước hôn nhân được thiết lập giữa người nam và người nữ.

Chính vì thế, lời trung tâm của Mạc khải – “Thiên Chúa yêu thương dân Người” – cũng được thốt lên qua những lời sống động và cụ thể mà người nam và người nữ dùng để diễn tả tình yêu phu thê dành cho nhau. Mối liên kết tình yêu của họ trở thành hình ảnh và biểu tượng của Giao ước kết hợp giữa Thiên Chúa và dân Người (x. Hs 2,21; Gr 3,6–13; Is 54).Và chính tội lỗi, vốn có thể làm tổn thương giao ước phu thê, lại trở thành hình ảnh của sự bất trung của dân đối với Thiên Chúa: thờ ngẫu tượng và mại dâm (x. Ed 16,25), ngoại tình là biểu hiện của sự phản bội, không tuân giữ Lề Luật và từ bỏ tình yêu giao ước của Đức Chúa.Tuy nhiên, sự bất trung của Israel không thể phá hủy lòng chung thủy vĩnh cửu của Thiên Chúa; vì thế, tình yêu luôn trung thành của Thiên Chúa trở thành mẫu gương cho các mối tương quan yêu thương trung tín mà các đôi vợ chồng được mời gọi sống (x. Hs 3).

Tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh được diễn tả nơi Bí tích Hôn phối

13. Sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người đạt đến sự hoàn tất trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô, Phu Quân yêu thương và hiến mình làm Đấng Cứu Độ của nhân loại, kết hợp nhân loại với chính Người trong tư cách là thân thể của Người.

Người mạc khải sự thật nguyên thủy của hôn nhân – sự thật của “thuở ban đầu” (x. St 2,24; Mt 19,5) – và, bằng cách giải thoát con người khỏi sự cứng lòng, làm cho con người có khả năng thực hiện trọn vẹn sự thật ấy.

Mạc khải này đạt đến sự viên mãn trọn vẹn nơi ơn ban tình yêu mà Ngôi Lời Thiên Chúa trao ban cho nhân loại khi mặc lấy bản tính nhân loại, và nơi hy tế mà Đức Giêsu Kitô hiến dâng chính mình trên Thập giá vì Hiền thê của Người là Hội thánh. Trong hy tế ấy, ý định mà Thiên Chúa đã khắc ghi vào nhân tính của người nam và người nữ ngay từ lúc tạo dựng được tỏ lộ cách trọn vẹn (x. Ep 5,32tt); vì thế, hôn nhân của những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội trở thành biểu tượng thực sự của Giao ước mới và vĩnh cửu, được thiết lập trong máu Đức Kitô. Thánh Thần, Đấng mà Chúa tuôn đổ, ban cho con người một trái tim mới và làm cho người nam và người nữ có khả năng yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta. Tình yêu phu thê đạt đến sự viên mãn mà nó được hướng tới từ bên trong: đó chính là đức ái phu thê – cách thế riêng biệt và cụ thể mà các đôi bạn được mời gọi tham dự và sống chính lòng bác ái của Đức Kitô, Đấng đã hiến mình trên Thập giá.

Trong một đoạn văn nổi tiếng xứng đáng được ghi nhớ, Tertullian đã diễn tả cách sâu sắc sự cao cả và vẻ đẹp của đời sống hôn nhân trong Đức Kitô: “Làm sao chúng ta có thể mô tả được niềm hạnh phúc của cuộc hôn nhân được Hội thánh nối kết, được hy lễ củng cố, được lời chúc lành đóng ấn, được các Thiên thần công bố và được Cha trên trời chuẩn nhận? Có đôi bạn nào sánh bằng đôi bạn tín hữu, được kết hợp bởi cùng một niềm hy vọng, cùng một ước nguyện, cùng một kỷ luật, cùng một công việc phục vụ? Cả hai là anh em con một Cha, là đồng phục vụ cho một Chủ; không bị phân rẽ trong tinh thần cũng như trong xác thịt. Thật sự là hai trong một xác thịt. Ở đâu xác thịt nên một, thì tinh thần cũng nên một”(Tertullian, Ad uxorem, II, VIII, 6–8: CCL I, 393).

Bằng việc trung thành đón nhận và suy niệm Lời của Thiên Chúa, Hội thánh đã long trọng giảng dạy và vẫn tiếp tục giảng dạy rằng hôn nhân giữa những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội là một trong bảy Bí tích của Giao ước Mới (x. Conc. Ecum. Trident., Sessio XXIV, can. 1: I. D. Mansi, Sacrorum Conciliorum Nova et Amplissima Collectio, 33, 149s).

Thật vậy, nhờ Bí tích Rửa Tội, người nam và người nữ được đưa vào cách vĩnh viễn trong Giao ước Mới và Vĩnh Cửu – tức là Giao ước phu thê giữa Đức Kitô và Hội thánh. Chính nhờ sự kết hợp bất khả phân ly này mà cộng đoàn thân mật của đời sống và tình yêu phu thê, được thiết lập bởi Đấng Tạo Hóa (x. Gaudium et Spes,số 48), được nâng cao và được đưa vào trong lòng bác ái phu thê của Đức Kitô, được nâng đỡ và làm phong phú bởi quyền năng cứu chuộc của Người.

Nhờ tính bí tích của hôn nhân, đôi bạn được gắn kết với nhau cách sâu xa và bất khả phân ly. Sự thuộc về lẫn nhau của họ là một biểu hiện thực sự, qua dấu chỉ bí tích, về chính mối tương quan giữa Đức Kitô và Hội thánh.

Do đó, đôi bạn trở thành lời nhắc nhở thường hằng cho Hội thánh về những gì đã xảy ra trên Thập giá; nhờ Bí tích Hôn phối mà họ được tham dự, họ là chứng nhân của ơn cứu độ – cho nhau và cho con cái. Hôn nhân, cũng như mọi Bí tích, là một lễ tưởng niệm, một sự hiện tại hóa và một lời tiên tri về biến cố cứu độ này: “Là một lễ tưởng niệm, Bí tích ban cho họ ân sủng và bổn phận để ghi nhớ các công trình vĩ đại của Thiên Chúa và làm chứng về những công trình ấy trước mặt con cái họ; là một sự hiện tại hóa, Bí tích ban cho họ ân sủng và bổn phận để thực thi trong hiện tại – đối với nhau và đối với con cái – những đòi hỏi của một tình yêu biết tha thứ và cứu chuộc; là một lời tiên tri, Bí tích ban cho họ ân sủng và bổn phận để sống và làm chứng cho niềm hy vọng về cuộc gặp gỡ trong tương lai với Đức Kitô.” (Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn với các đại biểu của Centre de Liaison des Équipes de Recherche, ngày 3/11/1979, Insegnamenti di Giovanni Paolo II, II, 2 [1979], tr. 1032).

Giống như mỗi Bí tích trong bảy Bí tích, hôn nhân cũng là một biểu tượng thực sự của biến cố cứu độ, nhưng theo cách thế riêng của nó. “Đôi bạn tham dự vào biến cố ấy trong tư cách là vợ chồng, là hai người trong tư cách đôi bạn, đến mức hiệu quả đầu tiên và trực tiếp của Bí tích Hôn phối (res et sacramentum) không phải là chính ân sủng siêu nhiên, nhưng là mối liên kết phu thê Kitô giáo – một sự hiệp thông của hai người, mang tính Kitô giáo điển hình – vì nó diễn tả mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô và mầu nhiệm Giao ước của Người. Nội dung của việc tham dự vào đời sống của Đức Kitô cũng rất cụ thể: tình yêu phu thê bao hàm một sự toàn vẹn, trong đó mọi chiều kích của nhân vị đều được đưa vào – tiếng gọi của thân xác và bản năng, sức mạnh của cảm xúc và tình cảm, khát vọng của tinh thần và ý chí. Tình yêu ấy hướng đến một sự hiệp nhất sâu xa mang tính cá vị, một sự hiệp nhất vượt lên trên sự kết hợp trong một thân xác, để đạt tới một trái tim duy nhất và một linh hồn duy nhất. Tình yêu ấy đòi hỏi sự bất khả phân ly và trung thành trong việc tự hiến cho nhau cách dứt khoát, đồng thời mở ra cho sự phong nhiêu (x. Phaolô VI, Humanae Vitae, số 9). Tóm lại, đây là những đặc điểm vốn có của mọi tình yêu phu thê tự nhiên, nhưng với một ý nghĩa mới: không chỉ thanh luyện và củng cố chúng, mà còn nâng chúng lên đến mức trở thành biểu hiện của các giá trị Kitô giáo đích thực.” (Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn với các đại biểu của Centre de Liaison des Équipes de Recherche, 4 [3/11/1979], Insegnamenti di Giovanni Paolo II, II, 2 [1979], tr. 1032).

Con cái, hồng ân quý giá của hôn nhân

14. Theo dự phóng của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng của cộng đoàn rộng lớn hơn là gia đình, bởi chính thể chế hôn nhân và tình yêu phu thê được định hướng đến việc sinh sản và giáo dục con cái – chính trong đó, thể chế và tình yêu ấy đạt đến sự viên mãn của mình (x. Gaudium et Spes,số 50).

Trong thực tại sâu xa nhất của mình, tình yêu vốn là một sự trao ban. Tình yêu phu thê, trong khi dẫn đưa đôi bạn đến sự “biết” nhau – làm cho họ trở thành “một xương một thịt” (x. St 2,24) – không khép kín nơi chính họ, nhưng mở ra cho khả năng trao hiến lớn nhất: nhờ đó, họ trở thành những cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc trao ban sự sống cho một nhân vị mới. Như thế, khi tự hiến cho nhau, đôi bạn cũng trao ban vượt lên chính mình qua thực tại của người con – một phản ánh sống động của tình yêu họ dành cho nhau, một dấu chỉ vĩnh viễn của sự hiệp nhất phu thê, và một tổng hợp sống động, không thể tách rời, của chính căn tính làm cha và làm mẹ của họ.

Bằng việc trở thành cha mẹ, đôi bạn lãnh nhận từ Thiên Chúa hồng ân của một trách nhiệm mới. Tình yêu làm cha mẹ của họ được mời gọi trở thànhdấu chỉ hữu hình của chính tình yêu Thiên Chúa đối với con cái– “từ Đấng mà mọi cương vị làm cha trên trời và dưới đất đều được xưng tên” (Ep 3,15).

Tuy nhiên, không được quên rằng ngay cả khi không thể thực hiện được việc sinh sản, đời sống phu thê vẫn không vì thế mà mất đi giá trị của nó. Thật vậy, tình trạng vô sinh thể lý có thể trở thành cơ hội để đôi bạn thực hiện những hình thức phục vụ quan trọng khác cho đời sống của nhân vị con người, chẳng hạn như nhận con nuôi, tham gia các hoạt động giáo dục, hỗ trợ các gia đình khác, hoặc chăm sóc trẻ em nghèo khổ và khuyết tật.

Gia đình, sự hiệp thông của nhân vị

15. Một tổng thể các mối tương quan liên vị được hình thành trong hôn nhân và gia đình – tình nghĩa phu thê, tình phụ tử và mẫu tử, tình con thảo, tình huynh đệ – qua đó mỗi nhân vị được dẫn vào “gia đình nhân loại” và “gia đình của Thiên Chúa”, tức là Hội thánh.

Hôn nhân và gia đình Kitô giáo xây dựng Hội thánh. Thật vậy, trong gia đình, nhân vị con người không chỉ được sinh ra và từng bước được dẫn vào cộng đồng nhân loại qua việc giáo dục, mà còn được dẫn vào gia đình của Thiên Chúa – tức là Hội thánh – nhờ việc tái sinh trong bí tích Rửa Tội và việc giáo dục đức tin.

Gia đình nhân loại, vốn bị tội lỗi làm tan vỡ, được phục hồi trong sự hiệp nhất của mình nhờ quyền năng cứu chuộc từ cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô (x. Gaudium et Spes,số 78). Nhờ tham dự vào hiệu năng cứu độ của biến cố ấy, hôn nhân Kitô giáo trở thành môi trường tự nhiên để nhân vị được hội nhập vào đại gia đình của Hội thánh.

Mệnh lệnh “hãy sinh sôi nảy nở”, được Thiên Chúa trao ban cho người nam và người nữ ngay từ khởi đầu, nhờ đó đạt đến toàn bộ chân lý và sự thực hiện trọn vẹn của mình.

Do đó, Hội thánh tìm thấy nơi gia đình – vốn được khai sinh từ bí tích – cái nôi của mình và môi trường tự nhiên để thực hiện việc hội nhập vào các thế hệ nhân loại; và các thế hệ ấy, cách tương hỗ, cũng được hội nhập vào Hội thánh.

Hôn nhân và đức trinh khiết

16. Đức trinh khiết và đời sống độc thân vì Nước Thiên Chúa không những không mâu thuẫn với phẩm giá của hôn nhân, mà còn giả định và xác nhận phẩm giá ấy. Hôn nhân và đức trinh khiết là hai cách thế để diễn tả và sống Mầu nhiệm Giao ước duy nhất giữa Thiên Chúa và dân Người. Khi hôn nhân không được trân trọng, thì đức trinh khiết thánh hiến cũng không thể tồn tại; và khi tính dục của con người không còn được nhìn nhận như một giá trị cao quý do Đấng Tạo Hóa ban tặng, thì việc từ bỏ nó vì Nước Trời cũng đánh mất ý nghĩa của mình.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói rất đúng: “Ai lên án hôn nhân thì cũng tước mất vinh quang của đức trinh khiết; ai ca ngợi hôn nhân thì làm cho đức trinh khiết trở nên đáng khâm phục và rực rỡ hơn. Thật vậy, điều gì chỉ được xem là tốt khi đem so sánh với điều xấu thì không thực sự là một thiện hảo lớn; còn điều gì tốt hơn những điều vốn được mọi người công nhận là tốt, thì chắc chắn đó là một thiện hảo tuyệt hảo” (Thánh Gioan Kim Khẩu, Đức Trinh Khiết, X: PG 48,540)

Nơi đức trinh khiết, con người sống trong sự chờ đợi – ngay cả nơi thân xác mình – cuộc hôn nhân cánh chung giữa Đức Kitô và Hội thánh, bằng cách tự hiến hoàn toàn cho Hội thánh trong niềm hy vọng rằng Đức Kitô cũng sẽ trao hiến chính mình Người cho Hội thánh trong chân lý viên mãn của sự sống vĩnh cửu. Như thế, người sống đời trinh khiết tiên báo trong thân xác mình thế giới mới mẻ của sự phục sinh mai hậu (x. Mt 22,30).

Nhờ chứng tá này, đức trinh khiết giữ cho Hội thánh luôn sống động ý thức về mầu nhiệm hôn nhân, và bảo vệ mầu nhiệm ấy khỏi mọi sự giản lược và nghèo nàn hóa.

Bằng cách giải phóng cách đặc biệt trái tim con người (x. 1Cr 7,32–35), “để nó được bừng cháy hơn nữa trong đức ái đối với Thiên Chúa và với mọi người” (Perfectae Caritatis, 12), đức trinh khiết làm chứng rằng Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người chính là viên ngọc quý giá, cần được ưu tiên hơn bất cứ giá trị nào khác, dù cao cả đến đâu, và thực sự phải được tìm kiếm như là giá trị tối hậu duy nhất. Chính vì mối liên hệ hoàn toàn độc đáo của đặc sủng này với Nước Thiên Chúa mà Hội thánh, trong suốt lịch sử của mình, luôn bảo vệ tính trổi vượt của đặc sủng ấy so với đặc sủng hôn nhân (x. Piô XII, Sacra Virginitas, II: AAS 46 [1954], tr. 174tt).

Mặc dù đã từ bỏ khả năng sinh sản thể lý, người sống đời trinh khiết lại trở nên phong nhiêu cách thiêng liêng, trở thành cha và mẹ của nhiều người, cộng tác vào việc hiện thực hóa gia đình theo ý định của Thiên Chúa.

Do đó, các đôi bạn Kitô hữu có quyền mong đợi nơi những người sống đời trinh khiết một gương sáng và một chứng tá trung thành với ơn gọi của họ cho đến mãn đời. Cũng như đối với các đôi bạn, sự trung tín đôi khi trở nên khó khăn và đòi hỏi hy sinh, khổ chế và từ bỏ bản thân, thì điều đó cũng có thể xảy ra nơi những người sống đời trinh khiết. lòng chung thủy của họ, ngay cả trong thử thách, phải là nguồn nâng đỡ và xây dựng sự trung tín nơi các đôi bạn (x. Đức Gioan Phaolô II, Tông thư Novo Incipiente, số 9 [8.4.1979]: AAS 71 [1979], tr. 410tt).

Những suy tư này về đức trinh khiết có thể soi sáng và nâng đỡ những ai, vì những lý do vượt ngoài ý muốn của họ, đã không thể kết hôn và rồi đã đón nhận hoàn cảnh của mình trong tinh thần phục vụ.

PHẦN THỨ BA – NHỮNG BỔN PHẬN CỦA GIA ĐÌNH KITÔ HỮU

Hỡi gia đình, hãy trở nên chính mình!

17. Trong ý định của Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và Đấng Cứu Chuộc, gia đình khám phá không chỉ “căn tính” của mình – điều gia đình “là” – mà còn cả “sứ mạng” của mình – điều gia đình có thể và phải “thực hiện”. Những bổn phận mà gia đình được Thiên Chúa mời gọi chu toàn trong dòng lịch sử phát xuất từ chính hữu thể của gia đình và là sự triển nở năng động, hiện sinh của chính hữu thể ấy. Mỗi gia đình khám phá và nhận thấy nơi chính mình một lời mời gọi không thể dập tắt, lời mời gọi ấy đồng thời xác định phẩm giá và trách nhiệm của mình: Hỡi gia đình, “hãy trở nên” điều mà ngươi “là”!

Việc trở về với “thuở ban đầu” của hành vi sáng tạo của Thiên Chúa là điều thiết yếu đối với gia đình, nếu gia đình muốn hiểu biết chính mình và thể hiện chính mình theo chân lý sâu xa nằm trong bản thể– không chỉ về căn tính hiện hữu mà còn về hành động của mình trong lịch sử. Và bởi vì, theo ý định của Thiên Chúa, gia đình được thiết lập như một “cộng đoàn thân mật của sự sống và tình yêu” (x. Gaudium et Spes,số 48), nên gia đình mang lấy sứ mạng phải ngày càng trở nên chính mình, nghĩa là trở thành cộng đoàn của sự sống và tình yêu – trong một chuyển động nội tại, như mọi thực tại được sáng tạo và cứu chuộc, sẽ được hoàn tất trong Nước Thiên Chúa.Trong một viễn cảnh chạm đến tận gốc rễ của thực tại, cần phải khẳng định rằng yếu tính và các bổn phận của gia đình rốt cuộc được xác định bởi tình yêu. Chính vì thế, gia đình lãnh nhận sứ mạng gìn giữ, mạc khải và truyền đạt tình yêu – như một phản ánh sống động và một sự tham dự thực sự vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, và tình yêu của Đức Kitô, Chúa chúng ta, dành cho Hội thánh là Hiền thê của Người.

Mỗi bổn phận cụ thể của gia đình đều là sự diễn tả và hiện thực hóa cụ thể sứ mạng nền tảng ấy. Do đó, cần phải đi sâu hơn vào sự phong phú đặc thù của sứ mạng gia đình và khám phá những nội dung vừa đa dạng vừa thống nhất của sứ mạng ấy.

Theo nghĩa này, khởi đi từ tình yêu và luôn quy chiếu về tình yêu, Thượng Hội đồng Giám mục gần đây đã làm nổi bật bốn bổn phận chung của gia đình:

1) Đào luyện một cộng đoàn các ngôi vị;

2) Phục vụ sự sống;

3) Tham gia vào việc phát triển xã hội;

4) Tham gia vào đời sống và sứ mạng của Hội thánh

I. ĐÀO LUYỆN MỘT CỘNG ĐOÀN CÁC NGÔI VỊ

Tình yêu: nguyên lý và sức mạnh của sự hiệp thông

18. Gia đình, được thiết lập và được sinh động bởi tình yêu, là một cộng đoàn các ngôi vị gồm: đôi bạn là người nam và người nữ, cha mẹ và con cái, thân bằng quyến thuộc. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông, bằng một nỗ lực không ngừng nhằm xây dựng một cộng đoàn đích thực gồm các ngôi vị.

Tình yêu là nền tảng thâm sâu, là sức mạnh bền bỉ và là mục tiêu cuối cùng của sứ mạng này. Không có tình yêu, gia đình không thể trở thành một cộng đoàn nhân vị – tức là cộng đoàn của những con người sống với nhau trong yêu thương và tôn trọng. Cũng vậy, nếu thiếu tình yêu, gia đình không thể sống, không thể lớn lên và không thể tự hoàn thiện trong tư cách là một cộng đoàn nhân vị. Điều tôi đã viết trong Thông điệp Redemptor Hominis (Đấng Cứu Chuộc Con Người) được áp dụng cách đặc biệt và ưu tiên nơi gia đình:“Con người không thể sống mà không có tình yêu. Nếu không được tình yêu mạc khải, không gặp gỡ tình yêu, không cảm nghiệm và đón nhận tình yêu ấy như của riêng mình, nếu không thực sự tham dự cách sống động vào tình yêu ấy, thì con người vẫn là một hữu thể không thể hiểu được chính mình, và cuộc sống của họ trở nên vô nghĩa” (số 10).

Tình yêu giữa người nam và người nữ trong hôn nhân – và, trong một hình thức mở rộng và phát sinh từ đó, tình yêu giữa các thành viên trong cùng một gia đình: giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em, giữa thân bằng quyến thuộc – được linh hoạt và thúc đẩy bởi một sức sống nội tâm sâu xa và bền bỉ. Chính sức sống ấy dẫn đưa gia đình đến một sự hiệp thông ngày càng sâu đậm và phong phú hơn, vốn là nền tảng và linh hồn của cộng đoàn hôn nhân và gia đình.

Tính hiệp nhất bất khả phân ly trong tình hiệp thông vợ chồng

19. Sự hiệp thông đầu tiên chính là sự hiệp thông được thiết lập và triển nở giữa đôi bạn: nhờ giao ước tình yêu hôn nhân, người nam và người nữ “không còn là hai, nhưng là một xương một thịt” (Mt 19,6; x. St 2,24), và được mời gọi không ngừng lớn lên trong tình hiệp thông ấy qua sự trung tín mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân – là việc trao hiến trọn vẹn cho nhau.

Tình hiệp thông vợ chồng này bắt nguồn từ sự bổ túc tự nhiên giữa người nam và người nữ, và được nuôi dưỡng bởi ý chí cá nhân của đôi bạn muốn chia sẻ trọn vẹn dự phóng cuộc đời – những gì họ có và chính con người họ. Vì thế, tình hiệp thông ấy là hoa trái và là dấu chỉ của một đòi hỏi sâu xa mang tính nhân loại. Nhưng trong Đức Kitô, Thiên Chúa đón nhận đòi hỏi ấy, xác nhận, thanh luyện và nâng nó lên, đưa đến sự hoàn thiện qua Bí tích Hôn phối. Chúa Thánh Thần, được tuôn đổ trong việc cử hành bí tích, ban cho đôi bạn Kitô hữu ân huệ của một tình hiệp thông mới mẻ trong tình yêu – là hình ảnh sống động và thực sự của sự hiệp nhất độc đáo, vốn làm cho Hội thánh trở thành Thân Thể Mầu Nhiệm bất khả phân của Chúa Giêsu.

Ân huệ của Chúa Thánh Thần là luật sống dành cho các đôi bạn Kitô hữu, đồng thời là một động lực thúc đẩy họ mỗi ngày tiến tới hiệp nhất ngày càng phong phú hơn trên mọi bình diện: thân xác, tính cách, trái tim, trí tuệ, ý chí và linh hồn (x. Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn với các đôi bạn, số 4 [Kinshasa, 3/5/1980]: AAS 72 [1980], tr. 426tt). Nhờ đó, họ mạc khải cho Hội thánh và cho thế giới một tình hiệp thông mới trong tình yêu, được ban tặng bởi ân sủng của Đức Kitô.

Một tình hiệp thông như thế bị phủ nhận tận căn bởi chế độ đa thê: thực vậy, đa thê trực tiếp phủ nhận ý định của Thiên Chúa như đã được mạc khải từ thuở ban đầu, vì nó đi ngược lại phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa người nam và người nữ – những người, trong hôn nhân, tự trao hiến cho nhau bằng một tình yêu trọn vẹn, và vì thế, là một tình yêu duy nhất và dành riêng. Như Công đồng Vaticanô II đã viết: “Sự hiệp nhất của hôn nhân, được Chúa xác nhận, cũng hiển hiện cách rõ ràng nơi phẩm giá cá nhân bình đẳng của cả người nam và người nữ – một phẩm giá cần được nhìn nhận trong tình yêu hỗ tương và viên mãn” (x. Gaudium et Spes,số 49; x. Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn với các đôi bạn, số 4 [Kinshasa, 3.5.1980]; l.c.).

Một sự hiệp thông bất khả phân ly

20. Sự hiệp thông vợ chồng không chỉ mang đặc tính hiệp nhất nên một, mà còn mang tính bất khả phân ly: “Sự kết hợp mật thiết này – như một sự trao hiến lẫn nhau giữa hai con người, cũng như vì lợi ích của con cái – đòi hỏi sự trung tín trọn vẹn của đôi bạn và đòi buộc nơi họ một sự hiệp nhất bất khả phân ly” (x. Gaudium et Spes, số 48).

Hội thánh có một nhiệm vụ chủ yếu – như các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã thực hiện – là mạnh mẽ tái khẳng định giáo huấn về tính bất khả phân ly của hôn nhân. Đối với những người ngày nay cho rằng việc gắn bó trọn đời với một người là điều khó khăn, thậm chí không thể, và đối với những ai đang bị cuốn theo một nền văn hóa phủ nhận tính bất khả phân ly của hôn nhân, công khai chế giễu sự cam kết trung thành của đôi bạn, thì cần phải tái công bố Tin mừngvề tính dứt khoát của tình yêu vợ chồng – một tình yêu được đặt nền tảng và tìm thấy sức mạnh nơi Đức Giêsu Kitô (x. Ep 5,25).

Bắt nguồn từ sự trao ban cá vị và trọn vẹn giữa đôi bạn, và được đòi hỏi bởi thiện ích của con cái, tính bất khả phân ly của hôn nhân tìm thấy chân lý tối hậu nơi ý định mà Thiên Chúa đã bày tỏ qua Mạc Khải. Chính Thiên Chúa muốn và ban tặng cho hôn nhân tính bất khả phân ly như là hoa trái, dấu chỉ và đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối trung tín mà Người dành cho nhân loại – tình yêu mà Đức Giêsu đã sống cách trọn vẹn đối với Hội thánh của Người.

Đức Kitô nhắc lại ý định nguyên thủy mà Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc trong tâm hồn người nam và người nữ, và trong việc cử hành Bí tích Hôn phối, Người ban tặng cho họ một “trái tim mới”: nhờ đó, đôi bạn không chỉ có thể vượt qua “sự cứng lòng” (x. Mt 19,8), mà còn – và trên hết – có thể chia sẻ tình yêu trọn vẹn và dứt khoát của Đức Kitô, Giao Ước mới và vĩnh cửu đã trở nên xác phàm. Như Đức Giêsu là “Chứng Nhân trung thành” (x. Kh 3,14), là tiếng “xin vâng” của các lời hứa của Thiên Chúa (x. 2Cr 1,20), và vì thế là sự thực hiện tuyệt đỉnh của lòng chung thủy vô điều kiện mà Thiên Chúa dành cho dân Người, thì đôi bạn Kitô hữu cũng được mời gọi thực sự tham dự vào tính bất khả phân ly không thể hủy bỏ – vốn liên kết Đức Kitô với Hội thánh, Hiền thê của Người, mà Người đã yêu thương đến cùng (x. Ga 13,1).

Ân huệ của Bí tích Hôn phối vừa là một ơn gọi, đồng thời vừa là một lệnh truyền dành cho các đôi bạn Kitô hữu: để họ luôn trung thành với nhau mãi mãi, vượt qua mọi thử thách và gian nan, trong sự vâng phục quảng đại đối với thánh ý Thiên Chúa: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phép phân ly” (Mt 19,6).

Làm chứng cho giá trị vô giá của tính bất khả phân ly và lòng chung thủy trong hôn nhân là một trong những bổn phận cao quý và cấp thiết nhất của các đôi bạn Kitô hữu trong thời đại chúng ta. Vì thế, cùng với tất cả các Nghị phụ Thượng Hội đồng Giám mục, tôi ca ngợi và khích lệ những đôi bạn, dù gặp không ít khó khăn, vẫn gìn giữ và làm triển nở thiện ích của tính bất khả phân ly: bằng cách ấy, họ chu toàn cách khiêm tốn và can đảm sứ mạng được trao phó là trở nên một “dấu chỉ” trong thế giới – một dấu chỉ nhỏ bé nhưng quý giá, đôi khi bị thử thách, nhưng luôn được canh tân – về lòng chung thủy không mệt mỏi mà Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô dành cho mọi người và từng người. Đồng thời, cũng cần trân trọng chứng tá của những người phối ngẫu, dù bị bạn đời bỏ rơi, nhưng với sức mạnh của đức tin và niềm hy vọng Kitô giáo, vẫn không bước vào một kết hợp mới: những người này cũng trao ban một chứng tá đích thực về lòng chung thủy – điều mà thế giới hôm nay đang rất cần. Vì thế, họ cần được các mục tử và cộng đoàn tín hữu trong Hội thánh khích lệ và nâng đỡ.

Sự hiệp thông rộng mở của gia đình

21. Tình hiệp thông vợ chồng tạo nên nền tảng để xây dựng tình hiệp thông rộng mở hơn của gia đình: giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau, giữa các thân nhân và những người thân quen khác.

Tình hiệp thông như vậy bén rễ trong những mối liên kết tự nhiên của huyết nhục, và được triển nở khi các mối dây liên kết sâu xa và phong phú hơn của tinh thần được thiết lập và trưởng thành. Chính tình yêu – linh hồn của các mối tương quan liên vị giữa các thành viên trong gia đình – là sức mạnh bên trong định hình và làm sống động tình hiệp thông và cộng đoàn gia đình.

Gia đình Kitô hữu được mời gọi sống kinh nghiệm một tình hiệp thông mới mẻ và độc đáo, vốn xác nhận và kiện toàn sự hiệp thông theo trật tự tự nhiên và bản tính nhân loại. Thật vậy, ân sủng của Đức Giêsu Kitô – “Trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29) – tự bản chất và trong năng động nội tại của mình là một “ân sủng của tình huynh đệ”, như Thánh Tôma Aquinô gọi tên (Summa Theologiae, II-II, q.14, a.2, ad 4). Chúa Thánh Thần, được tuôn đổ trong việc cử hành các bí tích, là cội nguồn sống động và dưỡng nuôi vô tận của sự hiệp thông siêu nhiên, quy tụ và liên kết các tín hữu với Đức Kitô và với nhau trong sự hiệp nhất của Hội thánh Thiên Chúa. Gia đình Kitô hữu là một sự mạc khải và hiện thực cụ thể của sự hiệp thông Hội thánh, và vì lý do đó, gia đình có thể và phải được gọi là “Hội thánh tại gia” (x. Lumen Gentium, số 11; x. Apostolicam Actuositatem, số 11).

Tất cả các thành viên trong gia đình, mỗi người theo ân huệ riêng của mình, đều có ân sủng và trách nhiệm xây dựng – từng ngày – sự hiệp thông giữa các nhân vị, làm cho gia đình trở thành một “trường học của một nhân tính trọn vẹn và phong phú hơn” (x. Gaudium et Spes, số 52). Điều này được thể hiện qua sự chăm sóc và yêu thương dành cho các em nhỏ, người đau yếu và người cao tuổi; qua việc phục vụ lẫn nhau trong đời sống hằng ngày; và qua sự chia sẻ của cải, niềm vui và nỗi đau.

Một thời điểm nền tảng trong việc xây dựng tình hiệp thông như thế chính là sự trao đổi mang tính giáo dục giữa cha mẹ và con cái (x. Ep 6,1–4; Cl 3,20–21), trong đó mỗi người đều quảng đại trao ban và khiêm tốn đón nhận. Nhờ tình yêu, sự kính trọng và vâng phục đối với cha mẹ, con cái đóng góp phần riêng biệt và không thể thay thế của mình vào việc xây dựng một gia đình thực sự nhân bản và Kitô giáo (x. Gaudium et Spes, số 48). Việc này sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu cha mẹ thi hành quyền bính bất khả nhượng của mình như một “thừa tác vụ” đích thực – nghĩa là như một sự phục vụ được quy hướng về thiện ích nhân bản và Kitô giáo của con cái, đặc biệt là nhằm giúp chúng đạt tới một sự tự do có trách nhiệm thực sự – và nếu cha mẹ luôn giữ sống động ý thức về “món quà” mà họ không ngừng lãnh nhận từ nơi con cái.

Tình hiệp thông gia đình chỉ có thể được gìn giữ và kiện toàn nhờ một tinh thần hy sinh cao cả. Thật vậy, điều đó đòi hỏi nơi mỗi người sự sẵn sàng quảng đại để cảm thông, bao dung, tha thứ và hòa giải. Không gia đình nào lại không cảm nghiệm cách mà ích kỷ, bất hòa, căng thẳng và xung đột có thể tấn công dữ dội và đôi khi làm tổn thương nghiêm trọng tình hiệp thông của mình – từ đó phát sinh nhiều hình thức chia rẽ khác nhau trong đời sống gia đình. Tuy nhiên, đồng thời, mỗi gia đình luôn được Thiên Chúa là Đấng ban bình an mời gọi sống kinh nghiệm vui mừng và canh tân của “việc hòa giải” – nghĩa là tình hiệp thông được tái lập, sự hiệp nhất được tìm lại. Cách riêng, việc tham dự vào bí tích Hòa Giải và Bàn Tiệc Thánh Thể – nơi Thân Thể duy nhất của Đức Kitô – ban cho gia đình Kitô hữu ân sủng và trách nhiệm để vượt qua mọi chia rẽ và tiến bước trong chân lý trọn vẹn của tình hiệp thông theo thánh ý Thiên Chúa, nhờ đó đáp lại ước nguyện sâu xa nhất của Chúa: “Xin cho tất cả nên một” (Ga 17,21).

Quyền và nhiệm vụ của người phụ nữ

22. Trong chừng mực gia đình là – và luôn phải trở thành – một cộng đoàn và hiệp thông các nhân vị, thì chính trong tình yêu, gia đình tìm thấy nguồn cội và động lực không ngừng để đón nhận, tôn trọng và thăng tiến phẩm giá cao cả nhất của từng người, nghĩa là hình ảnh sống động của Thiên Chúa. Như các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã xác quyết cách đúng đắn, tiêu chuẩn luân lý để đánh giá tính xác thực của các mối tương quan vợ chồng và gia đình chính là việc thăng tiến phẩm giá và ơn gọi của từng nhân vị, vốn đạt đến sự viên mãn qua việc tự hiến chân thành của chính mình (x. Gaudium et Spes, số 24).

Trong viễn tượng này, Thượng Hội đồng Giám mục đã muốn dành một sự quan tâm đặc biệt đến người phụ nữ – đến các quyền và nhiệm vụ của họ trong gia đình và trong xã hội. Cũng trong cùng một viễn tượng, cần phải xem xét đến người nam trong vai trò là người chồng và người cha, cũng như đến con trẻ và người cao tuổi.

Về phần người phụ nữ, trước hết cần nhấn mạnh đến phẩm giá và trách nhiệm bình đẳng so với người nam. Sự bình đẳng này được thể hiện cách đặc biệt qua việc tự hiến lẫn nhau và cùng nhau hiến dâng cho con cái – điều vốn là đặc tính của hôn nhân và gia đình. Những gì lý trí con người có thể trực giác và nhận ra thì được Lời của Thiên Chúa mạc khải cách trọn vẹn. Thật vậy, lịch sử cứu độ là một chứng tá liên lỉ và rực rỡ về phẩm giá của người phụ nữ.

Khi tạo dựng con người “nam và nữ” (St 1,27), Thiên Chúa ban cho cả người nam và người nữ một phẩm giá cá nhân bình đẳng, đồng thời làm phong phú họ với những quyền bất khả nhượng và những trách nhiệm vốn thuộc về nhân vị. Thiên Chúa còn biểu lộ phẩm giá của người phụ nữ cách cao cả nhất khi chính Ngài mặc lấy xác phàm từ Đức Trinh Nữ Maria – Đấng được Hội thánh tôn vinh là Mẹ Thiên Chúa, gọi là Eva mới và giới thiệu như mẫu gương của người phụ nữ được cứu chuộc. Sự tôn trọng tinh tế của Đức Giêsu dành cho những người phụ nữ mà Người đã mời gọi bước theo và sống tình bạn với Người; việc Người hiện ra vào sáng Phục sinh với một người phụ nữ trước các môn đệ khác; và sứ mạng được trao cho phụ nữ để loan báo Tin mừng Phục sinh cho các Tông đồ – tất cả đều là những dấu chỉ xác thực về lòng kính trọng đặc biệt của Đức Giêsu dành cho người phụ nữ. Thánh Phaolô đã nói: “Tất cả anh em đều là con cái của Thiên Chúa nhờ đức tin trong Đức Kitô Giêsu… Không còn Do Thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, vì tất cả anh em đều là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,26–28).

Người phụ nữ và xã hội

23. Không đi sâu vào các khía cạnh khác nhau của chủ đề rộng lớn và phức tạp về mối tương quan giữa người phụ nữ và xã hội, nhưng chỉ giới hạn cuộc thảo luận ở một vài điểm thiết yếu, người ta không thể không nhận thấy rằng, trong lĩnh vực gia đình – cách riêng trong phạm vi này – một truyền thống xã hội và văn hóa phổ biến đã có khuynh hướng chỉ dành cho người phụ nữ vai trò làm vợ và làm mẹ, mà không mở ra một cách thích đáng để họ đảm nhận các trách nhiệm công cộng, vốn thường được dành cho nam giới.

Không còn nghi ngờ gì nữa, sự bình đẳng về phẩm giá và trách nhiệm giữa người nam và người nữ hoàn toàn biện minh cho việc người phụ nữ được tham gia vào các trách nhiệm công cộng. Đồng thời, việc thăng tiến đích thực người phụ nữ cũng đòi hỏi phải nhìn nhận cách rõ ràng giá trị của vai trò làm mẹ và đời sống gia đình của họ, trong mối tương quan với tất cả các trách nhiệm công cộng và các ngành nghề khác. Thật vậy, các trách nhiệm và ngành nghề ấy cần được kết hợp hài hòa với nhau, nếu muốn cho sự phát triển xã hội và văn hóa thực sự và trọn vẹn mang tính nhân bản.

Điều này sẽ dễ dàng thực hiện hơn nếu, như Thượng Hội đồng Giám mục đã mong muốn, một “thần học về lao động” được canh tân để làm sáng tỏ và đào sâu ý nghĩa của lao động trong đời sống Kitô hữu, đồng thời xác định mối liên hệ nền tảng giữa lao động và gia đình – và từ đó, làm nổi bật ý nghĩa nguyên thủy và không thể thay thế của công việc trong gia đình và việc giáo dục con cái (x. Laborem Exercens, số 19). Vì thế, Hội thánh có thể và phải trợ giúp xã hội hôm nay bằng cách không ngừng kêu gọi mọi người công nhận và tôn vinh giá trị không thể thay thế của công việc người phụ nữ thực hiện trong gia đình. Điều này đặc biệt quan trọng trong lãnh vực giáo dục: thực vậy, gốc rễ của sự phân biệt đối xử giữa các công việc và ngành nghề sẽ được loại bỏ một khi người ta nhận ra rằng mọi người, trong mọi lãnh vực, đều dấn thân với cùng một quyền và cùng một trách nhiệm. Nhờ đó, hình ảnh của Thiên Chúa nơi người nam và người nữ sẽ được biểu lộ cách rực rỡ hơn.

Ngay cả khi người phụ nữ – cũng như người nam – cần được công nhận có quyền tham gia vào các trách nhiệm công cộng khác nhau, thì xã hội vẫn phải được tổ chức sao cho người vợ và người mẹ không bị buộc phải làm việc bên ngoài gia đình, và gia đình của họ vẫn có thể sống và phát triển cách xứng đáng, ngay cả khi họ hoàn toàn dấn thân cho chính gia đình mình.

Cũng cần vượt qua não trạng cho rằng phẩm giá của người phụ nữ phát xuất nhiều hơn từ công việc bên ngoài hơn là từ những hoạt động trong gia đình. Điều này đòi hỏi người nam phải thực sự trân trọng và yêu thương người phụ nữ, với tất cả sự tôn kính dành cho phẩm giá cá nhân của họ; đồng thời, xã hội cần kiến tạo và phát triển những điều kiện thích hợp cho công việc nội trợ.

Hội thánh, với sự tôn trọng cần thiết dành cho những ơn gọi khác nhau của người nam và người nữ, cần nỗ lực thúc đẩy – trong chính đời sống của mình, trong mức độ có thể – sự bình đẳng về quyền và phẩm giá giữa họ. Việc này là vì lợi ích của tất cả: của gia đình, của xã hội và của chính Hội thánh.

Tuy nhiên, rõ ràng rằng tất cả những điều này không có nghĩa là người phụ nữ phải từ bỏ nữ tính của mình hay bắt chước đặc tính nam giới, nhưng là sống trọn vẹn nhân tính nữ tính đích thực – như điều đó phải được thể hiện trong hành động của họ, cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội – đồng thời không quên rằng trong lãnh vực này có sự đa dạng của các phong tục và nền văn hóa.

Xúc phạm đến phẩm giá của người phụ nữ

24. Thật đáng tiếc, sứ điệp Kitô giáo về phẩm giá của người phụ nữ lại bị phủ nhận bởi một não trạng cố hữu, vốn xem con người không như một nhân vị, mà như một đồ vật – như một món hàng để mua bán, phục vụ cho sự hưởng thụ ích kỷ và khoái lạc đơn thuần. Và nạn nhân đầu tiên của não trạng ấy chính là người phụ nữ.

Não trạng ấy sản sinh ra những hoa trái thật cay đắng: sự khinh miệt đối với cả người nam lẫn người nữ, tình trạng nô lệ, sự áp bức những người yếu thế, khiêu dâm, mại dâm – đặc biệt nghiêm trọng khi những điều ấy được tổ chức – cùng với muôn vàn hình thức phân biệt đối xử trong các lãnh vực giáo dục, nghề nghiệp, tiền lương, v.v.

Hơn nữa, ngay cả ngày nay, trong phần lớn xã hội chúng ta, vẫn còn tồn tại nhiều hình thức phân biệt đối xử hạ thấp phẩm giá, gây tổn thương nghiêm trọng đến một số nhóm phụ nữ cụ thể: chẳng hạn như những người vợ không có con, các góa phụ, phụ nữ ly thân, ly dị, và các bà mẹ đơn thân.

Những hình thức phân biệt đối xử này – cũng như nhiều hình thức khác – đã được các Nghị phụ Thượng Hội đồng mạnh mẽ lên án. Vì thế, tôi tha thiết kêu gọi mọi người thực hiện một hành động mục vụ chuyên biệt, mạnh mẽ và sâu sắc hơn, để những bất công ấy được loại trừ cách dứt khoát, hầu đạt tới sự tôn trọng trọn vẹn đối với hình ảnh Thiên Chúa đang tỏa sáng nơi mọi con người – không trừ một ai.

Người nam trong tư cách người chồng và người cha

25. Trong sự hiệp thông–cộng đoàn của hôn nhân và gia đình, người nam được mời gọi sống ân huệ và sứ mạng của mình trong tư cách là người chồng và người cha.

Người chồng nhận ra nơi người vợ sự hoàn tất ý định của Thiên Chúa: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng” (St 2,18), và người nam thốt lên lời cảm thán của Ađam – người chồng đầu tiên: “Lần này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2,23).

Tình yêu vợ chồng đích thực giả định và đòi hỏi người nam phải tôn trọng sâu xa phẩm giá bình đẳng của người nữ. Thánh Ambrôsiô viết: “Con không phải là chủ của nàng, nhưng là chồng của nàng; nàng không được trao cho con như một nô lệ, nhưng như một người vợ… Hãy đáp lại những quan tâm nàng dành cho con, và hãy biết ơn tình yêu của nàng” (Exameron, V,7,19: CSEL 32,I,154). Với người vợ, người nam được mời gọi sống “một hình thức rất đặc biệt của tình bạn cá vị” (Đức Phaolô VI, Humanae Vitae, số 9). Là Kitô hữu, người nam còn được mời gọi phát triển một thái độ yêu thương mới mẻ, bày tỏ với người vợ lòng bác ái vừa tế nhị vừa mạnh mẽ mà Đức Kitô dành cho Hội thánh (x. Ep 5,25).

Tình yêu dành cho người vợ – nay đã trở thành người mẹ – và tình yêu dành cho con cái là con đường tự nhiên giúp người nam hiểu và thực hiện vai trò quan trọng làm cha của mình. Đặc biệt trong những hoàn cảnh xã hội và văn hóa dễ khiến người cha xa rời gia đình hoặc hiện diện cách mờ nhạt trong việc giáo dục, cần phải nỗ lực khôi phục niềm xác tín xã hội rằng vị trí và sứ mạng quan trọng của người cha trong và vì gia đình là độc nhất vô nhị và không thể thay thế (x. Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng tại Terni, 19/3/1981). Thực tế cho thấy: sự vắng mặt của người cha gây ra những mất cân bằng tâm lý và luân lý, cũng như những khó khăn lớn trong các mối tương quan gia đình. Ngược lại, sự hiện diện áp đặt của người cha – đặc biệt trong hiện tượng “tư tưởng gia trưởng” (machismo) vẫn còn tồn tại – tức là sự lạm dụng các đặc quyền nam giới, làm tổn thương người phụ nữ và cản trở sự phát triển của các mối quan hệ gia đình lành mạnh.

Khi biểu lộ và sống lại trên trần thế chính tình phụ tử của Thiên Chúa (x. Ep 3,15), người nam được mời gọi bảo đảm sự phát triển thống nhất của mọi thành viên trong gia đình. Người nam sẽ chu toàn nhiệm vụ quan trọng ấy bằng một trách nhiệm quảng đại đối với sự sống được cưu mang dưới trái tim người mẹ; một cam kết giáo dục chu đáo, được chia sẻ với người vợ (x. Gaudium et Spes, số 52); một công việc không làm tan rã gia đình, nhưng củng cố sự bền chặt và ổn định của nó; và một chứng tá sống động của đời sống Kitô hữu trưởng thành, giúp con cái bước vào kinh nghiệm sống động về Đức Kitô và Hội thánh cách rõ ràng hơn.

Quyền của con trẻ

26. Trong gia đình – là cộng đoàn các nhân vị – cần dành một sự quan tâm đặc biệt cho con trẻ, vun đắp lòng kính trọng sâu xa đối với phẩm giá cá vị của trẻ, cũng như sự tôn trọng lớn lao và sự phục vụ quảng đại đối với các quyền lợi của trẻ. Điều này đúng với mọi con trẻ, nhưng càng trở nên khẩn thiết hơn khi trẻ còn nhỏ, hoàn toàn lệ thuộc, đang đau bệnh, chịu khổ hoặc mang khuyết tật.

Khi kêu gọi và sống một sự chăm sóc vừa dịu dàng vừa mạnh mẽ dành cho mọi con trẻ được sinh vào đời, Hội thánh chu toàn sứ mạng chính yếu của mình. Thực vậy, Hội thánh được mời gọi mạc khải và tái đề xuất trong dòng lịch sử gương mẫu và điều răn của Đức Kitô – Đấng đã muốn đặt con trẻ vào trung tâm của Nước Thiên Chúa: “Hãy để con trẻ đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng” (Lc 18,16; x. Mt 19,14; Mc 10,14).

Tôi xin lặp lại nơi đây những lời tôi đã phát biểu trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 2/10/1979: “Tôi muốn bày tỏ niềm vui sâu xa mà con trẻ mang lại cho mỗi người chúng ta. Các em là mùa xuân của cuộc sống, là khởi đầu cho tương lai của mỗi quê hương trần thế. Không một quốc gia nào trên thế giới, không một hệ thống chính trị nào có thể nghĩ đến tương lai của mình mà không nhìn qua hình ảnh của những thế hệ mới – những người sẽ lãnh nhận từ cha mẹ mình một gia sản phong phú gồm các giá trị, bổn phận và khát vọng của quốc gia mà họ thuộc về, cũng như của toàn thể gia đình nhân loại. Việc chăm sóc con trẻ – ngay từ trước khi các em được sinh ra, từ giây phút đầu tiên của việc thụ thai, và sau đó trong những năm thơ ấu và tuổi trẻ – chính là thước đo nền tảng và thiết yếu của mối tương quan giữa con người với con người. Và vì thế, còn điều gì đáng mong ước hơn cho mọi quốc gia, cho toàn thể nhân loại, cho tất cả con trẻ trên thế giới, nếu không phải là một tương lai tốt đẹp hơn – nơi mà việc tôn trọng nhân quyền trở thành một thực tại trọn vẹn trong chiều kích của thiên niên kỷ đang đến gần?” (2/10/1979).

Việc đón nhận, yêu thương, trân trọng và phục vụ toàn diện – về vật chất, tình cảm, giáo dục và đời sống thiêng liêng – dành cho mỗi con trẻ được sinh vào đời phải luôn là một nét đặc trưng không thể thiếu của người Kitô hữu, cách riêng là của các gia đình Kitô giáo. Nhờ đó, các em sẽ có thể lớn lên “trong sự khôn ngoan, vóc dáng và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người đời” (Lc 2,52), và đóng góp cách quý giá vào việc xây dựng cộng đoàn gia đình, cũng như vào chính sự thánh hóa của cha mẹ (x. Gaudium et Spes, số 48).

Người cao tuổi trong gia đình

27. Có những nền văn hóa biểu lộ một sự kính trọng đặc biệt và tình yêu sâu sắc dành cho người cao tuổi. Thay vì bị gạt ra khỏi gia đình hay bị xem như một gánh nặng vô ích, người cao tuổi vẫn được tham gia cách tích cực và có trách nhiệm vào đời sống gia đình – dù cần tôn trọng sự độc lập của gia đình mới. Trên hết, họ thực thi một sứ mạng quý báu: vừa là chứng nhân của quá khứ, vừa là nguồn cảm hứng khôn ngoan cho người trẻ và cho tương lai.

Ngược lại, có những nền văn hóa – đặc biệt là do hậu quả của sự phát triển công nghiệp và đô thị hóa thiếu trật tự – đã và vẫn đang đẩy người cao tuổi vào những hình thức bị gạt ra bên lề không thể chấp nhận được. Điều đó không chỉ gây nên nỗi đau sâu sắc cho chính họ, mà còn làm nghèo nàn đời sống tinh thần của biết bao gia đình.

Hoạt động mục vụ của Hội thánh cần khơi dậy nơi mọi người khả năng khám phá và trân trọng vai trò của người cao tuổi trong cộng đồng dân sự và Giáo hội, cách riêng là trong gia đình. Thật vậy, đời sống của người cao tuổi giúp chúng ta nhận ra trật tự các giá trị nhân bản, làm nổi bật sự tiếp nối giữa các thế hệ, và minh chứng cách kỳ diệu cho sự gắn kết lẫn nhau trong Dân Thiên Chúa. Người cao tuổi còn có đặc sủng vượt qua những rào cản giữa các thế hệ, ngay cả trước khi chúng xuất hiện. Biết bao con trẻ đã tìm thấy sự cảm thông và yêu thương trong ánh mắt, lời nói và những cử chỉ âu yếm của các bậc cao niên! Và biết bao người cao tuổi đã vui lòng đồng thanh với những lời Kinh thánh đầy linh hứng: “Triều thiên của người già là con cháu của họ” (Cn 17,6) (Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Diễn đàn Quốc tế về Lão hóa Tích cực, 5/9/1980: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, III, 2 [1980], tr. 539).

II. SỨ VỤ PHỤC VỤ SỰ SỐNG

1) Việc thông truyền sự sống

Những người góp phần vào tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa

28. Khi tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài, Thiên Chúa đã đặt triều thiên vinh dự lên công trình do tay Ngài sáng tạo và đưa công trình ấy đến chỗ hoàn hảo. Ngài mời gọi họ tham dự cách đặc biệt vào tình yêu và quyền năng của Ngài – Đấng Tạo Hóa và là Cha – qua sự cộng tác tự do và có trách nhiệm trong việc truyền ban hồng ân sự sống con người: “Thiên Chúa chúc lành cho họ và phán bảo: ‘Hãy sinh sôi nảy nở, làm đầy mặt đất và thống trị nó’” (St 1,28).

Chính vì thế, nhiệm vụ chủ yếu của gia đình là phục vụ sự sống: thực hiện trong dòng lịch sử lời chúc lành nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa, bằng việc thông truyền hình ảnh Thiên Chúa từ người này sang người khác qua hành động truyền sinh (x. St 5,1tt; x. Gaudium et Spes, số 50).

Sự phong nhiêu qua việc sinh con cái là kết quả và là dấu chỉ của tình yêu phu phụ, là chứng tá sống động cho sự trao hiến viên mãn giữa đôi bạn. “Vinh dự đích thực của tình yêu phu phụ và toàn bộ cấu trúc đời sống gia đình phát sinh từ tình yêu ấy – tuy không hạ thấp những mục tiêu khác của hôn nhân – đều quy hướng về điều này: rằng đôi phối ngẫu, với lòng can đảm, sẵn sàng cộng tác với tình yêu của Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ, Đấng nhờ họ không ngừng mở rộng và làm phong phú gia đình của Ngài” (Gaudium et Spes, số 50).

Tuy nhiên, sự phong nhiêu của tình yêu phu phụ không chỉ giới hạn trong việc sinh sản con cái – dù được hiểu trong chiều kích nhân bản sâu xa – mà còn được mở rộng và làm phong phú bởi tất cả những hoa trái của đời sống luân lý, thiêng liêng và siêu nhiên mà người cha và người mẹ được mời gọi trao ban cho con cái, và qua con cái, cho Hội thánh và cho thế giới.

Giáo lý và chuẩn mực của Hội thánh: luôn cổ xưa và luôn mới mẻ

29. Bởi tình yêu phu phụ thực sự là một sự tham dự đặc thù vào mầu nhiệm sự sống và tình yêu của chính Thiên Chúa, nên Hội thánh ý thức rằng mình đã lãnh nhận một sứ mạng đặc biệt: gìn giữ và bảo vệ phẩm giá cao cả của hôn nhân, cũng như trách nhiệm nghiêm trọng trong việc thông truyền sự sống con người.

Như thế, trong sự tiếp nối trung thành với truyền thống sống động của cộng đoàn Hội thánh suốt dòng lịch sử, Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền của vị tiền nhiệm tôi là Đức Phaolô VI – đặc biệt được thể hiện qua Thông điệp Humanae Vitae – đã chuyển trao cho thời đại chúng ta một lời loan báo thực sự mang tính tiên tri: lời loan báo ấy tái khẳng định và trình bày cách rõ ràng giáo lý và chuẩn mực của Hội thánh về hôn nhân và việc thông truyền sự sống con người – một giáo lý và chuẩn mực luôn cổ xưa và luôn mới mẻ.

Chính vì thế, trong phiên họp gần đây, các Nghị phụ Thượng Hội đồng Giám mục đã tuyên bố rõ ràng: “Thượng Hội đồng Thánh này, quy tụ trong sự hiệp nhất đức tin với Đấng kế vị Thánh Phêrô, kiên quyết duy trì những gì đã được trình bày trong Công đồng Vaticanô II (x. Gaudium et Spes, số 50) và sau đó trong Thông điệp Humanae Vitae, đặc biệt là: tình yêu phu phụ phải hoàn toàn mang tính nhân bản, dành riêng cho đôi bạn và luôn mở ra đón nhận sự sống mới” (Propositio 22). Kết luận số 11 của Thông điệp Humanae Vitae cũng khẳng định: “Khi kêu gọi con người tuân giữ các quy luật của luật tự nhiên, được soi sáng bởi giáo huấn không ngừng của mình, Hội thánh dạy rằng mọi hành vi vợ chồng đều phải luôn mở ra cho việc thông truyền sự sống” (AAS 60 [1968], tr. 488).

Hội thánh đứng về phía sự sống

30. Giáo huấn của Hội thánh hiện nay đang được đặt trong một hoàn cảnh xã hội và văn hóa khiến cho việc hiểu biết trở nên khó khăn hơn, nhưng đồng thời lại càng cấp thiết và không thể thay thế trong việc cổ võ thiện ích đích thực của người nam và người nữ.

32. Thật vậy, tiến bộ khoa học và kỹ thuật – vốn ngày càng mở rộng quyền kiểm soát của con người hiện đại trên thiên nhiên – không chỉ nuôi dưỡng niềm hy vọng về một nhân loại mới và tốt đẹp hơn, mà còn làm gia tăng nỗi lo âu sâu sắc về tương lai. Một số người tự hỏi liệu sống có còn là điều tốt, hay thậm chí không được sinh ra thì tốt hơn; họ hoài nghi liệu có nên mời gọi người khác bước vào cuộc sống – những người có thể sẽ nguyền rủa sự hiện hữu của mình trong một thế giới tàn nhẫn, đầy những hiểm họa không thể lường trước. Có người cho rằng chỉ mình họ xứng đáng hưởng lợi từ tiến bộ kỹ thuật và loại trừ người khác, trong khi những người ấy bị áp đặt các biện pháp tránh thai hoặc thậm chí những phương pháp còn tồi tệ hơn. Lại có người, bị giam hãm trong não trạng hưởng thụ và chỉ bận tâm đến việc gia tăng của cải vật chất, cuối cùng không còn hiểu – và vì thế từ chối – sự phong phú thiêng liêng của một sự sống con người mới. Căn nguyên sâu xa của những não trạng ấy chính là sự vắng bóng Thiên Chúa trong tâm hồn con người – chỉ có tình yêu của Người mới mạnh hơn mọi nỗi sợ hãi của thế giới và có thể vượt thắng chúng.

Từ đó đã hình thành một não trạng chống lại sự sống, thể hiện trong nhiều vấn đề thời sự hiện nay. Chẳng hạn, có thể nghĩ đến nỗi hoảng sợ phát sinh từ một số nghiên cứu của các nhà sinh thái học và tương lai học về dân số – những nghiên cứu đôi khi phóng đại mối nguy của tình trạng gia tăng dân số đối với chất lượng cuộc sống.

Nhưng Hội thánh xác tín mạnh mẽ rằng sự sống con người – dù yếu đuối và đau khổ – vẫn luôn là một hồng ân tuyệt vời từ Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu. Chống lại sự bi quan và ích kỷ đang che phủ thế giới, Hội thánh đứng về phía sự sống; và trong mỗi sự sống con người, Hội thánh biết khám phá vẻ huy hoàng của tiếng “Xin vâng”, của lời “Amen” – chính là Đức Kitô (x. 2Cr 1,19; Kh 3,14). Trước tiếng “không” đang xâm chiếm và làm tổn thương thế giới, Hội thánh đối lập bằng tiếng “Xin vâng” sống động ấy, nhờ đó bảo vệ con người và thế giới khỏi những thế lực đe dọa và hủy hoại sự sống.

Hội thánh được mời gọi một lần nữa biểu lộ cho mọi người – với một xác tín rõ ràng và vững chắc hơn – ý muốn cổ võ sự sống con người bằng mọi phương thế, và bảo vệ sự sống ấy khỏi mọi đe dọa, trong bất kỳ hoàn cảnh và giai đoạn phát triển nào.

Vì lý do đó, Hội thánh lên án – như một sự xúc phạm nghiêm trọng đến phẩm giá con người và công lý – tất cả những hành động của các chính phủ hoặc các cơ quan công quyền khác tìm cách hạn chế quyền tự do của các đôi bạn trong việc quyết định về con cái. Do đó, mọi hình thức cưỡng ép do các quyền bính thực hiện nhằm cổ vũ việc tránh thai, triệt sản hoặc phá thai cố ý đều phải bị mạnh mẽ lên án và dứt khoát bác bỏ. Tương tự, cũng cần phải lên án như một sự bất công nghiêm trọng việc các chương trình viện trợ kinh tế trong quan hệ quốc tế bị ràng buộc bởi các điều kiện liên quan đến tránh thai, triệt sản và phá thai cố ý (x. Sứ điệp của Thượng Hội đồng Giám mục khóa VI gửi các gia đình Kitô hữu trong thế giới hiện đại, số 5 [24/10/1980]).

Để dự phóng của Thiên Chúa được thực hiện ngày một trọn vẹn hơn

31. Hội thánh hoàn toàn ý thức về những vấn đề đa dạng và phức tạp mà ngày nay, tại nhiều quốc gia, các đôi bạn phải đối diện trong sứ mạng truyền sinh một cách có trách nhiệm. Hội thánh cũng nhìn nhận vấn đề nghiêm trọng của sự gia tăng dân số – như đang diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới – cùng với những hệ quả luân lý mà thực trạng ấy đặt ra.

Tuy nhiên, Hội thánh xác tín rằng việc suy xét sâu xa mọi khía cạnh của những vấn đề này sẽ mang lại một sự xác nhận mới mẻ và mạnh mẽ hơn về tầm quan trọng của giáo huấn chân thực liên quan đến việc điều hòa sinh sản – một giáo huấn đã được tái khẳng định bởi Công đồng Vaticanô II và Thông điệp Humanae Vitae.

Vì thế, cùng với các Nghị phụ Thượng Hội đồng, tôi cảm thấy có bổn phận phải gửi lời mời gọi khẩn thiết đến các nhà thần học: xin quý vị, trong sự cộng tác với Huấn quyền phẩm trật, hãy nỗ lực không ngừng để ngày càng làm sáng tỏ hơn các nền tảng Kinh thánh, những động lực luân lý và những lý do mang chiều kích nhân vị nâng đỡ cho giáo huấn này. Nhờ đó, trong khuôn khổ một tiến trình trình bày có hệ thống, giáo huấn của Hội thánh về chương quan trọng này sẽ thực sự trở nên dễ tiếp cận đối với mọi người thiện chí, giúp họ ngày càng hiểu rõ và sâu sắc hơn. Như thế, dự phóng của Thiên Chúa sẽ được thực hiện ngày càng trọn vẹn hơn – vì ơn cứu độ của con người và vì vinh quang của Đấng Tạo Hóa.

Liên quan đến vấn đề này, sự dấn thân đồng thuận của các nhà thần học – được thúc đẩy bởi lòng gắn bó xác tín với Huấn quyền, vốn là hướng dẫn đích thực duy nhất của Dân Thiên Chúa – mang một tính cấp thiết đặc biệt, nhất là vì mối liên hệ mật thiết giữa giáo huấn Công giáo về điểm này và cái nhìn về con người mà Hội thánh đề xuất. Những nghi ngờ hoặc sai lầm trong lãnh vực hôn nhân và gia đình sẽ dẫn đến việc che khuất nghiêm trọng chân lý toàn diện về con người – trong một bối cảnh văn hóa vốn đã thường xuyên xáo trộn và mâu thuẫn. Sự đóng góp của các nhà thần học – qua việc khai sáng và đào sâu giáo huấn – có một giá trị vô song, và là một sự phục vụ độc đáo, đầy công trạng dành cho gia đình và toàn thể nhân loại.

Trong cái nhìn toàn diện về con người và ơn gọi của họ

32. Trong bối cảnh của một nền văn hóa đang bóp méo nghiêm trọng – thậm chí đánh mất – ý nghĩa đích thực của tính dục con người, vì đã tách nó khỏi mối quy chiếu thiết yếu với nhân vị, Hội thánh cảm thấy sứ mạng của mình ngày càng cấp thiết và không thể thay thế: trình bày tính dục như một giá trị và một trách nhiệm thuộc toàn thể nhân vị – nam và nữ – được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa.

Trong viễn cảnh này, Công đồng Vaticanô II đã khẳng định rõ ràng rằng: “Khi cần dung hòa tình yêu vợ chồng với việc truyền sinh có trách nhiệm, phẩm chất luân lý của hành vi không chỉ tùy thuộc vào ý định chân thành và việc lượng giá các lý do, nhưng phải được xác định bởi các tiêu chuẩn khách quan, vốn đặt nền tảng nơi bản tính của nhân vị và các hành vi của họ, và được định hướng để duy trì – trong bối cảnh của tình yêu đích thực – ý nghĩa toàn vẹn của sự trao hiến lẫn nhau và của việc thông truyền sự sống con người. Tất cả điều này sẽ không thể thực hiện được nếu không vun trồng nhân đức khiết tịnh trong đời sống vợ chồng với một tâm hồn chân thành” (Gaudium et Spes, số 51).

Chính từ “cái nhìn toàn diện về con người và về ơn gọi của họ – không chỉ trong trật tự tự nhiên và trần thế, mà còn trong thực tại siêu nhiên và đời đời” (Humanae Vitae, số 7), Đức Phaolô VI đã khẳng định rằng giáo huấn của Hội thánh “được đặt nền trên mối liên kết bất khả phân – do Thiên Chúa thiết lập và con người không được phép tự ý phá vỡ – giữa hai ý nghĩa của hành vi hôn nhân: ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa truyền sinh” (ibid., 12). Và ngài kết luận bằng cách tái khẳng định rằng cần phải loại trừ mọi hành vi tự bản chất là sai trái “dù chúng được dự liệu trước khi thực hiện hành vi vợ chồng, trong lúc thực hiện, hay trong diễn tiến các hệ quả tự nhiên sau đó – mà có ý sử dụng như một mục đích hoặc như một phương tiện để ngăn cản việc truyền sinh” (ibid., 14).

Khi đôi bạn, qua việc sử dụng các phương thế tránh thai, tách rời hai ý nghĩa mà Thiên Chúa Tạo Hóa đã khắc ghi trong bản thể của người nam và người nữ, cũng như trong động lực hiệp thông tính dục của họ, họ đã hành xử như thể là những “trọng tài” trong dự phóng của Thiên Chúa, “thao túng” và làm hạ giá tính dục con người – và cùng với đó là chính nhân vị của họ và của người phối ngẫu – khiến cho giá trị của sự tự hiến “toàn diện” bị biến dạng. Như thế, thay vì là một ngôn ngữ nguyên tuyền diễn tả sự trao hiến hỗ tương và trọn vẹn giữa đôi phối ngẫu, việc tránh thai lại đưa ra một ngôn ngữ mâu thuẫn về mặt khách quan: không còn là sự trao ban chính mình cách toàn diện. Hệ quả không chỉ là sự từ chối tích cực việc mở lòng đón nhận sự sống, mà còn là sự bóp méo chân lý sâu xa của tình yêu vợ chồng – một tình yêu vốn được mời gọi để tự hiến toàn thể bản thân.

Trái lại, khi đôi bạn, qua việc thuận theo những thời kỳ không thụ thai, vẫn tôn trọng mối liên kết bất khả phân giữa hai ý nghĩa kết hợp và truyền sinh của tính dục con người, họ hành xử như những “thừa tác viên” của kế hoạch Thiên Chúa và “hưởng dùng” tính dục theo động lực nguyên thủy của sự tự hiến toàn diện, không bị thao túng hay bóp méo (ibid., 13).

Dưới ánh sáng từ chính kinh nghiệm sống của nhiều đôi bạn và các dữ liệu từ các ngành khoa học nhân văn, suy tư thần học có thể nhận ra – và được mời gọi đào sâu – sự khác biệt vừa mang tính nhân học vừa mang tính luân lý giữa việc tránh thai và việc thuận theo các nhịp điệu sinh học tự nhiên. Đây là một sự khác biệt sâu xa hơn nhiều so với suy nghĩ thông thường, và xét cho cùng, liên quan đến hai quan niệm không thể làm thành đơn giản về nhân vị và tính dục con người. Việc chọn lựa các nhịp sinh học tự nhiên bao hàm sự đón nhận thời gian của nhân vị – tức là của người phụ nữ – và cùng với đó là sự đón nhận đối thoại, tôn trọng lẫn nhau, trách nhiệm chung và sự tự chủ. Đón nhận thời gian và đối thoại cũng có nghĩa là nhìn nhận chiều kích vừa thiêng liêng vừa thể lý của sự hiệp thông vợ chồng, cũng như sống tình yêu cá vị trong đòi hỏi của lòng chung thủy. Trong bối cảnh này, đôi bạn cảm nghiệm rằng sự hiệp thông vợ chồng được làm phong phú bởi những giá trị của sự dịu dàng và tình cảm – vốn là linh hồn sâu xa của tính dục con người, ngay cả trong chiều kích thể lý của nó. Bằng cách ấy, tính dục được tôn trọng và thăng tiến trong chiều kích thực sự và toàn diện của nhân vị, không bao giờ bị “sử dụng” như một “đối tượng” – điều vốn làm tan biến sự hợp nhất cá vị giữa linh hồn và thể xác, và xúc phạm đến chính công trình tạo dựng của Thiên Chúa trong sự đan kết sâu xa giữa bản tính và nhân vị.

Hội thánh là Mẹ và là Thầy của các đôi bạn đang gặp khó khăn

33. Ngay trong lãnh vực luân lý hôn nhân, Hội thánh vẫn là Mẹ và là Thầy, và luôn hành động như thế.

Là Thầy dạy, Hội thánh không mỏi mệt trong việc công bố chuẩn mực luân lý hướng dẫn việc truyền sinh có trách nhiệm. Hội thánh không phải là tác giả hay trọng tài của chuẩn mực ấy. Trong sự vâng phục chân lý là Đức Kitô – Đấng mà hình ảnh được phản chiếu nơi bản tính và phẩm giá của nhân vị – Hội thánh diễn giải chuẩn mực luân lý ấy và trình bày cho mọi người thiện chí, không che giấu những đòi hỏi về tính triệt để và sự hoàn thiện của nó.

Là Mẹ, Hội thánh gần gũi với biết bao đôi bạn đang gặp khó khăn trong vấn đề trọng yếu này của đời sống luân lý. Hội thánh thấu hiểu hoàn cảnh của họ – thường rất cam go, và nhiều khi còn bị giằng xé bởi đủ loại thử thách, không chỉ mang tính cá nhân mà còn do hoàn cảnh xã hội. Hội thánh biết rằng nhiều đôi bạn không chỉ gặp khó khăn trong việc thực hành cụ thể, mà còn trong việc hiểu biết các giá trị nội tại của chuẩn mực luân lý.

Tuy nhiên, chính Hội thánh duy nhất ấy vừa là Thầy dạy vừa là Mẹ. Vì thế, Hội thánh không ngừng mời gọi và khích lệ các đôi bạn vượt qua những khó khăn trong đời sống hôn nhân mà không làm sai lệch hay phương hại đến chân lý. Thật vậy, Hội thánh xác tín rằng không thể có sự mâu thuẫn đích thực giữa luật Thiên Chúa về việc truyền sinh và luật thúc đẩy tình yêu vợ chồng đích thực (x. Gaudium et Spes, số 51). Do đó, phương pháp sư phạm cụ thể của Hội thánh luôn phải gắn liền và không bao giờ tách rời khỏi giáo huấn của mình. Vì thế, tôi xin lặp lại với cùng một xác tín như vị tiền nhiệm của tôi: “Không làm suy giảm chút nào giáo lý cứu độ của Đức Kitô chính là một trong những hình thức bác ái cao quý nhất đối với các linh hồn” (Humanae Vitae, số 29).

Mặt khác, phương pháp sư phạm đích thực của Hội thánh chỉ bộc lộ tính hiện thực và sự khôn ngoan của mình khi kiên trì và can đảm dấn thân vào việc kiến tạo và nâng đỡ mọi điều kiện nhân bản – tâm lý, luân lý và thiêng liêng – vốn không thể thiếu để có thể hiểu và sống các giá trị cũng như chuẩn mực luân lý.

Những điều kiện ấy chắc chắn bao gồm: sự bền bỉ và kiên nhẫn, lòng khiêm nhường và tâm hồn mạnh mẽ, niềm tín thác con thảo vào Thiên Chúa và vào ân sủng của Ngài, việc siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hòa giải (x. Humanae Vitae, số 25). Được củng cố như thế, các đôi bạn Kitô hữu sẽ có thể duy trì ý thức sống động về ảnh hưởng độc đáo mà ân sủng Bí tích Hôn phối tác động trên mọi thực tại của đời sống vợ chồng – kể cả tính dục. ân huệ của Thánh Thần, được các đôi bạn đón nhận và đáp lại, giúp họ sống tính dục con người theo dự phóng của Thiên Chúa, như một dấu chỉ của tình yêu hiệp nhất và sinh hoa trái của Đức Kitô đối với Hội thánh của Người.

Trong số các điều kiện cần thiết ấy, cũng phải kể đến sự hiểu biết về thân xác và các nhịp điệu sinh sản của nó. Vì thế, cần làm mọi cách để bảo đảm rằng kiến thức này được phổ biến đến mọi đôi bạn, và trước hết là cho giới trẻ, qua việc thông tin và giáo dục rõ ràng, kịp thời và nghiêm túc, do các đôi bạn, bác sĩ và chuyên gia đảm trách. Kiến thức ấy phải dẫn đến việc giáo dục về sự tự chủ – từ đó phát sinh nhu cầu đích thực của nhân đức khiết tịnh và việc đào luyện thường xuyên trong nhân đức ấy. Theo cái nhìn Kitô giáo, khiết tịnh không có nghĩa là phủ nhận hay xem thường tính dục con người, nhưng đúng hơn là một năng lực thiêng liêng, biết bảo vệ tình yêu khỏi những nguy cơ của tính ích kỷ và tính hung hăng, để hướng tình yêu đến sự viên mãn đích thực của nó

Với trực giác sâu sắc về sự khôn ngoan và tình yêu, Đức Phaolô VI đã diễn tả kinh nghiệm của biết bao đôi bạn khi ngài viết trong Thông điệp Humanae Vitae: “Việc chế ngự bản năng bằng lý trí và ý chí tự do chắc chắn đòi hỏi một hành trình khổ chế, để những biểu hiện tình cảm trong đời sống hôn nhân được đặt vào trật tự đúng đắn, đặc biệt là trong việc thực hành tiết dục định kỳ. Tuy nhiên, kỷ luật này, vốn gắn liền với sự trong sạch của đôi vợ chồng, không những không làm tổn hại tình yêu hôn nhân, mà còn nâng tình yêu ấy lên một giá trị nhân bản cao hơn. Kỷ luật ấy đòi hỏi một nỗ lực liên tục, nhưng nhờ ảnh hưởng tích cực của nó, các đôi vợ chồng phát triển toàn diện nhân cách của mình, được làm phong phú bằng các giá trị thiêng liêng. Nó mang lại cho đời sống gia đình hoa trái của sự thanh thản và bình an, đồng thời giúp giải quyết các vấn đề khác. Kỷ luật ấy khơi dậy sự quan tâm đến người bạn đời, giúp loại bỏ tính ích kỷ – kẻ thù của tình yêu chân thật – và đào sâu ý thức trách nhiệm trong việc chu toàn bổn phận. Nhờ đó, cha mẹ có được khả năng ảnh hưởng sâu sắc và hiệu quả hơn trong việc giáo dục con cái” (Humanae Vitae, số 21).

Hành trình luân lý của đôi bạn

34. Việc có một cái nhìn đúng đắn về trật tự luân lý – về các giá trị và các chuẩn mực của nó – luôn luôn là điều rất quan trọng; và tầm quan trọng ấy càng gia tăng khi việc tuân giữ trở nên khó khăn và nghiêm trọng hơn.

Chính vì trật tự luân lý mạc khải và đề xuất dự phóng của Thiên Chúa Tạo Hóa, nên nó không thể là điều làm tổn thương con người hay mang tính phi nhân vị. Trái lại, vì đáp ứng những nhu cầu sâu xa nhất của con người – vốn được Thiên Chúa tạo dựng – trật tự luân lý đặt mình vào việc phục vụ cho sự viên mãn nhân tính, với tình yêu vừa tinh tế vừa ràng buộc mà chính Thiên Chúa linh hứng, nâng đỡ và hướng dẫn mọi thụ tạo tiến về hạnh phúc đích thực của mình.

Con người, được mời gọi sống cách có trách nhiệm theo kế hoạch khôn ngoan và yêu thương của Thiên Chúa, là một hữu thể lịch sử – được hình thành từng ngày qua những chọn lựa tự do của mình. Vì thế, con người nhận biết, yêu mến và thực thi điều thiện luân lý theo những giai đoạn trưởng thành.

Trong đời sống luân lý của mình, các đôi bạn cũng được mời gọi bước vào một hành trình không ngừng nghỉ, được nâng đỡ bởi khát vọng chân thành và tích cực muốn ngày càng hiểu rõ hơn các giá trị mà luật Thiên Chúa gìn giữ và thăng tiến, cùng với ý chí ngay thẳng và quảng đại để hiện thực hóa các giá trị ấy trong những chọn lựa cụ thể. Tuy nhiên, họ không thể xem luật luân lý như một lý tưởng thuần túy để đạt được trong tương lai, nhưng phải đón nhận như một mệnh lệnh của Đức Kitô – một mệnh lệnh thúc đẩy họ dấn thân vượt qua khó khăn. “Vì thế, cái gọi là ‘luật tiệm tiến’ hay ‘lộ trình tiệm tiến’ không thể bị đồng hóa với ‘tính tiệm tiến của luật’, như thể có nhiều cấp độ hay nhiều hình thức giới luật khác nhau trong luật Thiên Chúa dành cho những người và hoàn cảnh khác nhau. Tất cả các đôi bạn, theo dự phóng của Thiên Chúa, đều được mời gọi nên thánh trong đời sống hôn nhân. Ơn gọi cao cả này được thực hiện trong mức độ mà con người, với tư cách là một nhân vị, có thể đáp lại mệnh lệnh của Thiên Chúa với tâm hồn thanh thản, tín thác vào ân sủng của Ngài và vào chính ý chí của mình” (Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng kết thúc Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ VI, 25/10/1980: ASS 72 [1980], tr. 1083). Cũng trong đường hướng ấy, phương pháp sư phạm của Hội thánh mời gọi các đôi bạn trước tiên phải nhận biết rõ ràng giáo huấn của Thông điệp Humanae Vitae như là quy chuẩn cho việc sống tính dục của họ, và chân thành dấn thân thiết lập những điều kiện cần thiết để tuân giữ quy chuẩn ấy.

Phương pháp sư phạm này – như Thượng Hội đồng Giám mục đã nhấn mạnh – bao trùm toàn bộ đời sống hôn nhân. Vì thế, sứ mạng truyền sinh cần được hội nhập vào sứ mạng toàn diện của đời sống Kitô hữu, vốn không thể đạt đến sự phục sinh nếu không đi qua thập giá. Trong bối cảnh ấy, có thể hiểu rằng đức hy sinh không thể bị loại khỏi đời sống gia đình; trái lại, phải được đón nhận cách chân thành, để tình yêu vợ chồng được đào sâu và trở thành nguồn mạch của niềm vui thâm sâu.

Hành trình chung này đòi hỏi sự suy tư, thông tin và một nền giáo dục thích hợp nơi các linh mục, tu sĩ và giáo dân đang dấn thân trong mục vụ gia đình. Tất cả họ có thể nâng đỡ các đôi bạn trong hành trình nhân bản và thiêng liêng của mình – một hành trình bao gồm ý thức về tội lỗi, cam kết chân thành tuân giữ luật luân lý, và việc lãnh nhận thừa tác vụ hòa giải. Cũng cần ghi nhớ rằng trong sự thân mật vợ chồng, ý chí của cả hai người đều liên quan, nhưng họ được mời gọi đạt đến sự hòa hợp giữa tâm thức và hành vi – điều này đòi hỏi không ít kiên nhẫn, cảm thông và thời gian. Điều đặc biệt quan trọng trong lãnh vực này là sự hiệp nhất giữa các phán đoán luân lý và mục vụ của các linh mục: sự hiệp nhất ấy cần được tìm kiếm và bảo đảm cách cẩn trọng, để các tín hữu không phải chịu đựng sự bất an trong lương tâm (x. Humanae Vitae, số 28).

Hành trình của các đôi bạn sẽ được thuận lợi hơn nếu – trong lòng quý trọng giáo huấn của Hội thánh và tín thác vào ân sủng của Đức Kitô – họ được nâng đỡ và đồng hành bởi các mục tử và toàn thể cộng đoàn Hội thánh, để có thể khám phá và cảm nghiệm giá trị giải phóng và thăng tiến của tình yêu đích thực mà Tin mừng trao ban và điều răn yêu thương của Chúa mời gọi.

Khơi dậy những xác tín và trao ban sự trợ giúp cụ thể

35. Trước vấn đề điều hòa sinh sản cách trung thực, cộng đoàn Hội thánh trong thời điểm hiện nay cần đảm nhận sứ mạng khơi dậy những xác tín và trao ban sự trợ giúp cụ thể cho những ai muốn sống vai trò làm cha và làm mẹ một cách thực sự có trách nhiệm.

Trong lãnh vực này, Hội thánh vui mừng trước những thành quả đạt được từ các nghiên cứu khoa học nhằm hiểu biết chính xác hơn về nhịp sinh sản của người phụ nữ, và khuyến khích việc mở rộng cũng như đào sâu các nghiên cứu ấy. Đồng thời, Hội thánh cũng tha thiết kêu gọi, với một sức mạnh mới, tinh thần trách nhiệm nơi tất cả những ai – bác sĩ, chuyên gia, cố vấn hôn nhân, nhà giáo dục và các đôi bạn – có khả năng thực sự giúp các đôi bạn sống tình yêu của mình cách đúng đắn, trong sự tôn trọng cấu trúc và mục đích của hành vi vợ chồng vốn diễn tả tình yêu ấy. Điều này đòi hỏi một cam kết rộng rãi hơn, dứt khoát hơn và có hệ thống hơn, nhằm giúp mọi người nhận biết, trân trọng và áp dụng các phương pháp tự nhiên trong việc điều hòa sinh sản (x. Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn với các đại biểu của Trung tâm Liên lạc des Équipes de Recherche, số 9, ngày 03/11/1979: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, II 2 [1979], tr. 1035; xem thêm Diễn văn với các tham dự viên Đại hội lần thứ nhất về Gia đình Châu Phi và Châu Âu, ngày 15/01/1981: L’Osservatore Romano, 16/01/1981).

Một chứng tá quý giá có thể và phải được thực hiện bởi những đôi bạn, nhờ sự dấn thân chung trong việc tiết chế định kỳ, đã đạt đến một trách nhiệm cá vị trưởng thành hơn trước tình yêu và sự sống. Như Đức Phaolô VI đã viết: “Chính Thiên Chúa trao cho họ một sứ mạng: làm cho con người nhận thấy sự thánh thiện và dịu dàng của lề luật – lề luật kết hợp tình yêu vợ chồng với việc họ cộng tác vào chính tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch sự sống con người” (Humanae Vitae, số 25).

2) Việc giáo dục trong gia đình

Quyền và bổn phận giáo dục của cha mẹ

Sứ mạng giáo dục bắt nguồn từ ơn gọi nguyên thủy của đôi bạn là tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa: khi sinh ra một ngôi vị mới trong tình yêu và vì tình yêu – một ngôi vị mang nơi mình ơn gọi lớn lên và phát triển – chính cha mẹ, vì thế, đảm nhận trách nhiệm nâng đỡ hữu hiệu để ngôi vị ấy sống một cuộc đời nhân bản trọn vẹn. Như Công đồng Vaticano II đã nhắc lại: “Vì đã truyền ban sự sống cho con cái, cha mẹ có bổn phận hết sức hệ trọng là giáo dục chúng; do đó, họ phải được xem là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu. Vai trò giáo dục này quan trọng đến mức, nếu thiếu vắng, thì khó có thể được bổ khuyết. Thật vậy, chính cha mẹ phải kiến tạo trong lòng gia đình một bầu khí được sinh động bởi tình yêu và lòng sùng kính Thiên Chúa và con người, nhằm thúc đẩy việc giáo dục toàn diện cho con cái về phương diện cá vị và xã hội. Gia đình vì thế là trường học đầu tiên của các nhân đức xã hội mà mọi cộng đồng đều cần đến” (Gravissimum Educationis, số 3).

Quyền và bổn phận giáo dục của cha mẹ được xác định là thiết yếu – vì gắn liền với việc truyền sinh sự sống con người; là nguyên thủy và chính yếu – so với sứ mạng giáo dục của những người khác, bởi mối tương quan yêu thương vô song giữa cha mẹ và con cái; là không thể thay thế và bất khả nhượng – nên không thể hoàn toàn ủy thác cho người khác, cũng không thể để người khác tiếm quyền.

Ngoài những đặc điểm ấy, không thể quên rằng yếu tố căn bản nhất làm nên phẩm chất của sứ mạng giáo dục nơi cha mẹ chính là tình yêu của cha và của mẹ. Tình yêu ấy đạt đến sự viên mãn trong công trình giáo dục – như một sự phục vụ trọn vẹn cho sự sống. Tình yêu của cha mẹ từ nguồn mạch trở thành linh hồn và do đó trở nên chuẩn mực: truyền cảm hứng và hướng dẫn toàn bộ hành động giáo dục cụ thể, làm phong phú nó bằng những giá trị của sự dịu dàng, kiên trì, nhân hậu, phục vụ, vị tha, tinh thần hy sinh – vốn là hoa trái quý giá nhất của tình yêu.

Giáo dục hướng đến những giá trị thiết yếu của đời sống con người

37. Ngay cả giữa những khó khăn của công việc giáo dục – vốn ngày nay thường trở nên hệ trọng hơn – các bậc cha mẹ vẫn phải tin tưởng và can đảm đào luyện con cái về những giá trị thiết yếu của đời sống con người. con trẻ cần được lớn lên trong một sự tự do đúng đắn trước của cải vật chất, biết chọn lựa một lối sống đơn sơ và tiết độ, xác tín rằng: “Con người có giá trị hơn vì những gì họ là, chứ không phải vì những gì họ có” (Gaudium et Spes, số 35).

Trong một xã hội bị lung lay và phân hóa bởi những căng thẳng và xung đột do sự đối đầu khốc liệt giữa các hình thức khác nhau của chủ nghĩa cá nhân và ích kỷ, con trẻ cần được nuôi dưỡng không chỉ bằng ý thức về công lý đích thực – vốn dẫn đến sự tôn trọng phẩm giá cá vị của mỗi người – mà còn, và thậm chí hơn thế nữa, bằng ý thức về tình yêu đích thực: như một sự quan tâm chân thành và phục vụ vô vị lợi đối với tha nhân, đặc biệt là những người nghèo khổ và thiếu thốn nhất. Gia đình là trường học đầu tiên và nền tảng của xã hội: như một cộng đoàn yêu thương, gia đình tìm thấy nơi việc tự hiến chính luật sống động hướng dẫn và làm cho nó lớn lên. Việc tự hiến – vốn truyền cảm hứng cho tình yêu giữa đôi bạn – trở thành mẫu mực và chuẩn mực cho việc tự hiến trong các mối tương quan giữa anh chị em và giữa các thế hệ cùng chung sống trong gia đình. Và tình hiệp thông cùng sự tham dự được sống mỗi ngày trong mái ấm – giữa những khoảnh khắc vui tươi và thử thách – chính là phương pháp sư phạm cụ thể và hiệu quả nhất để giáo dục con cái trong chân trời rộng lớn hơn của xã hội.

Việc giáo dục tình yêu như là sự tự hiến cũng là tiền đề không thể thiếu để các bậc cha mẹ có thể trao ban cho con cái một nền giáo dục giới tính rõ ràng và tế nhị. Trước một nền văn hóa phần lớn đang “tầm thường hóa” tính dục con người – vì giải thích và sống nó cách giản lược, nghèo nàn, chỉ gắn liền với thân xác và khoái lạc ích kỷ – sứ mạng giáo dục của cha mẹ cần kiên quyết hướng đến một nền văn hóa tính dục thực sự và trọn vẹn, mang chiều kích cá vị. Thật vậy, tính dục là một sự phong phú của toàn thể nhân vị – thân xác, cảm xúc và linh hồn – và biểu lộ ý nghĩa sâu xa của nó trong việc dẫn đưa con người đến với sự tự hiến trong tình yêu.

Việc giáo dục giới tính – một quyền và bổn phận cơ bản của cha mẹ – phải luôn được thực hiện dưới sự hướng dẫn cẩn trọng của họ, cả trong gia đình lẫn tại các trung tâm giáo dục do họ chọn lựa và giám sát. Theo nghĩa này, Hội thánh tái khẳng định nguyên tắc bổ trợ: các trường học phải tuân thủ nguyên tắc này khi cộng tác trong việc giáo dục giới tính, đặt mình trong chính tinh thần sống động vốn thúc đẩy các bậc cha mẹ.

Trong bối cảnh này, việc giáo dục nhân đức khiết tịnh là điều hoàn toàn không thể bỏ qua – vì đó là một nhân đức giúp phát triển sự trưởng thành đích thực của nhân vị và làm cho con người có khả năng tôn trọng và thăng tiến “ý nghĩa hôn phối” của thân xác. Hơn nữa, các bậc cha mẹ Kitô hữu cần dành sự quan tâm và chăm sóc đặc biệt, biết phân định các dấu chỉ của lời mời gọi từ Thiên Chúa để giáo dục con cái sống đời khiết tịnh – như một hình thức cao cả nhất của sự tự hiến, vốn làm nên chính ý nghĩa của tính dục con người.

Vì mối liên hệ mật thiết giữa chiều kích tính dục của nhân vị và các giá trị luân lý liên quan, sứ mạng giáo dục phải dẫn đưa con cái đến chỗ nhận biết và trân trọng các chuẩn mực luân lý như là sự bảo đảm cần thiết và quý giá cho một sự trưởng thành nhân vị có trách nhiệm trong lãnh vực tính dục con người.

Chính vì thế, Hội thánh kiên quyết phản đối một số hình thức thông tin giới tính tách biệt khỏi các nguyên tắc luân lý, vốn thường được phổ biến như bước dẫn nhập vào kinh nghiệm khoái lạc và như một sự kích thích làm mất đi sự bình an – ngay cả trong những năm tháng ngây thơ trong trắng – mở đường cho thói hư tật xấu.

Sứ mạng giáo dục và Bí tích Hôn phối

38. Đối với các bậc cha mẹ Kitô hữu, sứ mạng giáo dục – vốn bắt nguồn từ việc họ tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa – có một nguồn mạch mới mẻ và đặc thù nơi Bí tích Hôn phối. Bí tích này thánh hiến họ cho sứ mạng giáo dục Kitô giáo đích thực của con cái, mời gọi họ tham dự vào chính quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa Cha và Đức Kitô Mục Tử, cũng như vào tình mẫu tử của Hội thánh. Đồng thời, bí tích này làm phong phú họ bằng đức khôn ngoan, lời khuyên, đức can đảm và mọi ân huệ khác của Chúa Thánh Thần, để giúp con cái trưởng thành về nhân vị và về đời sống Kitô hữu.

Từ Bí tích Hôn phối, sứ mạng giáo dục lãnh nhận phẩm giá và ơn gọi trở thành một “thừa tác vụ” thực sự của Hội thánh, nhằm phục vụ việc xây dựng các chi thể của Người. Sự cao cả và huy hoàng của thừa tác vụ giáo dục nơi các bậc cha mẹ Kitô hữu lớn lao đến mức Thánh Tôma Aquinô không ngần ngại so sánh nó với thừa tác vụ của các linh mục: “Một số người truyền đạt và gìn giữ sự sống thiêng liêng bằng một thừa tác vụ hoàn toàn thiêng liêng – điều này thuộc về Bí tích Truyền chức; những người khác thực hiện điều đó trong cả đời sống thể lý và thiêng liêng – điều này xảy ra nơi Bí tích Hôn phối, trong đó người nam và người nữ kết hợp để sinh con và giáo dục chúng trong việc thờ phượng Thiên Chúa” (Summa contra Gentiles, IV, 58).

Một ý thức sống động và tỉnh thức về sứ mạng đã lãnh nhận qua Bí tích Hôn phối sẽ giúp các bậc cha mẹ Kitô hữu dấn thân với sự thanh thản và niềm tin lớn lao vào việc phục vụ giáo dục con cái, đồng thời với một ý thức trách nhiệm trước Thiên Chúa – Đấng kêu gọi và sai họ xây dựng Hội thánh nơi chính con cái của mình. Như thế, gia đình của những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, được quy tụ như một Hội thánh tại gia bởi Lời và Bí tích, sẽ trở nên – giống như Hội thánh hoàn vũ – vừa là người mẹ vừa là người thầy.

Kinh nghiệm đầu tiên về Hội thánh

39. Theo cái nhìn Kitô giáo và cái nhìn của Hội thánh, sứ mạng giáo dục đòi hỏi các bậc cha mẹ Kitô hữu phải truyền đạt cho con cái mọi nội dung cần thiết để các em từng bước trưởng thành trong trách nhiệm của mình. Cha mẹ sẽ tiếp nối các định hướng giáo dục đã được trình bày trước đó, với sự cẩn trọng, nhằm giúp con cái khám phá chiều sâu ý nghĩa mà đức tin và lòng bác ái của Đức Giêsu Kitô có thể dẫn đưa tới. Hơn nữa, ý thức rằng Thiên Chúa đã trao phó cho họ việc chăm sóc sự trưởng thành của một người con của Thiên Chúa, một người anh em của Đức Kitô, một đền thờ của Chúa Thánh Thần, một chi thể của Hội thánh – sẽ nâng đỡ các bậc cha mẹ Kitô hữu trong sứ mạng củng cố ân sủng của Thiên Chúa nơi linh hồn con cái mình.

Công đồng Vaticanô II đã xác định rõ nội dung của việc giáo dục Kitô giáo như sau: “Giáo dục Kitô giáo không chỉ nhằm đến sự trưởng thành nhân vị, mà trên hết, hướng đến việc giúp những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội từng bước được khai tâm vào mầu nhiệm cứu độ, ngày càng ý thức hơn về ân huệ đức tin đã lãnh nhận; học biết thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và sự thật (x. Ga 4,23), đặc biệt qua việc cử hành phụng vụ; được chuẩn bị để sống cuộc đời theo con người mới trong công lý và sự thánh thiện của chân lý (x. Ep 4,22–24), để đạt tới con người hoàn hảo, tầm vóc viên mãn của Đức Kitô (x. Ep 4,13), và góp phần vào sự lớn lên của Thân Thể Mầu Nhiệm. Đồng thời, ý thức về ơn gọi của mình, họ phải được huấn luyện để làm chứng cho niềm hy vọng đang có trong lòng (x. 1Pr 3,14), và góp phần thăng tiến thế giới theo tinh thần Kitô giáo.” (Gravissimum Educationis, số 2).

Thượng Hội đồng Giám mục, tiếp nhận và khai triển các định hướng của Công đồng, đã trình bày sứ mạng giáo dục của gia đình Kitô hữu như một thừa tác vụ đích thực, qua đó Tin mừng được truyền đạt và chiếu sáng. Đến mức chính đời sống gia đình trở thành một hành trình đức tin, một cuộc khai tâm Kitô giáo, và một trường học của việc bước theo Đức Kitô. Trong một gia đình ý thức được ân huệ này – như Đức Phaolô VI đã viết – “Mọi thành viên đều loan báo Tin mừng và đều được loan báo Tin mừng” (Evangelii Nuntiandi, số 71).

Chiếu theo mầu nhiệm giáo dục và qua chứng tá đời sống, các bậc cha mẹ là những sứ giả đầu tiên của Tin mừng đối với con cái. Hơn nữa, khi cùng con cái cầu nguyện, cùng nhau đọc Lời của Thiên Chúa, và đưa các em vào chiều sâu của Thân Thể Đức Kitô – qua Bí tích Thánh Thể và Hội thánh – bằng việc khai tâm Kitô giáo, cha mẹ trở thành những người sinh thành trọn vẹn: không chỉ sinh ra sự sống thể lý, mà còn sinh ra sự sống mới – nhờ sự canh tân của Thánh Thần – tuôn trào từ Thập giá và sự Phục sinh của Đức Kitô.

Để các bậc cha mẹ Kitô hữu có thể chu toàn cách xứng đáng thừa tác vụ giáo dục của mình, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã bày tỏ mong ước rằng một bản giáo lý thích hợp dành cho các gia đình sẽ được biên soạn – rõ ràng, ngắn gọn và dễ tiếp nhận đối với mọi người. Các Hội đồng Giám mục được tha thiết mời gọi dấn thân vào việc thực hiện bản giáo lý này.

Tương quan với các tác nhân giáo dục khác

40. Gia đình là cộng đoàn giáo dục đầu tiên, nhưng không phải là duy nhất hay độc quyền. Chính chiều kích cộng đoàn – cả dân sự lẫn Hội thánh – nơi con người đòi hỏi và dẫn đến một công trình giáo dục rộng lớn và phong phú hơn, vốn là kết quả của sự cộng tác có trật tự giữa các tác nhân giáo dục khác nhau. Những tác nhân này đều cần thiết, ngay cả khi mỗi bên có thể và phải đóng góp bằng năng lực và vai trò riêng của mình (x. Gravissimum Educationis, số 3).

Vì thế, sứ mạng giáo dục của gia đình Kitô hữu giữ một vị trí hết sức quan trọng trong công cuộc mục vụ toàn diện. Điều này đòi hỏi một hình thức cộng tác mới giữa cha mẹ và các cộng đoàn Kitô hữu, giữa các nhóm giáo dục khác nhau và các mục tử. Trong chiều hướng đó, việc canh tân trường Công giáo cần dành sự quan tâm đặc biệt đến cả cha mẹ học sinh và việc hình thành một cộng đoàn giáo dục toàn diện.

Quyền của cha mẹ trong việc chọn lựa một nền giáo dục phù hợp với đức tin tôn giáo của mình phải được bảo đảm cách trọn vẹn.

Hội thánh và Nhà nước có nghĩa vụ cung cấp cho các gia đình mọi sự hỗ trợ cần thiết, để họ có thể chu toàn cách xứng hợp sứ mạng giáo dục của mình. Vì lý do đó, cả Hội thánh lẫn Nhà nước phải kiến tạo và thúc đẩy những cơ chế và hoạt động mà các gia đình chính đáng yêu cầu; và sự hỗ trợ ấy phải tương xứng với những thiếu hụt của họ. Do đó, tất cả những ai đang đảm trách việc giáo dục trong xã hội không bao giờ được quên rằng chính Thiên Chúa đã thiết lập cha mẹ như những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của con cái, và quyền của họ là hoàn toàn bất khả xâm phạm.

Tuy nhiên, song song với quyền ấy là bổn phận hệ trọng của cha mẹ: đó là phải dấn thân cách sâu xa vào một mối tương quan thân tình và hiệu quả với các giáo viên và ban giám hiệu nhà trường.

Nếu trong trường học có những ý thức hệ trái ngược với đức tin Kitô giáo được giảng dạy, thì gia đình – cùng với các gia đình khác, và nếu có thể, qua các hiệp hội gia đình – phải nỗ lực hết sức và đầy khôn ngoan để giúp người trẻ không xa rời đức tin. Trong trường hợp này, gia đình cần được nâng đỡ cách đặc biệt bởi các mục tử, những vị không được quên rằng cha mẹ có quyền bất khả xâm phạm trong việc phó thác con cái của mình cho cộng đoàn Hội thánh.

Phục vụ sự sống dưới nhiều hình thức

41. Tình yêu phong nhiêu của vợ chồng được thể hiện trong việc phục vụ sự sống dưới nhiều hình thức, trong đó việc truyền sinh và giáo dục là những hình thức gần gũi, chuyên biệt và không thể thay thế. Thật vậy, mọi hành vi yêu thương đích thực đối với con người đều làm chứng và hoàn thiện sự phong nhiêu thiêng liêng của đời sống gia đình, bởi đó là sự thuận theo sức sống nội tâm sâu thẳm của tình yêu – vốn thúc đẩy con người hiến mình cho tha nhân.

Trong viễn tượng này – vốn giàu giá trị và đòi hỏi sự dấn thân nơi mọi người – những đôi bạn đang trải qua kinh nghiệm vô sinh thể lý sẽ đặc biệt tìm được nguồn cảm hứng.

Các gia đình Kitô hữu, trong đức tin, nhận biết mọi người đều là con cái của cùng một Cha trên trời, sẽ quảng đại đón nhận con cái của các gia đình khác, nâng đỡ và yêu thương họ không như người xa lạ, nhưng như những thành viên trong đại gia đình duy nhất của các con cái Thiên Chúa. Nhờ đó, các bậc cha mẹ Kitô hữu có thể mở rộng tình yêu của mình vượt ra ngoài những ràng buộc máu mủ, để nuôi dưỡng những mối liên kết được khơi nguồn từ Thánh Thần và lớn lên trong việc phục vụ cụ thể dành cho con cái của những gia đình khác – vốn thường thiếu thốn cả những điều thiết yếu nhất.

Các gia đình Kitô hữu sẽ sẵn lòng quảng đại hơn trong việc nhận nuôi và chăm sóc những con trẻ bị mồ côi cha mẹ hoặc bị cha mẹ bỏ rơi. Những con trẻ ấy – khi tìm lại được giá trị tình cảm của một mái ấm gia đình – sẽ có thể cảm nghiệm tình phụ tử yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa, được các bậc cha mẹ Kitô hữu làm chứng, và nhờ đó lớn lên với sự thanh thản và niềm tin vào cuộc sống. Về phần mình, toàn thể gia đình sẽ được làm phong phú bởi những giá trị thiêng liêng của một tình huynh đệ rộng mở hơn.

Sự phong nhiêu của gia đình cần được thể hiện qua “tính sáng tạo” không ngừng – một hoa trái kỳ diệu của Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng mở rộng đôi mắt tâm hồn để khám phá những nhu cầu và nỗi đau mới mẻ của xã hội chúng ta, và Đấng ban sức mạnh để đảm nhận và đáp ứng chúng. Trong bối cảnh ấy, một chân trời hành động rộng lớn được mở ra cho các gia đình: thực tế, còn đáng lo ngại hơn cả việc bỏ rơi con trẻ ngày nay là hiện tượng bị gạt ra bên lề xã hội và văn hóa – vốn ảnh hưởng nặng nề đến người cao tuổi, người bệnh, người khuyết tật, người nghiện ma túy, người từng bị giam giữ, v.v.

Bằng cách ấy, chân trời của vai trò làm cha và làm mẹ nơi các gia đình Kitô hữu được mở rộng vô cùng: tình yêu phong nhiêu thiêng liêng của họ bị thách đố bởi những thực tại ấy và bởi biết bao nhu cầu cấp bách khác của thời đại chúng ta. Cùng với các gia đình và qua họ, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục chạnh lòng thương xót đoàn dân đông đảo.

III. THAM GIA VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

Gia đình: tế bào đầu tiên và sống động của xã hội

42. “Vì Đấng Tạo Hóa muôn vật đã thiết lập hôn nhân như là nguyên lý và nền tảng của xã hội loài người”, nên gia đình đã trở thành “tế bào đầu tiên và sống động của xã hội” (Apostolicam Actuositatem, số 11).

Gia đình có mối liên hệ sống động và hữu cơ với xã hội, bởi chính gia đình là nền tảng và nguồn sinh dưỡng liên tục của xã hội qua sứ mạng phục vụ sự sống. Thật vậy, các công dân được sinh ra từ gia đình, và chính trong gia đình, họ tìm thấy ngôi trường đầu tiên của các nhân đức xã hội – vốn là linh hồn của sự sống và sự phát triển xã hội.

Như thế, chiếu theo bản chất và ơn gọi của mình, gia đình không khép kín trong chính mình, nhưng rộng mở đến với các gia đình khác và với xã hội, đảm nhận sứ mạng xã hội của mình.

Đời sống gia đình như một kinh nghiệm hiệp thông và tham gia

43. Chính kinh nghiệm hiệp thông và tham gia – vốn phải là đặc điểm của đời sống thường nhật trong gia đình – là sự đóng góp đầu tiên và nền tảng của gia đình cho xã hội.

Các mối tương quan giữa các thành viên trong cộng đoàn gia đình được truyền cảm hứng và hướng dẫn bởi luật “vô vị lợi”, vốn tôn trọng và thăng tiến phẩm giá cá vị nơi mỗi người như là giá trị duy nhất. Từ đó, các mối tương quan ấy trở thành sự đón tiếp thân tình, gặp gỡ và đối thoại, sự sẵn sàng vô vị lợi, phục vụ quảng đại và tình liên đới sâu xa.

Việc cổ võ một sự hiệp thông đích thực và trưởng thành giữa các thành viên trong gia đình trở thành mái trường đầu tiên và không thể thay thế của đời sống xã hội, là mẫu mực và động lực cho các mối tương quan cộng đồng rộng lớn hơn – được thấm nhuần tinh thần tôn trọng, công bằng, đối thoại và yêu thương.

Bằng cách ấy, như các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nhắc lại, gia đình là nơi khởi đầu và là phương tiện hữu hiệu nhất để nhân bản hóa và cá vị hóa xã hội. Gia đình cộng tác một cách độc đáo và sâu xa trong công cuộc xây dựng thế giới, làm cho một đời sống thực sự nhân bản trở nên khả thi – cách riêng qua việc gìn giữ và truyền đạt các nhân đức và các “giá trị”. Như Công đồng Vaticanô II đã viết: “Trong gia đình, các thế hệ khác nhau gặp gỡ và nâng đỡ nhau để đạt tới một sự khôn ngoan nhân bản trọn vẹn hơn, và để dung hòa các quyền của con người với những đòi hỏi khác của đời sống xã hội” (Gaudium et Spes, số 52).

Chính vì thế, khi đối diện với một xã hội ngày càng có nguy cơ trở nên phi cá vị và đồng hóa – và vì thế trở nên vô nhân đạo và mang tính phi nhân hóa – với những hệ quả tiêu cực từ nhiều hình thức “trốn tránh” như nghiện rượu, ma túy, và cả chủ nghĩa khủng bố, thì gia đình vẫn sở hữu và có thể tỏa sinh những năng lực phi thường: có khả năng kéo con người ra khỏi tình trạng vong thân, giúp họ duy trì ý thức về phẩm giá cá vị của mình, làm phong phú nhân tính nơi họ, và tích cực đưa sự độc đáo không thể lặp lại của họ vào trong kết cấu sống động của xã hội.

Sứ mạng xã hội và chính trị

44. Sứ mạng xã hội của gia đình chắc chắn không thể giới hạn trong việc truyền sinh và giáo dục, dù đó là hình thức đầu tiên và không thể thay thế để diễn tả sứ mạng ấy.

Các gia đình – dù riêng lẻ hay liên kết với nhau – đều có thể và phải dấn thân vào nhiều hoạt động phục vụ xã hội, cách riêng là vì lợi ích của người nghèo, và nói chung là vì tất cả những ai và những hoàn cảnh mà hệ thống an sinh xã hội và trợ giúp của các cơ quan công quyền không thể vươn tới.

Sự đóng góp của gia đình cho xã hội mang một nét độc đáo riêng, cần được nhận biết rõ hơn và được cổ võ cách mạnh mẽ hơn – đặc biệt khi con cái trưởng thành – để có thể huy động tối đa sự tham gia của mọi thành viên trong gia đình (x. Apostolicam Actuositatem, số 11).

Điều đáng lưu ý là cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của lòng hiếu khách trong xã hội chúng ta, dưới mọi hình thức: từ việc mở cửa ngôi nhà của mình – và hơn thế nữa là mở rộng trái tim – để đáp ứng những nhu cầu của anh chị em, cho đến việc dấn thân cụ thể nhằm bảo đảm rằng mỗi gia đình đều có một mái ấm riêng tư, như một môi trường tự nhiên để gìn giữ và làm cho gia đình được thăng tiến. Trên hết, gia đình Kitô hữu được mời gọi lắng nghe lời khuyến dụ của Thánh Tông đồ: “Anh em hãy ân cần trong việc tiếp đón” (Rm 12,13), và thực hành điều ấy bằng cách noi gương và chia sẻ lòng bác ái của Đức Kitô – Đấng đã đón nhận người anh em nghèo túng: “Ai cho một trong những người bé nhỏ này một chén nước lã, vì người ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em: người đó sẽ không mất phần thưởng của mình đâu” (Mt 10,42).

Sứ mạng xã hội của gia đình cũng được mời gọi thể hiện qua hình thức dấn thân chính trị: nghĩa là, các gia đình phải là những người đầu tiên hành động để bảo đảm rằng luật pháp và các thể chế của Nhà nước không những không xúc phạm, mà còn tích cực nâng đỡ và bảo vệ các quyền và bổn phận của gia đình. Theo nghĩa này, các gia đình cần lớn lên trong ý thức rằng mình là “chủ thể chính” (protagoniste) của cái gọi là “chính sách gia đình”, và đảm nhận trách nhiệm biến đổi xã hội. Nếu không, chính các gia đình sẽ trở thành nạn nhân đầu tiên của những tệ nạn mà họ đã thụ động đứng nhìn với thái độ thờ ơ. Do đó, lời mời gọi của Công đồng Vaticanô II vượt qua lối sống luân lý cá nhân chủ nghĩa cũng có giá trị đặc biệt đối với gia đình như một thực thể xã hội (x. Gaudium et Spes, số 30).

Xã hội phục vụ gia đình

45. Mối liên hệ mật thiết giữa gia đình và xã hội vừa yêu cầu gia đình phải cởi mở và tích cực tham gia vào đời sống xã hội cũng như vào tiến trình phát triển của xã hội, vừa đòi hỏi xã hội không được sao lãng sứ mạng nền tảng là tôn trọng và thăng tiến chính gia đình.

Chắc chắn, gia đình và xã hội có vai trò bổ trợ lẫn nhau trong việc bảo vệ và thăng tiến thiện ích của mọi người và của từng con người. Tuy nhiên, xã hội – và cụ thể hơn là Nhà nước – phải nhìn nhận rằng gia đình là “một cộng đoàn được hưởng quyền căn bản và ưu tiên” (Dignitatis Humanae, số 5); vì thế, trong các mối tương quan với gia đình, xã hội có nghĩa vụ nghiêm túc phải tuân thủ nguyên tắc bổ trợ.

Theo nguyên tắc ấy, Nhà nước không thể và không được tước đi của các gia đình những trách nhiệm mà họ có thể tự mình chu toàn tốt – dù đơn lẻ hay liên kết với nhau một cách tự nguyện – nhưng trái lại, phải tích cực tạo điều kiện và khơi dậy tối đa các sáng kiến có trách nhiệm của gia đình. Với xác tín rằng thiện ích của gia đình là một giá trị thiết yếu và không thể thay thế của cộng đồng dân sự, các cơ quan công quyền phải làm mọi điều có thể để bảo đảm rằng các gia đình nhận được đầy đủ sự hỗ trợ – về kinh tế, xã hội, giáo dục, chính trị và văn hóa – để có thể chu toàn các trách nhiệm của mình một cách thật sự nhân bản.

Hiến chương về Quyền của Gia đình

46. Lý tưởng về sự hỗ trợ và phát triển lẫn nhau giữa gia đình và xã hội thường va chạm – và ở mức độ nghiêm trọng – với thực tế là sự tách biệt, thậm chí là sự đối kháng giữa đôi bên.

Thật vậy, như Thượng Hội đồng Giám mục đã liên tục lên tiếng, tình cảnh mà rất nhiều gia đình tại nhiều quốc gia đang phải đối diện là hết sức đáng lo ngại, nếu không muốn nói là hoàn toàn tiêu cực: các thể chế và luật pháp đã bất công phủ nhận các quyền bất khả xâm phạm của gia đình và của chính nhân vị; xã hội, thay vì đặt mình phục vụ gia đình, lại tấn công cách thô bạo vào các giá trị và những đòi hỏi nền tảng của gia đình. Như thế, gia đình – vốn theo ý định của Thiên Chúa là tế bào nền tảng của xã hội, là chủ thể của các quyền và nghĩa vụ có trước Nhà nước và bất kỳ cộng đồng nào khác – lại trở thành nạn nhân của xã hội, của sự chậm trễ và trì trệ trong các can thiệp, và hơn nữa, của những bất công trắng trợn.

Chính vì thế, Hội thánh công khai và mạnh mẽ bảo vệ các quyền của gia đình trước những sự chiếm đoạt không thể chấp nhận được từ phía xã hội và Nhà nước. Đặc biệt, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nhắc lại – trong số nhiều quyền khác – những quyền sau đây của gia đình:

· Quyền được hiện hữu và phát triển như một gia đình, nghĩa là quyền của mọi người – đặc biệt là người nghèo – được thành lập một gia đình và có đủ phương tiện xứng hợp để duy trì và nâng đỡ gia đình ấy.

· Quyền thực thi trách nhiệm của mình trong việc truyền sinh và giáo dục con cái.

· Quyền được sống sự thân mật trong đời sống hôn nhân và gia đình.

· Quyền được bảo đảm sự ổn định của dây liên kết hôn nhân và của chính thể chế hôn nhân.

· Quyền tin, tuyên xưng và truyền bá đức tin của mình.

· Quyền giáo dục con cái theo truyền thống và các giá trị tôn giáo, văn hóa của mình, với các phương tiện, công cụ và thể chế cần thiết.

· Quyền được bảo đảm an toàn về thể lý, xã hội, chính trị và kinh tế – cách riêng đối với người nghèo và người bệnh.

· Quyền có nơi cư trú phù hợp để sống đời sống gia đình một cách xứng hợp.

· Quyền được phát biểu và được đại diện trước các cơ quan công quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa – cả trực tiếp lẫn thông qua các hiệp hội.

· Quyền liên kết với các gia đình và tổ chức khác để chu toàn sứ mạng của mình một cách thích hợp và kịp thời.

· Quyền bảo vệ trẻ vị thành niên khỏi các chất gây hại, khiêu dâm, nghiện rượu… thông qua các thể chế và luật pháp thích hợp.

· Quyền được hưởng những hình thức giải trí lành mạnh, góp phần thăng tiến các giá trị gia đình.

· Quyền của người cao tuổi được sống và chết một cách xứng đáng.

· Quyền di cư như một gia đình để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn (x. Propositio, số 42).

Đáp lại lời thỉnh cầu minh nhiên của Thượng Hội đồng Giám mục, Tòa Thánh sẽ cẩn trọng đào sâu các gợi ý này và soạn thảo một “Hiến chương về Quyền của Gia đình”, nhằm trình bày với các tổ chức và các cơ quan thẩm quyền hữu quan.

Ân sủng và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu

47. Sứ mạng xã hội vốn thuộc về mọi gia đình được gia đình Kitô hữu – được thiết lập trên nền tảng Bí tích Hôn phối – đảm nhận theo một cách thức mới mẻ và độc đáo. Khi đón nhận thực tại nhân loại của tình yêu vợ chồng với tất cả những hệ quả của nó, Bí tích Hôn phối vừa ban năng lực vừa ràng buộc các đôi bạn và các bậc cha mẹ Kitô hữu sống ơn gọi của mình như những người giáo dân, và vì thế “tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách xử lý các thực tại trần thế và sắp xếp chúng theo ý Thiên Chúa” (Lumen Gentium, số 31).

Sứ mạng xã hội và chính trị là một phần trong sứ vụ vương giả – tức là sứ vụ phục vụ – mà các đôi bạn Kitô hữu được tham dự nhờ Bí tích Hôn phối. Cùng lúc, họ lãnh nhận một mệnh lệnh không thể thoái thác và một ân sủng nâng đỡ và thúc đẩy họ thi hành sứ mạng ấy.

Theo cách đó, gia đình Kitô hữu được mời gọi làm chứng cho mọi người về sự trao ban quảng đại và vô vị lợi đối với các vấn đề xã hội, qua “sự chọn lựa ưu tiên” dành cho người nghèo và những người bị gạt ra bên lề. Vì thế, khi tiến bước trong hành trình theo Chúa với một tình bác ái đặc biệt dành cho người nghèo, gia đình Kitô hữu cần đặc biệt lưu tâm đến những người đói khát, túng thiếu, người già, người bệnh, người nghiện ngập và người vô gia cư.

Hướng đến một trật tự quốc tế mới

48. Trước chiều kích toàn cầu đang định hình các vấn đề xã hội ngày nay, gia đình nhận thấy sứ mạng của mình đối với sự phát triển xã hội được mở rộng theo một cách hoàn toàn mới: đó là cộng tác vào việc kiến tạo một trật tự quốc tế mới. Bởi lẽ, chỉ trong tinh thần liên đới toàn cầu, nhân loại mới có thể đương đầu và giải quyết những vấn đề to lớn và đầy kịch tính về công lý trên thế giới, về tự do của các dân tộc và về hòa bình của nhân loại.

Sự hiệp thông thiêng liêng giữa các gia đình Kitô hữu – được bén rễ trong đức tin và niềm hy vọng chung, và được làm sống động bởi đức ái – trở thành một năng lực nội tâm khơi nguồn, lan tỏa và phát triển công lý, hòa giải, tình huynh đệ và hòa bình giữa con người. Là “Hội thánh nhỏ bé” tại gia , gia đình Kitô hữu được mời gọi – theo hình ảnh của “Hội thánh hoàn vũ” – trở nên dấu chỉ hiệp nhất cho thế giới, và nhờ đó thi hành vai trò ngôn sứ của mình bằng cách làm chứng cho Vương quốc và hòa bình của Đức Kitô, Đấng mà toàn thể nhân loại đang hướng về.

Các gia đình Kitô hữu có thể thực hiện điều này qua sứ vụ giáo dục của mình: bằng cách trao cho con cái một mẫu mực đời sống được xây dựng trên các giá trị của sự thật, tự do, công lý và bác ái; bằng sự dấn thân tích cực và có trách nhiệm đối với sự phát triển nhân bản đích thực của xã hội và các thể chế của nó; và bằng cách hỗ trợ – qua nhiều hình thức khác nhau – các tổ chức chuyên trách các vấn đề liên quan đến trật tự quốc tế.

IV. THAM GIA VÀO ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ CỦA HỘI THÁNH

Gia đình trong mầu nhiệm Hội thánh

49. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của gia đình Kitô hữu là nhiệm vụ mang chiều kích Hội thánh: nghĩa là, gia đình được đặt để phục vụ việc xây dựng Nước Thiên Chúa trong dòng lịch sử, qua việc tham gia vào đời sống và sứ vụ của Hội thánh.

Để hiểu rõ hơn về nền tảng, nội dung và đặc tính của sự tham gia này, cần đào sâu những mối liên kết phong phú và sâu xa giữa Hội thánh và gia đình Kitô hữu – những mối liên kết làm cho gia đình Kitô hữu trở thành một “Hội thánh tại gia” (x. Lumen Gentium, số 11; Apostolicam Actuositatem, số 11; Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ VI, số 3 [26/09/1980]: AAS 72 [1980], tr. 1008) – để gia đình, theo cách riêng của mình, trở nên một hình ảnh sống động và một biểu hiện lịch sử của chính mầu nhiệm Hội thánh.

Trước hết, chính Hội thánh Mẹ là Đấng sinh thành, giáo dục và xây dựng gia đình Kitô hữu, khi thực thi nơi họ sứ mạng cứu độ mà Hội thánh đã lãnh nhận từ chính Chúa của mình. Qua việc loan báo Lời của Thiên Chúa, Hội thánh mạc khải cho gia đình Kitô hữu căn tính đích thực của họ – họ là ai và được mời gọi trở thành ai theo ý định của Thiên Chúa. Qua việc cử hành các bí tích, Hội thánh làm phong phú và củng cố gia đình Kitô hữu bằng ân sủng của Đức Kitô, để họ được thánh hóa vì vinh quang của Chúa Cha. Qua việc không ngừng công bố giới răn mới của đức ái, Hội thánh làm sinh động và hướng dẫn gia đình Kitô hữu trong sứ vụ phục vụ tình yêu, để họ có thể noi gương và tái hiện chính tình yêu hiến dâng và hy sinh mà Đức Giêsu dành cho toàn thể nhân loại.

Đồng thời, gia đình Kitô hữu được tháp nhập sâu xa vào mầu nhiệm của Hội thánh đến mức, theo cách riêng của mình, họ trở thành những người tham dự vào chính sứ mạng cứu độ của Hội thánh. Các đôi bạn và các bậc cha mẹ Kitô hữu, nhờ Bí tích Hôn phối, “trong bậc sống và trong chức năng của mình, có một ân huệ riêng giữa Dân Thiên Chúa” (Lumen Gentium, số 11). Vì thế, họ không chỉ “đón nhận” tình yêu của Đức Kitô để trở thành một cộng đoàn “được cứu độ”, mà còn được mời gọi “trao ban” tình yêu ấy cho anh chị em mình, để trở thành một cộng đoàn “cứu độ”. Như vậy, trong khi là hoa trái và dấu chỉ của sự phong nhiêu siêu nhiên nơi Hội thánh, gia đình Kitô hữu còn là biểu tượng, chứng tá và sự tham dự vào vai trò làm mẹ của Hội thánh (x. ibid., 41).

Một nhiệm vụ mang tính Hội thánh riêng biệt và độc đáo

50. Gia đình Kitô hữu được mời gọi tham gia cách sống động và có trách nhiệm vào sứ mạng của Hội thánh theo một cách thức riêng biệt và độc đáo. Nghĩa là, bằng chính sự hiện hữu và hành động của mình như một cộng đoàn thân mật của sự sống và tình yêu, gia đình tự đặt mình phục vụ Hội thánh và xã hội.

Khi gia đình Kitô hữu là một cộng đoàn, trong đó các mối dây liên kết được Đức Kitô canh tân nhờ đức tin và các bí tích, thì sự tham gia của gia đình vào sứ mạng của Hội thánh cũng phải mang chiều kích cộng đoàn. Nghĩa là, vợ chồng như một đôi bạn, cha mẹ và con cái như một gia đình, cùng nhau sống sứ vụ phục vụ Hội thánh và thế giới. Họ được mời gọi trở nên “một lòng một ý trong đức tin” (x. Cv 4,32), nhờ cùng một tinh thần tông đồ làm sinh động họ và nhờ sự cộng tác thúc đẩy họ dấn thân vào các công việc phục vụ cộng đoàn Hội thánh và xã hội dân sự.

Gia đình Kitô hữu xây dựng Nước Thiên Chúa trong lịch sử qua chính những thực tại thường nhật gắn liền với bậc sống của mình. Chính trong tình yêu vợ chồng và gia đình – được sống trong sự phong phú phi thường của các giá trị và những đòi hỏi về tính trọn vẹn, độc hữu, trung tín và phong nhiêu (x. Đức Phaolô VI, Humanae Vitae, số 9) – mà sự tham gia của gia đình Kitô hữu vào sứ mạng ngôn sứ, tư tế và vương giả của Đức Giêsu Kitô và Hội thánh của Người được biểu lộ và thực hiện. Tình yêu và sự sống, vì thế, trở thành hạt nhân của sứ mạng cứu độ của gia đình Kitô hữu trong Hội thánh và cho Hội thánh.

Công đồng Vaticanô II đã nhắc lại điều này khi viết: “Gia đình sẽ quảng đại chia sẻ những của cải thiêng liêng của mình với các gia đình khác. Vì thế, gia đình Kitô hữu, được sinh ra từ hôn nhân như hình ảnh và sự tham dự vào giao ước yêu thương giữa Đức Kitô và Hội thánh, sẽ biểu lộ cho mọi người thấy sự hiện diện sống động của Đấng Cứu Thế trần gian và bản chất đích thực của Hội thánh, qua tình yêu, sự phong nhiêu quảng đại, sự hiệp nhất và trung tín của đôi bạn, cũng như qua sự cộng tác yêu thương của mọi thành viên trong gia đình” (Gaudium et Spes, số 48).

Sau khi đặt nền tảng cho sự tham gia của gia đình Kitô hữu vào sứ mạng của Hội thánh, giờ đây cần minh họa nội dung của sự tham gia ấy theo ba chiều kích thống nhất nơi Đức Giêsu Kitô – Tư tế, Tiên tri và Vương đế – để trình bày gia đình Kitô hữu như: 1) Một cộng đoàn tin và loan báo Tin mừng, 2) Một cộng đoàn đối thoại với Thiên Chúa, 3) Một cộng đoàn phục vụ con người.

1) Gia đình Kitô hữu – cộng đoàn tin và loan báo Tin mừng

Đức tin: khám phá và chiêm ngưỡng dự phóng của Thiên Chúa dành cho gia đình.

51. Khi tham dự vào đời sống và sứ mạng của Hội thánh – Hội thánh luôn cung kính lắng nghe Lời Thiên Chúa và công bố Lời ấy với lòng tin tưởng vững vàng (x. Dei Verbum, số 1) – gia đình Kitô hữu sống sứ mạng ngôn sứ của mình bằng cách đón nhận và loan báo Lời của Thiên Chúa. Nhờ đó, gia đình ngày càng trở nên một cộng đoàn tin và loan báo Tin mừng.

Các đôi bạn và các bậc cha mẹ Kitô hữu cũng được mời gọi sống “sự vâng phục của đức tin” (x. Rm 16,26). Họ được kêu gọi đón nhận Lời của Thiên Chúa Kitô, Đấng mạc khải cho họ sự mới mẻ tuyệt vời – tức là Tin mừng – về đời sống hôn nhân và gia đình, vốn đã được chính Đức Kitô thánh hóa và làm cho nên thánh. Thật vậy, chỉ trong đức tin, họ mới có thể khám phá và chiêm ngưỡng với lòng biết ơn vui mừng phẩm giá cao cả mà Thiên Chúa đã muốn nâng hôn nhân và gia đình lên, biến chúng thành dấu chỉ và nơi chốn của giao ước tình yêu giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Giêsu Kitô và Hội thánh, Hiền thê của Người.

Ngay cả việc chuẩn bị cho hôn nhân Kitô giáo cũng mang tính chất của một hành trình đức tin: đó là một cơ hội đặc biệt để các đôi bạn trẻ tái khám phá và đào sâu đức tin đã lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội và được nuôi dưỡng bằng nền giáo dục Kitô giáo. Nhờ đó, họ nhận ra và tự do đón nhận ơn gọi bước theo Đức Kitô và phục vụ Nước Thiên Chúa trong bậc sống hôn nhân.

Khoảnh khắc nền tảng của đức tin nơi các đôi bạn chính là việc cử hành Bí tích Hôn phối – vốn mang bản chất sâu xa là việc công bố trong Hội thánh Tin mừng về tình yêu phu thê. Chính Lời của Thiên Chúa “mạc khải” và “hoàn tất” dự phóng khôn ngoan và yêu thương của Thiên Chúa dành cho đôi bạn, đưa họ vào sự tham dự mầu nhiệm và thực sự vào chính tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nếu tự thân việc cử hành Bí tích Hôn phối là một việc công bố Lời của Thiên Chúa, thì đối với tất cả những người tham dự và cử hành – dưới nhiều hình thức khác nhau – đó phải là một “lời tuyên xưng đức tin” được thực hiện trong và cùng với Hội thánh, cộng đoàn các tín hữu.

Lời tuyên xưng đức tin này cần được kéo dài trong suốt hành trình sống của đôi bạn và gia đình. Thật vậy, Thiên Chúa – Đấng đã kêu gọi họ “đến với” đời sống vợ chồng – vẫn tiếp tục kêu gọi họ “trong” chính đời sống vợ chồng (x. Đức Phaolô VI, Humanae Vitae, số 25). Trong và qua những biến cố, những vấn đề, những khó khăn của cuộc sống thường ngày, Thiên Chúa đến với họ, mạc khải và đề nghị những “đòi hỏi” cụ thể của việc họ tham dự vào tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội thánh, trong hoàn cảnh đặc thù mà họ đang sống: gia đình, xã hội và Hội thánh.

Việc khám phá và vâng phục ý định của Thiên Chúa phải được thực hiện “cùng nhau” trong cộng đoàn hôn nhân và gia đình, qua chính kinh nghiệm nhân bản về tình yêu được sống trong Thánh Thần của Đức Kitô – giữa đôi bạn, cũng như giữa cha mẹ và con cái.

Vì thế, cũng như Hội thánh hoàn vũ, Hội thánh nhỏ bé tại gia cũng cần được loan báo Tin mừng liên tục và sâu xa; từ đó phát sinh bổn phận giáo dục thường xuyên trong đức tin.

Sứ vụ loan báo Tin mừng của gia đình Kitô hữu

52. Trong mức độ gia đình Kitô hữu đón nhận Tin mừng và trưởng thành trong đức tin, gia đình trở nên một cộng đoàn loan báo Tin mừng. Chúng ta hãy nghe lại lời Đức Phaolô VI: “Gia đình, cũng như Hội thánh, phải là một không gian trong đó Tin mừng được truyền đạt và từ đó Tin mừng được lan tỏa. Vì thế, trong thâm tâm của một gia đình ý thức về sứ mạng này, mọi thành viên đều loan báo Tin mừng và cũng được loan báo Tin mừng. Cha mẹ không chỉ truyền đạt Tin mừng cho con cái, mà còn có thể đón nhận từ chúng chính Tin mừng ấy được sống cách sâu xa. Và một gia đình như thế trở thành tác nhân loan báo Tin mừng cho nhiều gia đình khác và cho môi trường mà nó đang hiện diện” (Evangelii Nuntiandi, số 71).

Như Thượng Hội đồng đã lặp lại, tiếp nhận lời kêu gọi của tôi tại Puebla, tương lai của việc loan báo Tin mừng phần lớn tùy thuộc vào Hội thánh tại gia (x. Diễn văn tại Đại hội Giám mục Châu Mỹ Latinh lần III, IV, a [28/01/1979]: AAS 71 [1979], tr. 204). Sứ mạng tông đồ này của gia đình được bén rễ trong Bí tích Thánh Tẩy và nhận được từ ân sủng của Bí tích Hôn phối một sức mạnh mới để truyền đạt đức tin, thánh hóa và biến đổi xã hội hiện tại theo dự phóng của Thiên Chúa.

Gia đình Kitô hữu – đặc biệt là trong thời đại hôm nay – có một ơn gọi đặc biệt là làm chứng cho Giao ước Vượt Qua của Đức Kitô, bằng việc kiên trì tỏa sáng niềm vui của tình yêu và sự chắc chắn của niềm hy vọng, điều mà gia đình phải biết minh chứng: “Gia đình Kitô hữu lớn tiếng công bố những nhân đức hiện tại của Nước Thiên Chúa cũng như niềm hy vọng về sự sống vĩnh phúc mai sau” (Lumen Gentium, số 35).

Sự cần thiết tuyệt đối của việc huấn giáo trong gia đình hiện lên với sức mạnh đặc biệt trong những hoàn cảnh cụ thể mà Hội thánh, đáng tiếc, đang ghi nhận ở nhiều nơi: “Nơi nào luật pháp chống tôn giáo thậm chí tìm cách ngăn cản việc giáo dục đức tin; nơi nào sự vô tín ngưỡng lan rộng hoặc chủ nghĩa thế tục xâm lấn khiến cho việc trưởng thành tôn giáo thực sự trở nên bất khả thi, thì chính ‘Hội thánh tại gia’ này vẫn là môi trường duy nhất, trong đó con trẻ và giới trẻ có thể lãnh nhận một việc huấn giáo đích thực” (Thánh Gioan Phaolô II, Catechesi Tradendae, số 68).

Việc phục vụ của Hội thánh

53. Thừa tác vụ loan báo Tin mừng của các bậc cha mẹ Kitô hữu là độc đáo và không thể thay thế: nó mang những đặc điểm riêng của đời sống gia đình – được dệt nên bằng tình yêu, sự đơn sơ, tính cụ thể và chứng tá thường ngày (x. Catechesi Tradendae, số 36).

Gia đình có bổn phận đào luyện con cái bước vào đời sống, để mỗi người có thể chu toàn trọn vẹn sứ mạng theo ơn gọi đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Thật vậy, một gia đình biết mở ra với các giá trị siêu việt, vui tươi phục vụ anh chị em, chu toàn bổn phận với lòng quảng đại và trung tín, đồng thời ý thức về sự tham dự hằng ngày của mình vào mầu nhiệm Thập giá vinh hiển của Đức Kitô – sẽ trở thành chủng viện đầu tiên và tuyệt hảo của ơn gọi sống đời thánh hiến cho Nước Thiên Chúa.

Thừa tác vụ loan báo Tin mừng và huấn giáo của cha mẹ phải đồng hành với đời sống của con cái ngay cả ở lứa tuổi thiếu niên và thanh niên – khi, như thường xảy ra, các em chất vấn hoặc thậm chí từ chối đức tin Kitô giáo đã lãnh nhận trong những năm đầu đời. Cũng như trong Hội thánh, công cuộc loan báo Tin mừng không bao giờ tách rời khỏi những đau khổ của người tông đồ, thì trong gia đình Kitô hữu, cha mẹ cũng phải can đảm và giữ được sự thanh thản sâu xa trong tâm hồn để đối diện với những khó khăn mà thừa tác vụ loan báo Tin mừng của họ đôi khi gặp phải chính nơi con cái mình.

Không được quên rằng việc phục vụ Tin mừng của các đôi bạn và cha mẹ Kitô hữu là một việc phục vụ mang tính Hội thánh: nghĩa là, nó thuộc về toàn thể Hội thánh như một cộng đoàn đã được loan báo Tin mừng và đang loan báo Tin mừng. Vì được bén rễ và phát xuất từ sứ mạng duy nhất của Hội thánh, và vì được hướng đến việc xây dựng Thân Thể duy nhất của Đức Kitô (x. 1Cr 12,4tt; Ep 4,12tt), thừa tác vụ loan báo Tin mừng và huấn giáo của Hội thánh tại gia phải luôn duy trì sự hiệp thông mật thiết và được hòa hợp cách có trách nhiệm với tất cả các thừa tác vụ loan báo Tin mừng và huấn giáo khác đang hiện diện và hoạt động trong cộng đoàn Hội thánh – cả ở cấp giáo phận lẫn giáo xứ.

Rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo

54. Tính phổ quát không biên giới là chân trời đích thực của công cuộc loan báo Tin mừng, được sinh động từ bên trong bởi lòng nhiệt thành thừa sai. Thật vậy, đó chính là lời đáp trả trước mệnh lệnh rõ ràng và dứt khoát của Đức Kitô: “Anh em hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo” (Mc 16,15).

Đức tin và sứ mạng loan báo Tin mừng của gia đình Kitô hữu cũng mang sinh khí thừa sai Công giáo này. Bí tích Hôn phối – vốn tiếp nối và tái khẳng định bổn phận bảo vệ và truyền bá đức tin, được bén rễ từ Bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức (x. Lumen Gentium, số 11) – làm cho các đôi bạn và các bậc cha mẹ Kitô hữu trở thành chứng nhân của Đức Kitô “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8), những “thừa sai” chân chính của tình yêu và sự sống.

Ngay trong chính gia đình cũng có thể thực hiện một hình thức hoạt động thừa sai. Điều này xảy ra khi có thành viên vô tín hoặc sống đức tin cách bất nhất. Trong trường hợp ấy, những người thân trong gia đình phải trao ban một chứng tá sống động về đức tin của mình – một chứng tá có sức khơi dậy và nâng đỡ người ấy trên hành trình tiến tới sự gắn bó trọn vẹn với Đức Kitô, Đấng Cứu Độ (x. 1Pr 3,1-2).

Được thúc đẩy bởi tinh thần thừa sai vốn đã hiện diện ngay từ bên trong, Hội thánh tại gia được mời gọi trở thành một dấu chỉ sáng ngời về sự hiện diện của Đức Kitô và tình yêu của Người dành cho những người “xa cách” – cho các gia đình chưa tin và cả những gia đình Kitô hữu không còn sống phù hợp với đức tin đã lãnh nhận. Hội thánh tại gia được mời gọi “bằng chính gương mẫu và chứng tá của mình” để soi sáng “những người đang tìm kiếm chân lý” (x. Lumen Gentium, số 35; Apostolicam Actuositatem, số 11).

Cũng như vào buổi bình minh của Kitô giáo, Aquila và Priscilla đã xuất hiện như một cặp vợ chồng thừa sai (x. Cv 18; Rm 16,3-4), thì ngày nay Hội thánh vẫn tiếp tục làm chứng cho sự mới mẻ và sức sống không ngừng của mình qua sự hiện diện của các đôi vợ chồng và các gia đình Kitô hữu – những người, ít là trong một khoảng thời gian, đã lên đường đến các miền truyền giáo để loan báo Tin mừng, phục vụ con người bằng tình yêu của Đức Giêsu Kitô.

Các gia đình Kitô hữu đóng góp cách đặc biệt cho sứ mạng thừa sai của Hội thánh bằng việc vun trồng các ơn gọi thừa sai nơi con cái, cả trai lẫn gái (x. Ad Gentes, số 39); và nói chung hơn, bằng một công cuộc giáo dục giúp con cái “ngay từ thời thơ ấu, biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mọi người” (Apostolicam Actuositatem, số 30).

2. Gia đình Kitô hữu: cộng đoàn đối thoại với Thiên Chúa

Đền thánh tại gia của Hội thánh

55. Việc loan báo Tin mừng và việc đón nhận Tin mừng trong đức tin đạt đến sự viên mãn nơi việc cử hành các bí tích. Hội thánh – cộng đoàn tin và loan báo Tin mừng – cũng là một dân tư tế, được mặc lấy phẩm giá và được dự phần vào quyền năng của Đức Kitô, Thượng Tế của Giao Ước Mới và Vĩnh Cửu (x. Lumen Gentium, số 10).

Nhờ Bí tích Hôn phối, gia đình Kitô hữu cũng được tháp nhập vào Hội thánh – dân tư tế; trong đó gia đình bén rễ và được nuôi dưỡng, liên tục được Đức Giêsu làm cho sống động, và được Người mời gọi cũng như thúc đẩy bước vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa qua đời sống bí tích, qua việc hiến dâng chính cuộc sống và qua lời cầu nguyện.

Đây là sứ vụ tư tế mà gia đình Kitô hữu có thể và có bổn phận thực thi trong sự hiệp thông mật thiết với toàn thể Hội thánh, qua những thực tại thường ngày của đời sống hôn nhân và gia đình. Nhờ đó, gia đình Kitô hữu được mời gọi thánh hóa chính mình, đồng thời thánh hóa cộng đoàn Hội thánh và thế giới.

Hôn nhân: bí tích thánh hóa lẫn nhau và là hành vi phụng tự

56. Bí tích Hôn phối – vốn tiếp nối và xác định rõ ân sủng thánh hóa của Bí tích Rửa tội – là nguồn mạch riêng và phương thế độc đáo để thánh hóa các đôi bạn và gia đình Kitô hữu. Nhờ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, trong đó hôn nhân Kitô giáo được tái đưa vào, tình yêu phu phụ được thanh luyện và thánh hóa: “Chúa đã đoái thương chữa lành và nâng cao tình yêu này bằng một ân huệ đặc biệt của ân sủng và đức ái” (Gaudium et Spes, số 49).

Ơn ban của Đức Giêsu Kitô trong Bí tích Hôn phối không chỉ dừng lại ở giây phút cử hành bí tích, nhưng tiếp tục đồng hành với đôi vợ chồng suốt hành trình đời sống của họ. Công đồng Vaticanô II nhắc lại cách minh nhiên rằng Đức Kitô “ở lại với họ, để như Người đã yêu thương và hiến mình vì Hội thánh, thì vợ chồng cũng có thể yêu thương nhau cách trung tín, bền vững và trong sự trao hiến cho nhau… Vì thế, các đôi vợ chồng Kitô hữu được củng cố và được thánh hiến nhờ một bí tích đặc biệt, để sống xứng hợp với các bổn phận và phẩm giá của bậc sống hôn nhân. Nhờ sức mạnh của bí tích này, khi chu toàn trách nhiệm hôn nhân và gia đình, họ được Thánh Thần của Đức Kitô thấm nhuần, để toàn bộ đời sống được chan hòa đức tin, đức cậy và đức mến. Nhờ đó, họ không ngừng tiến tới sự hoàn thiện bản thân, sự thánh hóa lẫn nhau, và cùng nhau góp phần tôn vinh Thiên Chúa (x. Gaudium et Spes, số 48).

Ơn gọi nên thánh dành cho mọi người cũng được ngỏ lời cách đặc biệt với các đôi vợ chồng và các bậc cha mẹ Kitô hữu. Đối với họ, ơn gọi này được xác định cụ thể nhờ Bí tích Hôn phối đã được cử hành và được thể hiện trong những thực tại riêng của đời sống hôn nhân và gia đình (x. Lumen Gentium, số 41). Từ đó phát sinh ân sủng và đòi hỏi của một linh đạo hôn nhân và gia đình đích thực và sâu xa, được gợi hứng từ các chủ đề về công trình tạo dựng, giao ước, Thánh giá, Phục sinh và chiều kích dấu chỉ – những chủ đề mà Thượng Hội đồng đã nhiều lần suy tư.

Hôn nhân Kitô giáo, cũng như mọi bí tích – vốn “được thiết lập để thánh hóa con người, xây dựng Thân Thể Đức Kitô và hướng đến việc thờ phượng Thiên Chúa” (x. Sacrosanctum Concilium, số 59) – tự bản chất là một hành vi phụng vụ nhằm tôn vinh Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và trong Hội thánh. Khi cử hành bí tích này, đôi vợ chồng Kitô hữu tuyên xưng lòng biết ơn đối với Thiên Chúa vì ân huệ cao cả Người đã ban: đó là khả năng tái diễn trong đời sống hôn nhân và gia đình chính tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại và của Đức Giêsu dành cho Hội thánh – Hiền thê của Người.

Và cũng như từ Bí tích Hôn phối phát sinh cho đôi vợ chồng ân ban là bổn phận sống mỗi ngày sự thánh hóa họ đã lãnh nhận, thì từ chính bí tích ấy cũng tuôn đổ ân sủng và đòi hỏi luân lý phải biến đổi toàn bộ đời sống của họ thành một “hy tế thiêng liêng” liên lỉ (x. 1 Pr 2,5; Lumen Gentium, số 34). Những lời của Công đồng cũng được áp dụng cho các đôi vợ chồng và cha mẹ Kitô hữu – đặc biệt trong những thực tại trần thế và tạm thời vốn đặc trưng cho đời sống của họ: “Cũng vậy, các giáo dân thánh hiến chính thế giới này cho Thiên Chúa, khi họ thờ phượng Người bằng những việc làm thánh thiện ở bất cứ nơi nào” (Lumen Gentium, số 34).

Hôn nhân và Thánh Thể

57. Sứ vụ thánh hóa của gia đình Kitô giáo có gốc rễ đầu tiên nơi Bí tích Rửa tội và đạt đến sự diễn tả trọn vẹn nhất trong Bí tích Thánh Thể, vốn gắn bó mật thiết với hôn nhân Kitô giáo. Công đồng Vaticanô II đã nhắc lại mối tương quan đặc biệt giữa Bí tích Thánh Thể và hôn nhân khi khuyến nghị rằng hôn nhân “theo cách thông thường nên được cử hành trong Thánh lễ” (x. Sacrosanctum Concilium, số 78). Việc tái khám phá và đào sâu mối liên hệ ấy là điều hoàn toàn cần thiết nếu muốn hiểu và sống cách sâu xa hơn những ân sủng và trách nhiệm của hôn nhân và đời sống gia đình Kitô hữu.

Thánh Thể là chính nguồn mạch của hôn nhân Kitô giáo. Thật vậy, hy tế Thánh Thể tái diễn giao ước tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh, giao ước được đóng ấn bằng máu Người đổ ra trên Thập giá (x. Ga 19,34). Chính trong hy tế của Giao Ước Mới và Vĩnh Cửu này mà các đôi vợ chồng Kitô hữu tìm thấy cội nguồn từ đó giao ước hôn nhân của họ phát sinh, được định hình từ bên trong và được không ngừng làm cho sinh động. Vì là sự tái diễn hy tế tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội thánh, Thánh Thể là nguồn mạch của đức ái. Và trong ân ban Thánh Thể của đức ái, gia đình Kitô hữu tìm thấy nền tảng và linh hồn cho “sự hiệp thông” và “sứ mạng” của mình: Bánh Thánh Thể kết hợp các thành viên khác nhau của cộng đoàn gia đình thành một thân thể duy nhất, như một sự mạc khải và một sự tham dự vào sự hiệp nhất rộng lớn hơn của Hội thánh; và việc tham dự vào Mình “bị nộp” và Máu “đã đổ ra” của Đức Kitô trở thành nguồn mạch vô tận của động lực truyền giáo và tông đồ nơi gia đình Kitô hữu.

Bí tích Hoán cải và Hòa giải

58. Một phần thiết yếu và thường hằng trong sứ vụ thánh hóa của gia đình Kitô hữu là việc đón nhận lời mời gọi hoán cải của Tin mừng, lời mời gọi được gửi đến mọi Kitô hữu – những người không phải lúc nào cũng trung thành với sự “mới mẻ” của Bí tích Rửa tội, bí tích đã làm cho họ trở nên những “vị thánh”. Ngay cả gia đình Kitô hữu cũng không phải lúc nào cũng sống phù hợp với luật ân sủng và sự thánh thiện của Bí tích Rửa tội, vốn được tái công bố qua Bí tích Hôn phối.

Sự hối cải và tha thứ lẫn nhau trong gia đình Kitô hữu – vốn giữ một chỗ quan trọng trong đời sống hằng ngày – tìm thấy khoảnh khắc bí tích đặc thù trong sám hối Kitô giáo. Nói về các đôi vợ chồng, Đức Phaolô VI đã viết trong Thông điệp Humanae Vitae: “Nếu tội lỗi vẫn còn đeo bám họ, họ đừng nản lòng, nhưng hãy kiên trì và khiêm tốn chạy đến với lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng được tuôn đổ cách dồi dào trong Bí tích Thống hối” (số 25).

Việc cử hành bí tích này mang một ý nghĩa đặc biệt đối với đời sống gia đình: trong đức tin, các đôi vợ chồng và mọi thành viên trong gia đình khám phá rằng tội lỗi không chỉ đi ngược lại giao ước với Thiên Chúa, mà còn đi ngược lại chính giao ước hôn nhân và sự hiệp thông gia đình. Nhờ đó, họ được dẫn đến cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4), Đấng – khi tuôn đổ tình yêu mạnh mẽ hơn tội lỗi (x. Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia, số 13) – tái thiết và kiện toàn giao ước hôn nhân cũng như sự hiệp thông của gia đình.

Kinh nguyện gia đình

59. Hội thánh cầu nguyện cho gia đình Kitô hữu và giáo dục gia đình sống cách quảng đại và trung tín với ân huệ và sứ mạng tư tế đã lãnh nhận từ Đức Kitô, Thượng Tế. Thật vậy, chức tư tế do Bí tích Rửa tội ban cho các tín hữu – được sống trong hôn nhân–bí tích – trở thành nền tảng cho một ơn gọi và một sứ mạng tư tế nơi các đôi vợ chồng và gia đình, nhờ đó đời sống thường nhật của họ được biến đổi thành “những hy tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô” (x. 1 Pr 2,5). Điều này được thực hiện không chỉ qua việc cử hành Thánh Thể và các bí tích khác, hay qua việc hiến dâng bản thân cho vinh quang Thiên Chúa, mà còn qua đời sống cầu nguyện – tức là cuộc đối thoại cầu nguyện với Chúa Cha, nhờ Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần.

Kinh nguyện gia đình có những đặc tính riêng. Đó là kinh nguyện chung: vợ chồng cùng cầu nguyện với nhau, cha mẹ và con cái cùng sum họp cầu nguyện. Sự hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa trái, vừa là đòi hỏi của sự hiệp thông được ban qua các bí tích Rửa tội và Hôn phối. Những lời Đức Giêsu hứa về sự hiện diện của Người có thể được áp dụng cách đặc biệt cho các thành viên của gia đình Kitô hữu: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu dưới đất, hai người trong anh em hợp nhau cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ. Vì ở đâu có hai hoặc ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy giữa họ” (Mt 18,19–20).

Kinh nguyện gia đình có nội dung độc đáo là chính đời sống gia đình. Trong mọi hoàn cảnh khác nhau, đời sống ấy được hiểu như một ơn gọi đến từ Thiên Chúa và được thực hiện như một lời đáp trả hiếu thảo trước tiếng gọi của Người: niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và sầu khổ, ngày sinh và ngày kỷ niệm, lễ kỷ niệm hôn phối của cha mẹ, những cuộc ra đi, xa cách và trở về, những chọn lựa quan trọng và quyết định, cái chết của những người thân yêu… tất cả đều là những dấu chỉ của sự can thiệp yêu thương của Thiên Chúa vào lịch sử của gia đình; đồng thời cũng là những thời điểm thuận lợi cho lời tạ ơn, lời khẩn cầu và sự phó thác tin tưởng của gia đình vào bàn tay của Cha chung trên trời. Hơn nữa, phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu như một Hội thánh tại gia chỉ có thể được sống trọn vẹn nhờ sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa – và sự trợ giúp ấy sẽ không bao giờ thiếu, nếu được khẩn xin với lòng khiêm nhường và tín thác trong lời cầu nguyện.

Những nhà giáo dục về cầu nguyện

60. Dựa trên phẩm giá và sứ mạng của mình, các bậc cha mẹ Kitô hữu có nhiệm vụ đặc biệt là giáo dục con cái trong đời sống cầu nguyện, dẫn dắt chúng từng bước khám phá mầu nhiệm Thiên Chúa và bước vào cuộc đối thoại với Người. “Đặc biệt trong gia đình Kitô hữu – được phong phú nhờ ân sủng và sứ mạng của hôn nhân–bí tích – con cái ngay từ tuổi thơ phải học biết cảm nhận về Thiên Chúa, tôn kính Người và yêu thương tha nhân theo đức tin mà chúng đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội” (Gravissimum Educationis, số 5; x. Gioan Phaolô II, Catechesi Tradendae, số 36).

Một yếu tố nền tảng và không thể thay thế trong việc giáo dục cầu nguyện chính là gương sống cụ thể – chứng tá sống động của cha mẹ. Chỉ khi cha mẹ cầu nguyện cùng với con cái, trong khi thực thi chức tư tế vương giả của mình, họ mới có thể đi sâu vào tâm hồn con cái, để lại những dấu ấn mà các biến cố của cuộc đời sau này không thể xóa nhòa. Chúng ta hãy lắng nghe lời mời gọi của Đức Phaolô VI gửi đến các bậc cha mẹ: “Hỡi các bà mẹ, các bà có dạy cho con cái mình những lời cầu nguyện của người Kitô hữu không? Các bà có chuẩn bị cho con cái mình – cùng với các linh mục – lãnh nhận các bí tích đầu đời: xưng tội, rước lễ, thêm sức không? Khi chúng đau bệnh, các bà có tập cho chúng biết nghĩ đến Đức Kitô chịu đau khổ không? Có dạy chúng cầu xin sự trợ giúp của Đức Mẹ và các thánh không? Các bà có đọc Kinh Mân Côi trong gia đình không? Còn các ông bố, các ông có biết cầu nguyện với con cái mình, với toàn thể cộng đoàn gia đình, ít là đôi khi không? Gương sáng của quý vị – trong sự ngay thẳng của tư tưởng và hành động – được nâng đỡ bởi một vài lời cầu nguyện chung, có giá trị như một bài học sống động, như một hành vi phụng thờ đầy công phúc; nhờ đó, quý vị mang lại bình an cho mái ấm gia đình: Pax huic domui! (Bình an cho nhà này!) Hãy nhớ: chính bằng cách ấy, quý vị đang xây dựng Hội thánh!” (Diễn văn tại buổi tiếp kiến chung, 11/08/1976: Insegnamenti di Paolo VI, XIV [1976], tr. 640).

Kinh nguyện phụng vụ và kinh nguyện riêng

61. Giữa kinh nguyện của Hội thánh và kinh nguyện của từng tín hữu có một mối tương quan sâu xa và sống động, như Công đồng Vaticanô II đã khẳng định cách rõ ràng (x. Sacrosanctum Concilium, số 12). Một trong những mục tiêu quan trọng của kinh nguyện trong Hội thánh tại gia là giúp con cái bước đầu được dẫn nhập cách tự nhiên vào kinh nguyện phụng vụ của toàn thể Hội thánh – vừa như một sự chuẩn bị, vừa như một sự mở rộng vào đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Vì thế, cần có sự tham dự ngày càng sâu sắc của mọi thành viên trong gia đình Kitô hữu vào Thánh Thể – đặc biệt vào các ngày Chúa Nhật và các ngày lễ – cũng như vào các bí tích khác, nhất là các bí tích khai tâm Kitô giáo dành cho con cái. Các chỉ dẫn của Công đồng đã mở ra một khả năng mới cho gia đình Kitô hữu, vốn được xếp vào số những nhóm được khuyến khích cử hành cộng đoàn các Giờ Kinh Phụng Vụ (x. Institutio Generalis de Liturgia Horarum, số 27). Đồng thời, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi cử hành – ngay trong chính ngôi nhà của mình và theo hình thức phù hợp với các thành viên – các mùa và các ngày lễ của năm phụng vụ.

Để chuẩn bị và kéo dài trong gia đình việc thờ phượng được cử hành trong Hội thánh, gia đình Kitô hữu cũng thực hành kinh nguyện riêng, vốn có nhiều hình thức đa dạng. Sự phong phú này vừa là chứng tá cho sự sống động phi thường mà Thánh Thần ban cho kinh nguyện Kitô giáo, vừa đáp ứng những nhu cầu và hoàn cảnh khác nhau của những người hướng về Thiên Chúa. Ngoài kinh nguyện sớm tối, các thực hành sau đây được khuyến nghị cách rõ ràng – theo cả chỉ dẫn của các Nghị phụ Thượng Hội đồng: đọc và suy niệm Lời của Thiên Chúa, chuẩn bị lãnh nhận các bí tích, sùng kính và thánh hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, các hình thức tôn sùng khác nhau dành cho Đức Trinh Nữ Maria, chúc lành cho bữa ăn và thực hành các hình thức đạo đức bình dân.

Trong sự tôn trọng tự do của con cái Thiên Chúa, Hội thánh đã và vẫn tiếp tục đề nghị cho các tín hữu một số thực hành đạo đức với sự quan tâm và nhấn mạnh đặc biệt. Trong số đó, cần đặc biệt ghi nhớ việc đọc Kinh Mân Côi: “Giờ đây, tiếp nối các vị tiền nhiệm của chúng tôi, chúng tôi tha thiết khuyến khích việc đọc Kinh Mân Côi trong gia đình… Không còn nghi ngờ gì nữa, Chuỗi Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria là một trong những lời cầu nguyện chung tuyệt vời và hiệu quả nhất mà gia đình Kitô hữu được mời gọi khẩu tụng và tâm suy. Chúng tôi yêu thích hình ảnh này và tha thiết hy vọng rằng, khi cuộc gặp gỡ gia đình trở thành thời gian cầu nguyện, thì Kinh Mân Côi sẽ là một hình thức thường xuyên và được yêu mến của cuộc gặp gỡ ấy” (Phaolô VI, Marialis Cultus, số 52–54). Lòng sùng kính đích thực dành cho Đức Maria – được thể hiện qua sự gắn bó chân thành và quảng đại trong việc noi theo các thái độ thiêng liêng của Mẹ – là một phương thế đặc biệt để nuôi dưỡng sự hiệp thông yêu thương trong gia đình và phát triển linh đạo hôn nhân và gia đình. Mẹ, Mẹ của Đức Kitô và của Hội thánh, cũng là Mẹ cách đặc biệt của các gia đình Kitô hữu trong các Hội thánh tại gia.

Kinh nguyện và đời sống

62. Không bao giờ được quên rằng kinh nguyện là một phần cấu thành thiết yếu của đời sống Kitô hữu – được hiểu trong tính toàn vẹn và tính trung tâm của nó – và thậm chí thuộc về chính “nhân tính” của chúng ta. Kinh nguyện là “biểu hiện đầu tiên của sự thật sâu xa nơi con người, là điều kiện tiên quyết cho sự tự do đích thực của tinh thần” (Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Đền Mentorella, 29/10/1978: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, I [1978], tr. 78–79).

Vì thế, kinh nguyện không bao giờ được coi là một sự thoát ly khỏi những dấn thân hằng ngày, nhưng chính là động lực mạnh mẽ nhất giúp gia đình Kitô hữu đảm nhận và chu toàn cách trọn vẹn mọi trách nhiệm của mình như là tế bào đầu tiên và nền tảng của xã hội nhân loại. Theo nghĩa này, sự tham dự hiệu quả vào đời sống và sứ mạng của Hội thánh trong thế giới tỷ lệ thuận với sự trung tín và cường độ của kinh nguyện, nhờ đó gia đình Kitô hữu kết hợp với Cây Nho trổ sinh hoa trái là Đức Kitô, Chúa chúng ta (x. Apostolicam Actuositatem, số 4).

Từ sự kết hợp sống động với Đức Kitô – được nuôi dưỡng bởi phụng vụ, bởi việc hiến dâng chính mình và bởi kinh nguyện – cũng phát sinh sự phong nhiêu của gia đình Kitô hữu trong sứ vụ đặc thù là thăng tiến con người, một sứ vụ tự bản chất không thể không dẫn đến sự biến đổi của thế giới (x. Gioan Phaolô II, Diễn văn với các Giám mục Vùng Mục vụ XII của Hoa Kỳ, 21/09/1978: ASS 70 [1978], tr. 767).

3. Gia đình Kitô hữu, cộng đoàn phục vụ con người

Lệnh truyền mới của tình yêu

63. Hội thánh – dân tiên tri, tư tế và vương giả – có sứ mạng dẫn đưa mọi người đón nhận Lời của Thiên Chúa trong đức tin, cử hành và tuyên xưng Lời ấy trong các bí tích và trong kinh nguyện, và sau cùng diễn tả Lời ấy trong đời sống cụ thể, phù hợp với ân huệ và lệnh truyền mới của tình yêu.

Đời sống Kitô hữu không tìm thấy luật lệ của mình trong một bộ luật thành văn, nhưng trong hành động đích thân của Chúa Thánh Thần – Đấng làm sinh động và hướng dẫn người tín hữu – nghĩa là trong “luật của Thánh Thần ban sự sống trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 8,2). Chính “tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta” (Rm 5,5).

Điều này cũng đúng đối với đôi bạn và gia đình Kitô hữu: chuẩn mực và định hướng của họ chính là Thánh Thần của Đức Giêsu, Đấng được tuôn đổ vào tâm hồn họ nhờ việc cử hành Bí tích Hôn phối. Tiếp nối với Bí tích Rửa tội trong nước và trong Thánh Thần, Bí tích Hôn phối tái đề xuất luật Tin mừng của tình yêu và, nhờ ân ban của Thánh Thần, khắc sâu luật ấy hơn nữa trong tâm hồn vợ chồng Kitô hữu. Tình yêu của họ – được thanh luyện và cứu độ – là hoa trái của Thánh Thần đang hoạt động trong tâm hồn các tín hữu, và đồng thời cũng là lệnh truyền nền tảng của đời sống luân lý, đòi hỏi sự tự do có trách nhiệm của họ.

Như vậy, gia đình Kitô hữu được sinh động và hướng dẫn bởi luật mới của Thánh Thần và, trong sự hiệp thông mật thiết với Hội thánh – dân vương giả – được mời gọi “phụng sự” Thiên Chúa và “phục vụ” anh chị em trong tình yêu. Cũng như Đức Kitô thực thi vương quyền của Người bằng cách đặt mình phục vụ con người (x. Mc 10,45), người Kitô hữu tìm thấy ý nghĩa đích thực của việc tham dự vào vương quyền của Chúa mình khi chia sẻ tinh thần và thái độ phục vụ con người của chính Người. “Quyền năng này, Đức Kitô đã thông ban cho các môn đệ để họ được hưởng sự tự do vương giả và, bằng đời sống từ bỏ và thánh thiện, chiến thắng sự thống trị của tội lỗi nơi chính mình (x. Rm 6,12); hơn nữa, khi phục vụ Đức Kitô nơi tha nhân với lòng khiêm nhường và kiên nhẫn, họ dẫn đưa anh chị em mình đến với Đức Vua, Đấng mà phục vụ Người chính là trị vì. Thật vậy, Chúa cũng muốn mở rộng vương quốc của Người nhờ các tín hữu giáo dân – vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của ân sủng và thánh thiện, vương quốc của công bằng, tình yêu và bình an; trong vương quốc này, các thụ tạo cũng sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ của sự hư nát để được hưởng tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa (x. Rm 8,21)” (Lumen Gentium, số 36).

Nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi mỗi anh chị em

64. Được sinh động và nâng đỡ bởi lệnh truyền mới của tình yêu, gia đình Kitô hữu sống tinh thần đón nhận, tôn trọng và phục vụ mọi người, luôn nhìn nhận nơi họ phẩm giá của một nhân vị và của một người con Thiên Chúa.

Trước hết, điều này phải được thực hiện giữa đôi bạn với nhau và ngay trong gia đình, qua sự dấn thân hằng ngày vì lợi ích của họ và nhằm xây dựng một cộng đoàn đích thực của các nhân vị – được thiết lập và nuôi dưỡng bởi sự hiệp thông sâu xa của tình yêu. Sau đó, điều này cần được triển nở trong phạm vi rộng lớn hơn của cộng đoàn Hội thánh, nơi gia đình Kitô hữu được tháp nhập: nhờ đức ái của gia đình, Hội thánh có thể và phải đảm nhận một chiều kích gia đình hơn – nghĩa là thân tình hơn – bằng cách đón nhận một phong cách tương quan nhân bản và huynh đệ hơn.

Đức ái vượt khỏi phạm vi những anh chị em đồng đạo với mình, bởi “mọi người đều là anh em tôi”; nơi mỗi người – đặc biệt là người nghèo, yếu đuối, đau khổ và bị đối xử bất công – đức ái biết nhận ra khuôn mặt của Đức Kitô và một người anh chị em để yêu thương và phục vụ.

Để phục vụ con người theo tinh thần Tin mừng, gia đình cần mau mắn thực thi lời dạy của Công đồng Vaticanô II: “Để việc thực thi bác ái này vượt lên trên mọi nghi ngờ và thực sự được biểu lộ như thế, cần nhìn thấy nơi người thân cận hình ảnh của Thiên Chúa – Đấng mà họ được tạo dựng theo – và nhận ra nơi họ chính Đức Kitô là Chúa, Đấng thực sự đón nhận tất cả những gì ta trao ban cho người túng thiếu” (Apostolicam Actuositatem, số 8).

Trong khi xây dựng Hội thánh bằng đức ái, gia đình Kitô hữu cũng đặt mình phục vụ con người và thế giới, thực sự thực hiện việc “thăng tiến nhân bản” – điều đã được tóm lược trong Sứ điệp của Thượng Hội đồng Giám mục gửi các gia đình: “Một nhiệm vụ khác của gia đình là đào luyện con người biết yêu thương và sống tình yêu trong mọi tương quan với tha nhân, để gia đình không khép kín nơi chính mình nhưng luôn mở ra với cộng đồng, được thúc đẩy bởi ý thức công lý, sự quan tâm đến người khác và trách nhiệm của mình đối với toàn thể xã hội” (Sứ điệp của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ VI gửi các Gia đình Kitô hữu trong thế giới hiện đại, số 12, ngày 24/10/1980).

PHẦN THỨ TƯ – MỤC VỤ GIA ĐÌNH: CÁC GIAI ĐOẠN, CÁC CƠ CẤU, NHỮNG NGƯỜI PHỤ TRÁCH VÀ CÁC HOÀN CẢNH

I. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA MỤC VỤ GIA ĐÌNH

Hội thánh đồng hành với gia đình Kitô hữu trên hành trình của họ

65. Cũng như mọi thực tại sống động khác, gia đình được mời gọi phát triển và lớn lên. Sau thời gian chuẩn bị trong giai đoạn đính hôn và việc cử hành Bí tích Hôn phối, đôi bạn bước vào hành trình thường nhật, tiến dần tới việc thực hiện ngày càng trọn vẹn những giá trị và bổn phận vốn gắn liền với chính Bí tích Hôn phối.

Dưới ánh sáng đức tin và nhờ đức cậy, gia đình Kitô hữu – trong sự hiệp thông với Hội thánh – cũng tham dự vào kinh nghiệm cuộc lữ hành trần thế, tiến về sự mạc khải viên mãn và sự hoàn tất của Nước Thiên Chúa.

Vì thế, cần nhấn mạnh lại tính cấp bách của việc Hội thánh can thiệp mục vụ để nâng đỡ gia đình. Cần nỗ lực hết sức để mục vụ gia đình được nhìn nhận và phát triển, dành cho lãnh vực này một vị trí thật sự ưu tiên, với xác tín rằng trong tương lai, công cuộc loan báo Tin mừng phần lớn tùy thuộc vào chính Hội thánh tại gia (x. Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Khóa họp lần thứ III của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh, IV, a [28.01.1979]: AAS 71 [1979], 204).

Việc chăm sóc mục vụ của Hội thánh sẽ không chỉ giới hạn nơi những gia đình Kitô hữu gần gũi nhất, nhưng – mở rộng viễn tượng theo tầm vóc của Thánh Tâm Đức Kitô – Hội thánh sẽ thể hiện sự quan tâm sống động hơn đối với toàn thể các gia đình nói chung, và cách riêng đối với những gia đình đang ở trong hoàn cảnh khó khăn hoặc chênh vênh. Với mọi gia đình, Hội thánh sẽ cất lên lời chân lý, nhân hậu, cảm thông và hy vọng, cùng với sự đồng hành sâu xa trước những thử thách đôi khi bi đát của họ. Hội thánh sẽ trao ban cho mọi gia đình sự trợ giúp vô vị lợi của mình, để họ có thể tiến gần hơn đến mô hình gia đình mà Đấng Tạo Hóa đã muốn ngay từ “khởi đầu” và Đức Kitô đã canh tân bằng ân sủng cứu độ của Người.

Hoạt động mục vụ của Hội thánh phải mang tính tiệm tiến, theo nghĩa là Hội thánh phải theo sát gia đình, từng bước đồng hành với họ qua các chặng khác nhau của tiến trình hình thành và phát triển.

Chuẩn bị

66. Trong thời đại hôm nay, việc chuẩn bị cho người trẻ bước vào hôn nhân và đời sống gia đình cần thiết hơn bao giờ hết. Ở một số quốc gia, theo những tập tục cổ truyền, chính các gia đình vẫn giữ vai trò truyền đạt cho người trẻ những giá trị liên quan đến đời sống hôn nhân và gia đình, qua một tiến trình giáo dục hoặc khai tâm tiệm tiến. Tuy nhiên, những biến đổi diễn ra trong hầu hết các xã hội hiện đại đòi hỏi không chỉ gia đình, mà cả xã hội và Hội thánh cũng phải dấn thân vào nỗ lực chuẩn bị cách thích đáng, để người trẻ có thể đảm nhận những trách nhiệm của ngày mai. Trong những hoàn cảnh mới, nhiều hiện tượng tiêu cực trong đời sống gia đình hiện nay bắt nguồn từ thực tế là người trẻ không chỉ mất cái nhìn về bậc thang đúng đắn của các giá trị, mà còn không còn nắm được những quy tắc hành động đúng đắn, nên họ không biết cách đối diện và giải quyết những khó khăn mới nảy sinh. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy những người trẻ được chuẩn bị chu đáo cho đời sống gia đình thường thành công hơn những người khác.

Điều này lại càng đúng hơn đối với hôn nhân Kitô giáo, vốn có ảnh hưởng sâu xa đến sự thánh thiện của biết bao người nam và nữ. Vì thế, Hội thánh cần cổ võ những chương trình chuẩn bị hôn nhân tốt hơn và sâu sắc hơn, nhằm – trong mức tối đa có thể – loại bỏ những khó khăn mà biết bao đôi bạn đang phải chật vật đối phó; và hơn nữa, để tích cực thúc đẩy sự nảy sinh và trưởng thành của những cuộc hôn nhân thành công.

Việc chuẩn bị hôn nhân cần được nhìn nhận và thực hiện như một tiến trình tuần tự và liên tục. Thực vậy, tiến trình này bao gồm ba giai đoạn chính: chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị cận kề.

Việc chuẩn bị xa bắt đầu từ thời thơ ấu, trong nền sư phạm khôn ngoan của gia đình, nhằm giúp con trẻ khám phá chính mình như những con người được phú ban một tâm lý phong phú và phức tạp, cùng một nhân cách độc đáo với những ưu điểm và nhược điểm riêng. Đây là giai đoạn cần khắc ghi nơi các em lòng trân trọng đối với mọi giá trị nhân bản đích thực – cả trong các mối tương quan liên vị lẫn xã hội – với những hệ quả quan trọng cho việc hình thành nhân cách, biết tự chủ và sử dụng đúng đắn các khuynh hướng tự nhiên, biết cách nhìn nhận và gặp gỡ người khác phái, cùng nhiều khía cạnh khác. Ngoài ra, đặc biệt đối với Kitô hữu, cần có một nền huấn luyện giáo lý và thiêng liêng vững chắc, giúp nhận ra nơi hôn nhân một ơn gọi và một sứ mạng đích thực, đồng thời không loại trừ khả năng tự hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa trong ơn gọi linh mục hoặc đời sống thánh hiến.

Trên nền tảng ấy, việc chuẩn bị gần cho hôn nhân cần được triển khai với một tầm nhìn rộng mở, bắt đầu từ lứa tuổi thích hợp và qua một tiến trình giáo lý đầy đủ – như một hành trình dự tòng – bao gồm cả sự chuẩn bị chuyên biệt cho các bí tích, như một sự tái khám phá. Việc canh tân giáo lý dành cho những ai chuẩn bị bước vào hôn nhân Kitô giáo là điều hết sức cần thiết, để bí tích được cử hành và được sống với những tâm thế luân lý và thiêng liêng đúng đắn. Vào thời điểm thích hợp và tùy theo nhu cầu cụ thể, việc đào tạo tôn giáo của người trẻ cần được bổ sung bằng sự chuẩn bị cho đời sống đôi bạn, trình bày hôn nhân như một mối tương quan liên vị giữa người nam và người nữ, được nuôi dưỡng và phát triển liên tục. Điều này đòi hỏi khơi dậy nơi họ sự hiểu biết sâu sắc hơn về tính dục vợ chồng và trách nhiệm làm cha mẹ, kèm theo những kiến thức y học và sinh học thiết yếu. Đồng thời, họ cần được hướng dẫn về những phương pháp giáo dục con cái đúng đắn, cũng như những yếu tố nền tảng để xây dựng một đời sống gia đình ổn định và có trật tự (việc làm ổn định, an cư lạc nghiệp, khả năng tài chính đầy đủ, quản lý khôn ngoan, có kiến thức về kinh tế gia đình, v.v.).

Cuối cùng, cũng không được bỏ qua việc chuẩn bị cho sứ vụ tông đồ của gia đình, cho tình huynh đệ và sự cộng tác với các gia đình khác, cũng như cho việc tham gia tích cực vào các nhóm, hiệp hội, phong trào và sáng kiến nhằm phục vụ thiện ích nhân bản và Kitô giáo của gia đình.

Việc chuẩn bị cận kề cho việc cử hành Bí tích Hôn phối cần được thực hiện trong những tháng, và đặc biệt là trong những tuần lễ ngay trước ngày cưới, nhằm mang lại một ý nghĩa mới, một nội dung mới và một hình thức mới cho cuộc điều tra hôn phối theo quy định của giáo luật. Việc chuẩn bị này luôn cần thiết trong mọi trường hợp, và càng khẩn thiết hơn đối với những đôi bạn còn thiếu hụt về giáo lý hoặc gặp khó khăn trong việc thực hành đời sống Kitô hữu.

Trong hành trình đức tin này – tương tự như một tiến trình dự tòng – cần truyền đạt một sự hiểu biết sâu sắc về mầu nhiệm Đức Kitô và Hội thánh, về ý nghĩa của ân sủng và trách nhiệm gắn liền với hôn nhân Kitô giáo, cũng như việc chuẩn bị để tham dự cách tích cực và ý thức vào các nghi thức phụng vụ hôn phối.

Gia đình Kitô hữu và toàn thể cộng đoàn Hội thánh cần cảm thấy mình có trách nhiệm tham gia vào các giai đoạn khác nhau của tiến trình chuẩn bị hôn nhân – mà ở đây chúng tôi chỉ phác thảo cách tổng quát. Ước mong rằng các Hội đồng Giám mục, vốn đã quan tâm đến những sáng kiến giúp các đôi bạn trẻ ý thức rõ hơn về sự nghiêm túc trong chọn lựa của họ, cũng như giúp các mục tử bảo đảm cho họ có được sự chuẩn bị thích hợp, sẽ lưu tâm đến việc ban hành một ‘Chỉ nam Mục vụ Gia đình’. Trong đó, trước hết cần xác định những yếu tố tối thiểu về nội dung, thời lượng và phương pháp của các ‘khóa chuẩn bị’, sao cho các khía cạnh giáo lý, sư phạm, pháp lý và y học liên quan đến hôn nhân được quân bình, và các khóa học được cấu trúc cách phù hợp để những người chuẩn bị bước vào hôn nhân – vượt lên trên việc đào sâu kiến thức – cảm thấy được thúc đẩy tham gia cách sống động vào cộng đoàn Hội thánh.

Mặc dù không thể xem nhẹ tính cần thiết và tính bắt buộc của việc chuẩn bị cận kề cho hôn nhân – vốn sẽ bị suy giảm nếu việc miễn chuẩn được chấp thuận quá dễ dàng – thì việc chuẩn bị này vẫn luôn phải được đề nghị và thực hiện sao cho, nếu chẳng may bị bỏ sót, cũng không trở thành cản trở cho việc cử hành hôn lễ.

Việc cử hành

67. Theo quy định thông thường, hôn nhân Kitô giáo phải được cử hành trong phụng vụ, dưới hình thức xã hội và cộng đoàn, nhằm diễn tả bản chất thiết yếu vừa mang tính Hội thánh vừa mang tính bí tích của giao ước hôn nhân giữa những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội.

Xét như một hành vi bí tích mang tính thánh hóa, việc cử hành hôn phối – được đặt trong phụng vụ, vốn là đỉnh cao của mọi hành động Hội thánh và là nguồn mạch thánh hóa của Hội thánh (x. Sacrosanctum Concilium, số 10) – tự thân phải là một cử hành thành sự, xứng đáng và trổ sinh hoa trái. Từ đó mở ra một lãnh vực rộng lớn cho việc chăm sóc mục vụ, nhằm chu toàn đầy đủ những đòi hỏi phát xuất từ bản chất của giao ước hôn nhân vốn được nâng lên thành bí tích. Đồng thời, việc cử hành cũng phải trung thành tuân giữ kỷ luật của Hội thánh liên quan đến sự ưng thuận tự do, các ngăn trở, hình thức giáo luật và chính nghi thức cử hành. Nghi thức này cần đơn sơ và trang nghiêm, theo quy định của các thẩm quyền hữu trách trong Hội thánh; các thẩm quyền ấy cũng có trách nhiệm – tùy theo hoàn cảnh cụ thể về thời gian và địa phương, và theo các quy tắc do Tòa Thánh ban hành (x. Ordo celebrandi Matrimonium, số 17) – đưa vào nghi thức phụng vụ những yếu tố đặc thù của từng nền văn hóa, nhằm diễn tả cách tốt nhất ý nghĩa nhân bản và tôn giáo sâu xa của giao ước hôn nhân, miễn là không có gì trái với đức tin và luân lý Kitô giáo.

Xét như một dấu chỉ, ngay cả trong hình thức bên ngoài, việc cử hành phụng vụ phải diễn ra sao cho trở thành việc công bố Lời của Thiên Chúa và một lời tuyên xưng đức tin của cộng đoàn tín hữu. Ở đây, việc chăm sóc mục vụ cần được thể hiện qua sự quan tâm khôn ngoan và chuyên cần đối với “Phụng vụ Lời Chúa”, cũng như qua việc giáo dục đức tin cho những người tham dự, đặc biệt là cho đôi bạn sắp kết hôn.

Xét như một hành vi bí tích của Hội thánh, việc cử hành phụng vụ hôn phối phải có sự tham dự của cộng đoàn Kitô hữu, với sự tham gia trọn vẹn, tích cực và có trách nhiệm của những ai đang hiện diện, mỗi người tùy theo cương vị và nhiệm vụ: đôi bạn, linh mục, các nhân chứng, thân nhân, bạn hữu, các tín hữu khác – tất cả đều là thành phần của một cộng đoàn đang biểu lộ và sống mầu nhiệm Đức Kitô và Hội thánh của Người.

Đối với việc cử hành hôn phối Kitô giáo trong bối cảnh các nền văn hóa hay truyền thống tổ tiên, cần tuân thủ những nguyên tắc đã được nêu ở trên.

Cử hành Bí tích Hôn phối và việc loan báo Tin mừng cho những người đã lãnh nhận Phép Rửa nhưng chưa có đức tin

68. Chính vì trong việc cử hành Bí tích Hôn phối cần phải đặc biệt lưu tâm đến các định hướng luân lý và thiêng liêng của đôi bạn, nhất là đến đức tin của họ, nên ở đây cần phải đề cập đến một khó khăn không hiếm gặp mà các mục tử của Hội thánh thường phải đối diện trong bối cảnh xã hội tục hóa hiện nay.

Thật vậy, việc sống đức tin của những người xin Hội thánh cử hành Bí tích Hôn phối có thể hiện hữu ở những mức độ khác nhau; và bổn phận hàng đầu của các mục tử là giúp họ khám phá lại, nuôi dưỡng và làm cho đức tin ấy trưởng thành. Tuy nhiên, các mục tử cũng cần hiểu những lý do khiến Hội thánh chấp nhận cử hành Bí tích ngay cả cho những người chưa được chuẩn bị đầy đủ.

Trong tất cả các bí tích, Bí tích Hôn phối có một đặc điểm riêng: đó là bí tích của một thực tại vốn đã hiện hữu trong trật tự tạo dựng, chính là giao ước hôn nhân được Đấng Tạo Hóa thiết lập “ngay từ thuở ban đầu”. Quyết định của người nam và người nữ kết hôn theo dự phóng thần linh này – nghĩa là quyết định dấn thân trọn đời trong sự ưng thuận không thể thu hồi, trong một tình yêu bất khả phân ly và trong lòng chung thủy vô điều kiện – thực sự hàm chứa, ngay cả khi không hoàn toàn ý thức, một thái độ vâng phục sâu xa đối với thánh ý Thiên Chúa, điều vốn không thể có nếu thiếu ân sủng của Người. Như thế, họ đã được đưa vào một hành trình cứu độ đích thực, và việc cử hành Bí tích cùng với sự chuẩn bị cận kề cho Bí tích ấy có thể kiện toàn và đưa tới sự hoàn tất, miễn là ý hướng của họ ngay chính.

Hơn nữa, quả thật tại một số nơi, những lý do mang tính xã hội hơn là tôn giáo thúc đẩy các đôi bạn xin được cử hành hôn phối trong nhà thờ. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi hôn nhân không chỉ là một biến cố riêng tư của đôi bạn, mà còn là một sự kiện xã hội, đặt đôi bạn trước cộng đồng. Tự bản chất, việc cử hành hôn phối luôn là một ngày lễ quy tụ gia đình và bạn hữu. Vì thế, thật dễ hiểu khi những lý do xã hội – cùng với lý do cá nhân – góp phần vào việc thỉnh cầu cử hành hôn phối tại thánh đường.

Tuy nhiên, cần nhớ rằng nhờ Bí tích Rửa tội, những đôi bạn này đã thực sự được tháp nhập vào Giao ước hôn phối giữa Đức Kitô và Hội thánh. Với ý hướng ngay thẳng, họ đã đón nhận dự phóng của Thiên Chúa về hôn nhân. Vì thế, dù chỉ cách ngấm ngầm, họ cũng đã đồng thuận với điều mà Hội thánh thực hiện khi cử hành Bí tích Hôn phối. Do đó, việc có thêm những lý do xã hội trong lời thỉnh cầu không thể là lý do chính đáng để các mục tử từ chối. Hơn nữa, như Công đồng Vaticanô II đã dạy, các bí tích – qua lời nói và các yếu tố nghi lễ – nuôi dưỡng và củng cố đức tin (x. Sacrosanctum Concilium, số 59). Chính đức tin ấy, nhờ ý hướng ngay thẳng, đã được khởi sự nơi đôi bạn, và ân sủng của Đức Kitô chắc chắn sẽ nâng đỡ, làm cho đức tin ấy ngày càng trưởng thành.

Việc đặt thêm các tiêu chuẩn để được cử hành hôn phối trong Hội thánh – dựa trên mức độ đức tin của đôi bạn – sẽ kéo theo những rủi ro nghiêm trọng. Trước hết là nguy cơ đưa ra những phán đoán vô căn cứ và mang tính phân biệt. Kế đến là nguy cơ làm phát sinh nghi ngờ về tính hợp lệ của các cuộc hôn nhân đã được cử hành, gây tổn hại cho cộng đoàn Kitô hữu và tạo ra những lo lắng không chính đáng nơi lương tâm của các đôi bạn. Sau cùng là nguy cơ phủ nhận hoặc đặt vấn đề về tính bí tích của nhiều cuộc hôn nhân nơi những anh chị em chưa hiệp thông trọn vẹn với Hội thánh Công giáo, điều này đi ngược lại truyền thống Hội thánh.

Ngược lại, nếu sau mọi nỗ lực mục vụ mà đôi bạn vẫn công khai và chính thức từ chối điều Hội thánh thực hiện khi cử hành hôn phối cho những người đã được rửa tội, thì vị mục tử không thể chấp nhận cho họ cử hành. Dù miễn cưỡng, ngài vẫn có bổn phận nhìn nhận tình huống và giúp đôi bạn hiểu rằng, trong trường hợp này, không phải Hội thánh mà chính họ đã tự ngăn cản việc cử hành mà họ đang xin.

Một lần nữa, sự cấp bách của việc loan báo Tin mừng và việc huấn giáo trước cũng như sau ngày cưới lại được khẳng định. Đây là công việc phải được toàn thể cộng đoàn Kitô hữu thực hiện, để mọi người nam nữ khi bước vào hôn nhân có thể cử hành Bí tích Hôn phối không chỉ thành sự mà còn trổ sinh hoa trái.

Mục vụ sau ngày cưới

69. Một cách cụ thể, việc chăm sóc mục vụ cho các gia đình đã được thiết lập là sự dấn thân của toàn thể cộng đoàn Hội thánh địa phương, nhằm giúp đôi bạn khám phá và sống trọn vẹn ơn gọi cũng như sứ mạng mới của họ. Để gia đình ngày càng trở thành một cộng đoàn yêu thương đích thực, cần nâng đỡ và đào luyện mọi thành viên, giúp họ chu toàn trách nhiệm trước những vấn đề mới, biết phục vụ lẫn nhau và tham gia tích cực vào đời sống gia đình.

Điều này đặc biệt đúng với các gia đình trẻ, vốn đang sống trong bối cảnh của những giá trị và trách nhiệm mới. Họ dễ gặp khó khăn hơn, nhất là trong những năm đầu đời sống hôn nhân, khi phải thích nghi với cuộc sống chung hoặc đón nhận sự ra đời của con cái. Các đôi bạn trẻ được mời gọi biết đón nhận cách thân tình và trân trọng sự trợ giúp kín đáo, tế nhị và quảng đại từ những đôi bạn khác đã có nhiều kinh nghiệm trong đời sống hôn nhân và gia đình. Nhờ đó, trong lòng cộng đoàn Hội thánh – đại gia đình được hình thành từ các gia đình Kitô hữu – sẽ diễn ra sự hiện diện và nâng đỡ lẫn nhau. Mỗi gia đình đem kinh nghiệm nhân bản của mình, cùng với ân huệ đức tin và ân sủng, để phục vụ các gia đình khác. Được thúc đẩy bởi tinh thần tông đồ đích thực, sự nâng đỡ từ gia đình này đến gia đình khác sẽ trở thành một phương thế đơn giản, hữu hiệu và gần gũi để lan tỏa các giá trị Kitô giáo – vốn là điểm khởi đầu và điểm đến của mọi hoạt động mục vụ. Nhờ đó, các gia đình trẻ không chỉ dừng lại ở việc đón nhận, nhưng khi đã được nâng đỡ, họ cũng sẽ trở thành nguồn phong phú cho các gia đình khác đã thành lập từ lâu, qua chứng tá đời sống và sự đóng góp tích cực của mình.

Trong hoạt động mục vụ dành cho các gia đình trẻ, Hội thánh cần dành sự quan tâm đặc biệt để giáo dục họ biết sống tình yêu hôn nhân cách có trách nhiệm, trong mối tương quan với những đòi hỏi của sự hiệp thông và phục vụ sự sống. Đồng thời, họ cũng cần học cách dung hòa sự thân mật của đời sống gia đình với công cuộc chung và quảng đại xây dựng Hội thánh cũng như xã hội nhân loại. Khi đôi bạn trở thành một gia đình trọn vẹn nhờ sự ra đời của con cái, Hội thánh vẫn tiếp tục đồng hành với các bậc cha mẹ để họ biết đón nhận con cái như một hồng ân từ Thiên Chúa là Chúa của sự sống, vui tươi đảm nhận trách nhiệm phục vụ con cái trong hành trình trưởng thành nhân bản và Kitô giáo của chúng.

II. CẤU TRÚC CỦA MỤC VỤ GIA ĐÌNH

Hoạt động mục vụ luôn là một diễn tả năng động của thực tại Hội thánh, vốn dấn thân trong sứ mạng cứu độ. Mục vụ gia đình – một hình thức mục vụ đặc thù và chuyên biệt – cũng lấy chính Hội thánh làm nguyên lý hoạt động và chủ thể trách nhiệm, được thể hiện qua các cơ cấu và những người phục vụ trong Hội thánh.

Cộng đoàn Hội thánh và cách riêng giáo xứ

70. Là một cộng đoàn vừa được cứu độ vừa trở nên khí cụ cứu độ, Hội thánh cần được nhìn nhận trong cả hai chiều kích: hoàn vũ và địa phương. Chiều kích địa phương được diễn tả và thực hiện trong cộng đoàn giáo phận, vốn được phân chia theo nhu cầu mục vụ thành những cộng đoàn nhỏ hơn, trong đó giáo xứ có một tầm quan trọng đặc biệt.

Sự hiệp thông với Hội thánh hoàn vũ không làm suy giảm, nhưng trái lại bảo đảm và thúc đẩy tính nhất quán cũng như nét độc đáo của các Hội thánh địa phương. Chính các Hội thánh địa phương là chủ thể trực tiếp và hữu hiệu nhất trong việc thực thi mục vụ gia đình. Theo nghĩa này, mỗi Hội thánh địa phương – và cách riêng là mỗi cộng đoàn giáo xứ – cần ý thức sâu xa hơn về ân sủng và trách nhiệm mà mình lãnh nhận từ Chúa trong việc cổ võ mục vụ gia đình. Mọi kế hoạch mục vụ tổng thể, ở bất kỳ cấp độ nào, đều không được bỏ qua việc chăm sóc mục vụ cho gia đình.

Dưới ánh sáng của trách nhiệm này, cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc chuẩn bị thích hợp cho những ai sẽ dấn thân cách chuyên biệt vào sứ vụ tông đồ này. Các linh mục, tu sĩ nam nữ cần được định hướng và đào tạo một cách tiệm tiến và phù hợp ngay từ thời gian huấn luyện ban đầu, để có thể chu toàn sứ mạng của mình. Trong số các sáng kiến khác, tôi vui mừng nhấn mạnh việc thành lập gần đây tại Rôma – trong khuôn viên Đại học Giáo hoàng Lateranô – một Học viện Cao cấp chuyên nghiên cứu các vấn đề về gia đình. Những Học viện tương tự cũng đã được thiết lập tại một số giáo phận; các Giám mục cần nỗ lực để càng nhiều linh mục càng tốt, trước khi nhận trách nhiệm tại giáo xứ, được tham dự các khóa đào tạo chuyên sâu. Ở những nơi khác, các khóa đào tạo được tổ chức định kỳ tại các Học viện Thần học và Mục vụ cấp cao. Những sáng kiến như thế cần được khuyến khích, nâng đỡ, nhân rộng và mở ra cho cả giáo dân – những người sẽ đóng góp chuyên môn của mình (trong các lãnh vực y tế, pháp lý, tâm lý, xã hội, giáo dục) để phục vụ gia đình.

Gia đình

71. Trên hết, cần phải nhìn nhận vị trí đặc biệt dành cho sứ mạng của vợ chồng và gia đình Kitô hữu trong lãnh vực này, nhờ ân sủng đã lãnh nhận qua Bí tích Hôn phối. Sứ mạng ấy phải được đặt vào việc phục vụ công cuộc xây dựng Hội thánh và kiến tạo Nước Thiên Chúa trong dòng lịch sử. Đây là một đòi hỏi phát xuất từ sự mau mắn vâng lời Chúa Kitô. Thật vậy, nhờ hôn nhân của những người đã được rửa tội được nâng lên hàng bí tích, Người trao ban cho các đôi bạn Kitô hữu một sứ mạng tông đồ riêng biệt, sai họ đi làm thợ trong vườn nho của Người – và cách đặc biệt là trong lãnh vực gia đình.

Trong hoạt động này, các đôi bạn Kitô hữu sống tinh thần hiệp thông và cộng tác với các thành viên khác của Hội thánh – những người cũng dấn thân phục vụ gia đình – bằng cách làm cho các ân huệ và thừa tác vụ của họ sinh hoa trái. Việc tông đồ này trước hết được thực hiện ngay trong chính gia đình: bằng chứng tá đời sống phù hợp với lề luật của Thiên Chúa trong mọi khía cạnh; bằng việc huấn luyện Kitô giáo cho con cái; nâng đỡ sự trưởng thành trong đức tin; giáo dục đức khiết tịnh; chuẩn bị cho đời sống trưởng thành; cảnh giác để bảo vệ con cái khỏi những nguy cơ về ý thức hệ và luân lý; giúp con cái hội nhập cách tiệm tiến và có trách nhiệm vào cộng đoàn Hội thánh cũng như xã hội dân sự; hướng dẫn trong việc phân định ơn gọi; sống tinh thần tương thân tương ái giữa các thành viên để cùng nhau lớn lên trong nhân bản và đời sống Kitô hữu. Tông đồ của gia đình còn được lan tỏa qua các công việc bác ái thiêng liêng và vật chất dành cho những gia đình khác – đặc biệt là những gia đình đang cần sự trợ giúp – cũng như cho người nghèo, người bệnh, người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ mồ côi, người góa bụa, các đôi bạn bị bỏ rơi, các bà mẹ đơn thân và những người mẹ trong hoàn cảnh khó khăn, đang bị cám dỗ chối bỏ hoa trái của lòng mình.

Các hiệp hội gia đình nhằm phục vụ các gia đình

72. Luôn trong khuôn khổ Hội thánh – chủ thể chịu trách nhiệm về mục vụ gia đình – cần ghi nhớ sự hiện diện của các nhóm tín hữu khác nhau, nơi đó mầu nhiệm Hội thánh của Chúa Kitô được biểu lộ và được sống ở một mức độ nào đó. Vì thế, cần phải nhìn nhận và trân trọng các cộng đoàn Hội thánh, các nhóm và các phong trào khác nhau đang dấn thân vào mục vụ gia đình – mỗi tổ chức theo đặc điểm, mục tiêu, ảnh hưởng và phương pháp riêng của mình.

Vì lý do này, Thượng Hội đồng đã minh nhiên công nhận sự đóng góp hữu ích của các hiệp hội mang tính linh đạo, huấn luyện và tông đồ. Sứ mạng của họ là khơi dậy nơi các tín hữu một ý thức sống động về tình liên đới; cổ võ một nếp sống được gợi hứng từ Tin mừng và đức tin của Hội thánh; đào luyện lương tâm theo các giá trị Kitô giáo chứ không dựa trên những chuẩn mực của dư luận; khích lệ các công việc bác ái lẫn nhau và hướng đến tha nhân với một tinh thần cởi mở, để các gia đình Kitô hữu trở thành nguồn sáng thực sự và men lành mạnh cho các gia đình khác.

Tương tự như thế, thật đáng ước mong rằng, với một ý thức sống động về công ích, các gia đình Kitô hữu cũng tích cực dấn thân ở mọi cấp độ vào các hiệp hội ngoài Hội thánh. Một số hiệp hội này nhằm bảo tồn, truyền đạt và bảo vệ các giá trị luân lý và văn hóa lành mạnh của các dân tộc; thúc đẩy sự phát triển nhân vị con người; bảo vệ y tế, pháp lý và xã hội cho người mẹ và trẻ em; cổ võ sự thăng tiến chính đáng của phụ nữ và đấu tranh chống lại những gì làm tổn thương phẩm giá của họ; gia tăng tình liên đới tương trợ; và nâng cao nhận thức về những vấn đề liên quan đến việc điều hòa sinh sản có trách nhiệm theo các phương pháp tự nhiên, phù hợp với phẩm giá con người và giáo huấn của Hội thánh. Những hiệp hội khác lại hướng đến việc kiến tạo một thế giới công bằng và nhân đạo hơn; cổ võ những luật pháp công bằng nhằm duy trì trật tự xã hội đúng đắn trong sự tôn trọng trọn vẹn phẩm giá và mọi quyền tự do chính đáng của cá nhân và gia đình – cả ở cấp quốc gia lẫn quốc tế; cũng như cộng tác với các trường học và các tổ chức khác để hoàn thiện việc giáo dục con cái, cùng nhiều lãnh vực khác.

III. NHỮNG VỊ ĐẢM TRÁCH MỤC VỤ GIA ĐÌNH

Bên cạnh gia đình – vốn vừa là đối tượng, nhưng trước hết cũng là chủ thể của mục vụ gia đình – còn phải ghi nhớ đến những tác viên chính yếu khác trong lãnh vực đặc biệt này.

Hàng giám mục và linh mục

73. Giám mục là người chịu trách nhiệm hàng đầu về mục vụ gia đình trong giáo phận. Với tư cách là người Cha và Mục tử, ngài phải đặc biệt quan tâm đến lãnh vực này – một lãnh vực chắc chắn mang tính ưu tiên trong toàn bộ công cuộc mục vụ. Ngài cần dành cho lãnh vực này sự chăm sóc, thời gian, nhân sự và nguồn lực; nhưng trên hết, là sự nâng đỡ cá nhân dành cho các gia đình và cho những ai đang cộng tác với ngài trong các cơ cấu giáo phận để thực hiện mục vụ gia đình. Ngài sẽ đặc biệt lưu tâm để giáo phận của mình ngày càng trở thành một “gia đình giáo phận” đích thực – mẫu mực và nguồn hy vọng cho nhiều gia đình thuộc về giáo phận. Việc thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình cần được nhìn nhận trong bối cảnh này: như một dấu chỉ cho thấy tầm quan trọng của mục vụ gia đình trên toàn thế giới, đồng thời là một phương tiện hữu hiệu để thúc đẩy công cuộc ấy ở mọi cấp độ.

Các giám mục đặc biệt cậy nhờ đến các linh mục – những người mà, như Thượng Hội đồng đã minh nhiên nhấn mạnh, sứ vụ của họ là một phần thiết yếu trong thừa tác vụ của Hội thánh đối với hôn nhân và gia đình. Điều tương tự cũng được nói đến các phó tế, nếu họ được trao phó việc chăm sóc lãnh vực mục vụ này.

Trách nhiệm của các thừa tác viên không chỉ dừng lại ở những vấn đề luân lý và phụng vụ, mà còn mở rộng đến cả những vấn đề mang tính cá nhân và xã hội. Họ cần nâng đỡ các gia đình trong những khó khăn và đau khổ, đồng hành với từng thành viên, giúp họ nhìn nhận đời sống của mình dưới ánh sáng Tin mừng. Thật không dư thừa khi nhấn mạnh rằng, từ chính sứ vụ này – nếu được thực hiện với sự phân định đúng đắn và tinh thần tông đồ đích thực – các thừa tác viên của Hội thánh sẽ kín múc được những động lực mới và năng lượng thiêng liêng cho chính ơn gọi cũng như cho việc thi hành thừa tác vụ của mình.

Được chuẩn bị cách nghiêm túc và kịp thời cho sứ vụ tông đồ này, linh mục hoặc phó tế cần luôn cư xử với các gia đình như người cha, người anh, người mục tử và người thầy – nâng đỡ họ bằng ân sủng và soi sáng họ bằng ánh sáng chân lý. Giáo huấn và lời khuyên của các ngài phải luôn hoàn toàn phù hợp với Huấn quyền xác thực của Hội thánh, để giúp dân Chúa hình thành một cảm thức đức tin ngay chính và biết áp dụng vào đời sống cụ thể. Sự trung thành như thế với Huấn quyền cũng giúp các linh mục chuyên tâm duy trì sự hiệp nhất trong các phán đoán mục vụ, hầu tránh gây hoang mang cho lương tâm của các tín hữu.

Trong Hội thánh, các mục tử và giáo dân cùng tham dự vào sứ mạng tiên tri của Đức Kitô: giáo dân làm chứng cho đức tin bằng lời nói và đời sống Kitô hữu; các mục tử phân định trong chứng tá ấy đâu là biểu hiện của đức tin chân chính, đâu là điều chưa phù hợp với ánh sáng đức tin; gia đình, như một cộng đoàn Kitô hữu, tham dự cách riêng và làm chứng cho đức tin bằng chính đời sống của mình. Từ đó, một cuộc đối thoại cũng được khơi mở giữa các mục tử và các gia đình. Các nhà thần học và chuyên gia về những vấn đề gia đình có thể đóng góp rất nhiều cho cuộc đối thoại này, bằng cách giải thích chính xác nội dung của Huấn quyền Hội thánh cũng như kinh nghiệm sống của đời sống gia đình. Nhờ đó, giáo huấn của Huấn quyền được hiểu rõ hơn và con đường phát triển tiệm tiến của giáo huấn cũng được mở ra. Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng quy tắc gần gũi và bắt buộc trong giáo lý đức tin – kể cả về các vấn đề gia đình – thuộc về Huấn quyền phẩm trật. Mối tương quan minh bạch giữa các nhà thần học, các chuyên gia về gia đình và Huấn quyền sẽ góp phần rất lớn vào việc hiểu đúng đức tin, đồng thời thúc đẩy tính đa nguyên hợp pháp trong những giới hạn của đức tin.

Các tu sĩ nam nữ

74. Đóng góp mà các tu sĩ nam nữ, cũng như những người sống đời thánh hiến nói chung, có thể dành cho việc tông đồ gia đình được biểu lộ trước tiên, cách nền tảng và độc đáo, nơi chính việc họ tận hiến đời mình cho Thiên Chúa. Việc tận hiến ấy làm cho họ trở thành “trước mắt mọi tín hữu… lời nhắc nhớ về cuộc kết hợp kỳ diệu do Thiên Chúa thực hiện và sẽ được tỏ hiện trọn vẹn trong thời cánh chung, nhờ đó Hội thánh có Đức Kitô là Hiền Phu duy nhất” (Perfectae Caritatis, số 12), đồng thời trở nên chứng nhân của đức ái phổ quát; nhờ sống khiết tịnh vì Nước Trời, họ ngày càng sẵn sàng hơn để quảng đại hiến dâng mình cho việc phụng sự Thiên Chúa và cho các công việc tông đồ.

Do đó, nam nữ tu sĩ, thành viên các Tu hội đời và các Hội dòng trọn lành khác – cá nhân hay theo cộng đoàn – có thể phát triển nhiều hình thức phục vụ dành cho gia đình, đặc biệt quan tâm đến trẻ em, nhất là những em bị bỏ rơi, không được mong muốn, mồ côi, nghèo khổ hoặc khuyết tật; thăm viếng các gia đình và chăm sóc người bệnh; vun đắp những mối quan hệ tôn trọng và bác ái với các gia đình bất toàn, đang gặp khó khăn hoặc tan vỡ; đóng góp bằng công tác giảng dạy và tư vấn trong việc chuẩn bị hôn nhân cho người trẻ và hỗ trợ các cặp vợ chồng sống trách nhiệm trong việc sinh sản; mở cửa cộng đoàn để đón tiếp một cách giản dị và chân tình, để các gia đình tìm thấy nơi đó cảm nghiệm về Thiên Chúa, hương vị cầu nguyện và hồi tâm, cùng tấm gương cụ thể về đời sống bác ái và niềm vui huynh đệ như thành viên của đại gia đình Thiên Chúa.

Tôi xin gửi một lời khẩn thiết tới những người có trách nhiệm trong các Tu hội đời và các Hội dòng sống đời thánh hiến: trong khi luôn tôn trọng sâu sắc đặc sủng riêng và nguồn gốc nguyên thủy của mỗi đoàn sủng, xin hãy xem việc tông đồ hướng tới các gia đình như một trong những nhiệm vụ ưu tiên – một nhiệm vụ càng trở nên cấp bách hơn trong hoàn cảnh hiện nay.

Giáo dân có ngành nghề chuyên môn

75. Các gia đình có thể nhận được nhiều lợi ích từ những giáo dân chuyên môn – như bác sĩ, luật gia, nhà tâm lý học, nhân viên xã hội, các cố vấn, v.v. – những người, dù hoạt động cá nhân hay tham gia trong các hiệp hội và sáng kiến khác nhau, đều tận tâm dấn thân vào công việc soi sáng, tư vấn, định hướng và nâng đỡ. Với họ, hoàn toàn có thể áp dụng những lời huấn dụ mà tôi đã có dịp gửi đến Liên đoàn các Cố vấn Gia đình được linh hứng bởi tinh thần Kitô giáo: “Sự dấn thân của anh chị em thật xứng đáng được gọi là một sứ mạng, bởi những mục tiêu mà anh chị em theo đuổi thật cao quý, và những thành quả mà anh chị em đạt được thật sự mang lại lợi ích cho xã hội cũng như cho chính cộng đoàn Kitô hữu… Mọi điều anh chị em thực hiện để nâng đỡ gia đình đều có hiệu quả vượt ra ngoài phạm vi riêng của nó, lan tỏa đến những người khác và tác động đến toàn xã hội. Tương lai của thế giới và của Hội thánh đi qua gia đình” (số 3–4, 29/11/1980: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, III, 2 [1980], tr. 1453).

Những người tiếp nhận và những tác viên truyền thông xã hội

76. Cần dành riêng một lời đặc biệt cho phạm vi hết sức quan trọng này trong đời sống hiện đại. Ai cũng biết rằng các phương tiện truyền thông xã hội “thường tác động sâu xa nơi những người sử dụng chúng, không chỉ trên bình diện tình cảm và trí tuệ, mà còn trên bình diện luân lý và tôn giáo” – đặc biệt là giới trẻ (Đức Phaolô VI, Sứ điệp nhân Ngày Truyền thông Xã hội Thế giới lần III, 7/4/1969: ASS 61 [1969], tr. 455). Do đó, truyền thông xã hội có thể tạo nên ảnh hưởng tích cực cho đời sống và phong hóa gia đình, cũng như cho việc giáo dục con cái. Tuy nhiên, đồng thời, chúng cũng tiềm ẩn “những cạm bẫy và nguy cơ không nhỏ” (Đức Gioan Phaolô II, Sứ điệp nhân Ngày Truyền thông Xã hội Thế giới 1980, 1/5/1980: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, III, 1 [1980], tr. 1042), và có thể trở thành phương tiện – đôi khi bị thao túng một cách khéo léo và có hệ thống, như đáng tiếc đã xảy ra tại nhiều quốc gia – để truyền bá những ý thức hệ phá hoại và những quan điểm lệch lạc về cuộc sống, gia đình, tôn giáo và luân lý, vốn không tôn trọng phẩm giá và định mệnh đích thực của con người.

Mối nguy này ngày càng trở nên hiện thực hơn khi “lối sống hiện đại – đặc biệt tại các quốc gia công nghiệp hóa – thường khiến các gia đình thoái thác trách nhiệm giáo dục, tìm đến những phương tiện giải trí dễ dãi (thường là truyền hình hoặc một số ấn phẩm) như một cách để lấp đầy thời gian và hoạt động của con trẻ và thanh thiếu niên” (Đức Gioan Phaolô II, Sứ điệp nhân Ngày Truyền thông Xã hội Thế giới 1981, số 5, 10/5/1980: L’Osservatore Romano, 22/5/1981). Từ đó phát sinh “nhiệm vụ… bảo vệ con trẻ và thanh thiếu niên, đặc biệt là khỏi những ‘cuộc tấn công’ mà các em phải gánh chịu từ các phương tiện truyền thông”, bằng cách bảo đảm rằng việc sử dụng các phương tiện ấy trong gia đình được kiểm soát cách cẩn trọng. Đồng thời, các gia đình cũng cần quan tâm tìm kiếm cho con cái mình những hình thức giải trí lành mạnh, hữu ích và có tính giáo dục hơn về thể lý, luân lý và tinh thần, “để khai thác và trân trọng thời gian rảnh rỗi của các em và định hướng năng lượng của các em” (ibid.).

Vì các phương tiện truyền thông xã hội – cũng như học đường và môi trường sống – thường có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành nhân cách con cái, nên cha mẹ, với tư cách là những người tiếp nhận, cần giữ vai trò chủ động trong việc sử dụng các phương tiện ấy một cách điều độ, có phê phán, cảnh giác và khôn ngoan. Cha mẹ cần nhận diện ảnh hưởng của các phương tiện ấy trên con cái mình và đảm nhận vai trò trung gian định hướng, giúp “giáo dục lương tâm của con cái biết đưa ra những phán đoán trong sáng và khách quan, để từ đó hướng dẫn các em trong việc chọn lựa hay từ chối các chương trình được trình chiếu” (Đức Phaolô VI, Sứ điệp nhân Ngày Truyền thông Xã hội Thế giới lần III: ASS 61 [1969], tr. 456).

Với cùng một tinh thần trách nhiệm, cha mẹ cũng cần nỗ lực tác động đến việc lựa chọn và chuẩn bị các chương trình, duy trì liên hệ – qua những sáng kiến thích hợp – với những người có trách nhiệm trong các giai đoạn sản xuất và phát sóng, để bảo đảm rằng các giá trị nhân bản nền tảng – vốn là một phần của công ích đích thực của xã hội – không bị bỏ quên hay chà đạp, nhưng trái lại, được trình bày cách đúng đắn trong các chương trình, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến gia đình và các giải pháp thích hợp. Về điểm này, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Phaolô VI, đã viết: “Các nhà sản xuất cần nhận biết và tôn trọng những đòi hỏi của gia đình; điều này đôi khi đòi hỏi nơi họ một lòng can đảm thực sự, và luôn luôn là một ý thức trách nhiệm cao độ. Thật vậy, họ có bổn phận tránh mọi điều có thể gây tổn hại đến gia đình – trong sự hiện hữu, sự ổn định, sự quân bình và hạnh phúc của nó. Mọi hành vi xúc phạm đến các giá trị nền tảng của gia đình – như khiêu dâm, bạo lực, cổ võ ly dị hay những thái độ đối địch nơi giới trẻ – đều là một sự xúc phạm đến thiện ích đích thực của con người” (ibid.).

Cũng trong một dịp tương tự, chính tôi đã nhấn mạnh rằng các gia đình “phải có thể trông cậy đáng kể vào thiện chí, sự chính trực và ý thức trách nhiệm của các chuyên gia truyền thông: các nhà xuất bản, nhà văn, nhà sản xuất, đạo diễn, biên kịch, phóng viên, bình luận viên và diễn viên” (Thông điệp nhân Ngày Truyền thông Xã hội Thế giới 1980: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, III, 1 [1980], tr. 1044). Vì lý do đó, Hội thánh cần tiếp tục dành sự quan tâm đặc biệt cho các giới chuyên môn này, đồng thời khuyến khích và nâng đỡ những người Công giáo cảm thấy được kêu gọi và có khả năng, để họ dấn thân vào những lãnh vực nhạy cảm này.

IV. MỤC VỤ GIA ĐÌNH TRONG NHỮNG HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN

Những hoàn cảnh đặc thù

77. Một sự dấn thân mục vụ quảng đại, khôn ngoan và thận trọng hơn – theo gương Vị Mục Tử Nhân Lành – được đòi hỏi đối với những gia đình, thường là ngoài mong muốn của họ hoặc do bị áp lực bởi những nhu cầu cấp thiết khác nhau, đang phải đối diện với những hoàn cảnh khó khăn khách quan.

Về điểm này, cần đặc biệt lưu tâm đến một số gia đình thuộc những hoàn cảnh đặc thù – những gia đình không chỉ cần đến sự trợ giúp, mà còn cần một hành động có hiệu lực mạnh mẽ hơn trên dư luận xã hội, và nhất là đối với các cơ cấu văn hóa, kinh tế và pháp lý, nhằm loại bỏ tối đa những nguyên nhân sâu xa gây ra khó khăn cho họ.

Chẳng hạn: các gia đình di cư vì lý do lao động; các gia đình có người buộc phải vắng mặt lâu dài như quân nhân, thủy thủ, người hành nghề lưu động; các gia đình có người bị giam giữ, tị nạn hoặc sống lưu vong; các gia đình bị gạt ra bên lề xã hội trong các đô thị lớn; các gia đình vô gia cư; các gia đình đơn thân hoặc bất toàn; các gia đình có con khuyết tật, nghiện ma túy hoặc nghiện rượu; các gia đình bị tách khỏi môi trường văn hóa – xã hội hoặc có nguy cơ mất gốc; các gia đình bị phân biệt đối xử vì lý do chính trị hoặc lý do khác; các gia đình bị chia rẽ về ý thức hệ; các gia đình khó có thể tiếp cận với giáo xứ; các gia đình bị bạo lực hoặc đối xử bất công vì đức tin; các gia đình kết hôn ở tuổi vị thành niên; và những người cao tuổi, không hiếm khi phải sống cô đơn và thiếu thốn phương tiện sinh sống.

Các gia đình di cư – đặc biệt là gia đình công nhân và nông dân – cần có thể tìm thấy nơi Hội thánh một quê hương đích thực. Đây là một sứ mạng vốn thuộc bản chất của Hội thánh, như một dấu chỉ hiệp nhất trong đa dạng. Trong khả năng có thể, họ nên được chăm sóc mục vụ bởi các linh mục thuộc cùng nghi lễ, văn hóa và ngôn ngữ của họ. Hội thánh cũng có trách nhiệm kêu gọi lương tâm xã hội và những người có thẩm quyền trong đời sống xã hội, kinh tế và chính trị, để người lao động có thể tìm được việc làm ngay tại quê hương mình, được trả lương công bằng, gia đình được đoàn tụ sớm nhất có thể, bản sắc văn hóa của họ được tôn trọng, được đối xử bình đẳng như các gia đình khác, và con cái họ có cơ hội được đào tạo nghề, hành nghề, cũng như có quyền sở hữu đất đai cần thiết để làm việc và sinh sống.

Một vấn đề khó khăn là các gia đình bị chia rẽ về ý thức hệ. Trong những trường hợp này, cần có một sự chăm sóc mục vụ đặc biệt. Trước hết, cần duy trì cách tế nhị mối liên hệ cá nhân với các gia đình ấy. Các tín hữu cần được củng cố trong đức tin và nâng đỡ trong đời sống Kitô hữu. Dù phía trung thành với Công giáo không thể nhượng bộ, thì vẫn cần duy trì cuộc đối thoại sống động với phía bên kia. Các biểu hiện của tình yêu và sự tôn trọng cần được gia tăng, với niềm hy vọng vững chắc giữ gìn sự hiệp nhất. Nhiều điều cũng tùy thuộc vào mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Các ý thức hệ xa lạ với đức tin, xét cho cùng, có thể trở thành cơ hội để các thành viên tín hữu trong gia đình lớn lên trong đức tin và trong chứng tá của tình yêu.

Những thời điểm khó khăn khác, khi gia đình cần đến sự trợ giúp của cộng đoàn Hội thánh và các mục tử, có thể là: tuổi vị thành niên hiếu động, phản kháng và đôi khi giông bão của con cái; việc con cái kết hôn, tách khỏi gia đình gốc; sự hiểu lầm hoặc thiếu tình thương từ những người thân yêu nhất; sự bỏ rơi hoặc mất mát người phối ngẫu, dẫn đến kinh nghiệm đau đớn của cảnh góa bụa; cái chết của một thành viên trong gia đình, làm tổn thương và biến đổi sâu sắc cốt lõi ban đầu của gia đình.

Tương tự, Hội thánh không thể bỏ qua giai đoạn tuổi già – với tất cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó: khả năng đào sâu tình yêu vợ chồng, ngày càng được thanh luyện và cao quý hơn nhờ lòng chung thủy lâu dài và không gián đoạn; sự sẵn sàng phục vụ tha nhân bằng lòng tốt, sự khôn ngoan tích lũy qua năm tháng cùng với phần sức lực ít ỏi còn lại; sự cô đơn nặng nề – thường là về mặt tâm lý và tình cảm hơn là thể lý – do bị bỏ rơi hoặc thiếu sự quan tâm từ con cái và người thân; đau khổ vì bệnh tật, vì sự suy giảm dần dần của sức lực, vì sự nhục nhã khi phải lệ thuộc vào người khác, vì cảm giác cay đắng khi thấy mình trở thành gánh nặng cho người thân yêu, vì những giây phút cuối đời đang đến gần. Đây là những thời điểm – như các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã gợi ý – thuận lợi hơn để giúp các chiều kích cao cả của linh đạo hôn nhân và gia đình được hiểu và sống, dưới sự linh hứng của giá trị Thánh giá và sự Phục sinh của Đức Kitô – nguồn mạch của sự thánh hóa và niềm vui sâu xa trong đời sống thường nhật, trong viễn cảnh của những thực tại cánh chung vĩnh cửu.

Trong tất cả những hoàn cảnh khác nhau này, không bao giờ được sao nhãng lời cầu nguyện – nguồn mạch ánh sáng và sức mạnh, đồng thời là lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng Kitô giáo.

Hôn nhân hỗn hợp

78. Sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Công giáo và những người đã được rửa tội thuộc các cộng đoàn Kitô giáo khác đòi hỏi một sự quan tâm mục vụ đặc biệt. Việc chăm sóc này cần được thực hiện dưới ánh sáng của những định hướng và quy tắc được ban hành trong các văn kiện gần đây của Tòa Thánh cũng như của các Hội đồng Giám mục, nhằm giúp áp dụng cách cụ thể vào từng hoàn cảnh khác nhau.

Các đôi bạn sống trong hôn nhân hỗn hợp thường có những nhu cầu đặc thù, có thể quy về ba điểm chính:

· Trước hết, cần ghi nhớ những nghĩa vụ của người phối ngẫu Công giáo phát xuất từ đức tin, liên quan đến quyền tự do thực hành đức tin và bổn phận – tùy theo khả năng – bảo đảm việc rửa tội và giáo dục con cái trong đức tin Công giáo (x. Phaolô VI, Tự sắc Matrimonia Mixta, số 4–5: ASS 62 [1970], tr. 257tt; x. Gioan Phaolô II, Diễn văn trước Đại hội toàn thể của Ban Thư ký Hiệp nhất Kitô giáo, 13/11/1981: L’Osservatore Romano, 14/11/1981).

· Thứ hai, cần lưu tâm đến những khó khăn đặc thù trong mối tương quan vợ chồng, liên quan đến việc tôn trọng quyền tự do tôn giáo: quyền này có thể bị vi phạm bởi những áp lực không chính đáng nhằm buộc người phối ngẫu thay đổi xác tín tôn giáo của mình, hoặc bởi những cản trở ngăn không cho họ tự do biểu lộ các xác tín ấy trong việc thực hành tôn giáo.

· Thứ ba, liên quan đến hình thức phụng vụ và giáo luật của hôn nhân, các Đấng Bản quyền có thể rộng rãi sử dụng những năng quyền của mình để đáp ứng các nhu cầu khác nhau.

Khi giải quyết những đòi hỏi đặc biệt này, cần ghi nhớ các điểm sau đây:

· Trong quá trình chuẩn bị thích hợp cho loại hôn nhân này, cần thực hiện mọi nỗ lực hợp lý để giúp đôi bạn hiểu rõ giáo huấn Công giáo về các phẩm chất và những đòi hỏi của hôn nhân, đồng thời bảo đảm rằng trong tương lai sẽ không xảy ra những áp lực hay cản trở như đã nói ở trên.

· Với sự nâng đỡ của cộng đoàn, điều hết sức quan trọng là người phối ngẫu Công giáo được củng cố trong đức tin và được hỗ trợ tích cực để trưởng thành trong sự hiểu biết và thực hành đức tin ấy, hầu trở nên một chứng nhân thực sự đáng tin cậy ngay trong gia đình mình – qua chính đời sống và phẩm chất của tình yêu dành cho người phối ngẫu và cho con cái.

Các cuộc hôn nhân giữa người Công giáo và những người đã được rửa tội khác, tuy mang những đặc điểm riêng, vẫn có nhiều yếu tố cần được trân trọng và phát huy – vừa vì giá trị nội tại của chúng, vừa vì những đóng góp mà chúng có thể mang lại cho phong trào đại kết. Điều này đặc biệt đúng khi cả hai người phối ngẫu đều trung thành với các cam kết tôn giáo của mình. Phép rửa chung và sức mạnh năng động của ân sủng cung cấp cho đôi bạn nền tảng và động lực để diễn tả sự hiệp nhất trong các giá trị luân lý và thiêng liêng.

Đồng thời, để đạt được mục tiêu này và để làm nổi bật tầm quan trọng đại kết ngay trong một cuộc hôn nhân hỗn hợp được sống trọn vẹn trong đức tin của cả hai người phối ngẫu Kitô hữu, cần tìm kiếm một sự cộng tác chân tình giữa thừa tác viên Công giáo và thừa tác viên không Công giáo, ngay từ giai đoạn chuẩn bị hôn nhân cho đến nghi lễ cử hành, cho dù điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng.

Liên quan đến việc người phối ngẫu không Công giáo tham dự vào việc rước lễ, cần tuân thủ các quy định do Ban Thư ký Hiệp nhất Kitô giáo ban hành (x. Huấn thị In quibus rerum circumstantiis, 15/6/1972, tr. 518–525; Ghi chú ngày 17/10/1973: ASS 64 [1973], tr. 616–619).

Ngày nay, ở nhiều nơi trên thế giới, số lượng các cuộc hôn nhân giữa người Công giáo và người chưa được rửa tội đang gia tăng. Trong nhiều trường hợp, người phối ngẫu chưa được rửa tội tuyên xưng một tôn giáo khác, và những xác tín của họ cần được tôn trọng theo các nguyên tắc của Tuyên ngôn Nostra Aetate của Công đồng Vaticanô II về mối quan hệ với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Tuy nhiên, trong không ít trường hợp khác – đặc biệt là trong các xã hội thế tục hóa – người chưa được rửa tội lại không tuyên xưng bất kỳ tôn giáo nào. Đối với những cuộc hôn nhân này, các Hội đồng Giám mục và từng Giám mục cần thực hiện những biện pháp mục vụ thích hợp nhằm bảo vệ đức tin của người phối ngẫu Công giáo và bảo đảm quyền tự do thực hành đức tin ấy – nhất là bổn phận phải làm hết sức để con cái được rửa tội và được giáo dục theo đức tin Công giáo. Người phối ngẫu Công giáo cũng cần được nâng đỡ bằng mọi cách trong việc dấn thân sống và làm chứng một cách chân thực cho đức tin và đời sống Công giáo ngay trong chính gia đình mình.

Hoạt động mục vụ trước một số hoàn cảnh khác thường

79. Trong sự quan tâm sâu xa đến việc bảo vệ gia đình trong mọi chiều kích – không chỉ về mặt tôn giáo – Thượng Hội đồng Giám mục đã không bỏ qua việc xem xét cẩn trọng một số hoàn cảnh khác thường, cả về phương diện tôn giáo lẫn dân sự. Những hoàn cảnh này, trong bối cảnh biến chuyển nhanh chóng của các nền văn hóa hiện đại, tiếc thay đang lan rộng ngay cả trong cộng đoàn Công giáo, gây tổn hại nghiêm trọng cho chính định chế gia đình và cho xã hội, vốn được xây dựng trên nền tảng của gia đình như một tế bào căn bản.

a) Thử trải nghiệm hôn nhân

80. Một hoàn cảnh bất thường đầu tiên là cái gọi là “thử trải nghiệm hôn nhân”, mà ngày nay nhiều người tìm cách biện minh, gán cho nó một giá trị nào đó. Tuy nhiên, ngay chính lý trí con người cũng cho thấy sự không thể chấp nhận của hình thức này, bởi việc coi con người như đối tượng của một cuộc “thử nghiệm” là điều hoàn toàn phi lý. Phẩm giá của con người đòi hỏi họ phải luôn luôn – và chỉ có thể – là đích điểm của một tình yêu tự hiến trọn vẹn, không bị giới hạn bởi thời gian hay bất cứ hoàn cảnh nào khác.

Về phần mình, Hội thánh không thể chấp nhận một kiểu kết hợp như vậy, vì những lý do sâu xa và độc đáo phát xuất từ đức tin. Một đàng, việc trao ban thân xác trong quan hệ tính dục là biểu tượng thực sự của việc trao ban toàn thể con người; và việc trao ban ấy, trong nhiệm cục cứu độ hiện thời, không thể diễn ra cách trọn vẹn nếu không có sự trợ giúp của tình yêu bác ái do Đức Kitô ban. Đàng khác, hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội là biểu tượng thực sự của sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh – một sự kết hợp không tạm thời hay “để thử”, nhưng là trung tín vĩnh viễn. Vì thế, giữa hai người đã được rửa tội, chỉ có thể có một cuộc hôn nhân bất khả phân ly.

Tình trạng này thường không thể vượt qua nếu con người – ngay từ thời thơ ấu – không được giáo dục, với sự trợ giúp của ân sủng Đức Kitô và trong sự tự do không sợ hãi, để làm chủ những khuynh hướng dục vọng mới chớm và thiết lập những mối tương quan yêu thương chân thực với tha nhân. Điều này không thể đạt được nếu thiếu một nền giáo dục đích thực về tình yêu chân thành và việc sử dụng đúng đắn tính dục, sao cho nhân vị – trong toàn bộ chiều kích của mình, kể cả thân xác – được dẫn vào sự viên mãn của mầu nhiệm Đức Kitô.

Việc khảo sát nguyên nhân của hiện tượng này – kể cả trong khía cạnh tâm lý và xã hội học – sẽ rất hữu ích để tìm ra một phương dược chữa trị thích hợp.

b) Các liên hệ sống chung tự do ngoài hôn nhân

81. Đây là những mối liên kết không có bất kỳ ràng buộc thể chế nào được công nhận công khai – dù là dân sự hay tôn giáo. Hiện tượng này, vốn ngày càng phổ biến, tất yếu phải thu hút sự quan tâm của các mục tử, bởi vì đằng sau nó có thể có những nguyên nhân rất đa dạng, việc tác động trên chúng có thể phần nào hạn chế được các hậu quả.

Thực tế, có những người cảm thấy như bị buộc phải rơi vào tình trạng này do hoàn cảnh khó khăn – kinh tế, văn hóa hay tôn giáo – vì nếu kết hôn hợp pháp, họ sẽ phải chịu thiệt thòi, mất quyền lợi kinh tế, bị phân biệt đối xử, v.v. Có người lại mang thái độ khinh miệt, phản kháng hoặc phủ nhận xã hội, định chế gia đình, trật tự chính trị – xã hội, hoặc chỉ đơn thuần tìm kiếm khoái lạc. Một số khác bị thúc đẩy bởi sự thiếu hiểu biết, nghèo đói cùng cực, đôi khi bởi những điều kiện bất công thực sự, hoặc do sự non nớt tâm lý khiến họ do dự và sợ hãi trước việc cam kết một mối quan hệ ổn định và dứt khoát. Ở một số quốc gia, phong tục truyền thống còn quy định rằng hôn nhân chỉ được công nhận sau một thời gian sống chung và sau khi sinh con đầu lòng.

Mỗi yếu tố này đều đặt ra cho Hội thánh những vấn đề mục vụ khó khăn, vì kéo theo những hậu quả nghiêm trọng cả về phương diện tôn giáo và luân lý (mất đi ý nghĩa thánh thiêng của hôn nhân như là Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người; mất ân sủng bí tích; gây gương mù nặng nề), cũng như về phương diện xã hội (phá vỡ khái niệm gia đình; làm suy yếu ý thức trung tín ngay cả đối với xã hội; có thể gây tổn thương tâm lý cho con cái; cổ võ chủ nghĩa vị kỷ).

Các mục tử và cộng đoàn Hội thánh cần quan tâm nhận biết những tình huống này cùng với nguyên nhân cụ thể của chúng – từng trường hợp một; tiếp cận những người đang sống chung cách kín đáo và tôn trọng; kiên nhẫn giúp họ hiểu biết, sửa chữa bằng tình bác ái, và làm chứng bằng đời sống gia đình Kitô hữu, để mở đường cho họ tiến tới việc hợp thức hóa tình trạng của mình.

Tuy nhiên, trên hết, cần thực hiện công cuộc phòng ngừa: vun trồng ý thức trung tín trong toàn bộ nền giáo dục luân lý và tôn giáo của người trẻ; hướng dẫn họ nhận biết những điều kiện và cơ cấu nâng đỡ lòng trung tín ấy – vì không có trung tín thì cũng không có tự do đích thực; giúp họ trưởng thành về mặt thiêng liêng; và làm cho họ hiểu được sự phong phú nhân bản và siêu nhiên của hôn nhân-bí tích.

Dân Chúa cũng cần tích cực vận động với các cơ quan công quyền, để – khi chống lại những xu hướng làm phân hóa xã hội và gây tổn hại đến phẩm giá, an ninh và hạnh phúc của từng công dân – họ góp phần bảo đảm rằng dư luận không bị dẫn dắt đến chỗ xem nhẹ tầm quan trọng thể chế của hôn nhân và gia đình. Hơn nữa, vì ở nhiều nơi, sự nghèo đói cùng cực phát sinh từ những cơ cấu kinh tế – xã hội bất công hoặc thiếu sót khiến người trẻ không có điều kiện kết hôn cách xứng hợp, nên xã hội và các cơ quan công quyền cần hỗ trợ hôn nhân hợp pháp bằng những biện pháp xã hội và chính trị: bảo đảm mức lương gia đình, ban hành chính sách nhà ở phù hợp với đời sống gia đình, và tạo ra những cơ hội làm việc cũng như sinh sống đầy đủ.

c) Người Công giáo kết hôn chỉ bằng hôn nhân dân sự

82. Ngày càng phổ biến trường hợp những người Công giáo – vì lý do tư tưởng hoặc thực tiễn – chọn kết hôn chỉ bằng hôn nhân dân sự, từ chối hoặc ít nhất là trì hoãn việc cử hành hôn nhân-bí tích. Tình trạng này không thể hoàn toàn đồng hóa với việc sống chung không ràng buộc, bởi vì ít nhất vẫn có một cam kết nhất định đối với một trạng thái sống rõ ràng và có thể ổn định, dù viễn cảnh ly dị thường không xa lạ với quyết định này. Việc tìm kiếm sự công nhận công khai từ phía Nhà nước cho thấy các đôi bạn này sẵn sàng đảm nhận những nghĩa vụ đi kèm với các quyền lợi. Tuy nhiên, tình trạng này vẫn không thể được Hội thánh chấp nhận.

Hoạt động mục vụ cần hướng đến việc giúp các đôi bạn hiểu rõ sự cần thiết phải có sự nhất quán giữa lựa chọn đời sống và đức tin họ tuyên xưng, đồng thời cố gắng hết sức để giúp họ điều chỉnh tình trạng của mình theo ánh sáng các nguyên tắc Kitô giáo. Dù các mục tử của Hội thánh luôn đối xử với họ bằng lòng bác ái sâu xa và quan tâm đến đời sống cộng đoàn, thì Hội thánh vẫn không thể cho phép họ lãnh nhận các bí tích khi chưa có sự điều chỉnh hợp thức về tình trạng hôn nhân.

d) Người ly thân và ly hôn chưa tái hôn

83. Có nhiều nguyên nhân khác nhau – như sự hiểu lầm, thiếu khả năng mở ra với các mối tương quan liên vị, v.v. – có thể đau đớn dẫn tới sự đổ vỡ, thường là không thể hàn gắn, của một cuộc hôn nhân thành sự. Rõ ràng, ly thân phải được coi là giải pháp cuối cùng, chỉ sau khi mọi nỗ lực hợp lý nhằm cứu vãn đời sống hôn nhân đã trở nên vô hiệu.

Sự cô đơn và những khó khăn khác thường là thân phận của người phối ngẫu ly thân, nhất là khi người ấy vô tội. Trong trường hợp này, cộng đoàn Hội thánh càng phải nâng đỡ họ: dành cho họ sự kính trọng, liên đới, cảm thông và trợ giúp cụ thể, để họ có thể giữ vững lòng chung thủy ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn; giúp họ nuôi dưỡng đòi hỏi của việc tha thứ vốn thuộc về tình yêu Kitô giáo, và giữ sự sẵn sàng cho việc có thể nối lại đời sống hôn nhân trước kia.

Một trường hợp tương tự là người phối ngẫu đã bị ly dị, nhưng – ý thức rõ tính bất khả phân ly của dây hôn phối thành sự – không để mình vương vào một kết hợp mới, trái lại chỉ chuyên tâm chu toàn các bổn phận gia đình và trách nhiệm của đời sống Kitô hữu. Trong trường hợp này, gương sống chung thủy và sự nhất quán Kitô giáo của họ mang một giá trị chứng tá đặc biệt trước thế giới và Hội thánh; vì thế, Hội thánh càng phải dành cho họ một sự yêu thương và nâng đỡ liên tục, và không có bất cứ trở ngại nào cho việc họ được lãnh nhận các bí tích.

e) Những người ly hôn tái hôn

84. Thật đáng tiếc, kinh nghiệm hằng ngày cho thấy rằng những người đã ly hôn thường có xu hướng tiến tới một mối liên kết mới – dĩ nhiên không theo nghi lễ hôn phối Công giáo. Vì đây là một vết thương, như nhiều vết thương khác, đang ngày càng ăn sâu ngay cả trong môi trường Công giáo, nên vấn đề này phải được xử lý khẩn cấp và không thể trì hoãn. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nghiên cứu vấn đề này một cách cụ thể. Quả thật, Hội thánh – được thiết lập để dẫn đưa mọi người, trước hết là những người đã chịu Phép Rửa, tới ơn cứu độ – không thể bỏ mặc những ai đã gắn bó bằng dây hôn phối-bí tích mà nay lại tìm cách tiến tới một cuộc hôn nhân mới. Vì thế, Hội thánh sẽ kiên trì nỗ lực để đặt các phương thế cứu độ của mình trong tầm tay họ.

Vì lòng yêu mến chân lý, các mục tử cần biết rằng họ có bổn phận phân định thận trọng từng hoàn cảnh. Thật vậy, có sự khác biệt giữa những người đã chân thành nỗ lực cứu vãn cuộc hôn nhân đầu tiên nhưng bị bỏ rơi một cách hoàn toàn bất công, và những người, vì lỗi nặng của mình, đã phá hủy một cuộc hôn nhân hợp lệ theo giáo luật. Ngoài ra còn có những người đã bước vào một mối liên kết thứ hai nhằm chăm lo việc giáo dục con cái, và đôi khi trong lương tâm chủ quan họ tin chắc rằng cuộc hôn nhân trước – vốn đã tan vỡ không thể hàn gắn – từ trước đến nay chưa bao giờ thực sự thành sự.

Cùng với Thượng Hội đồng, tôi tha thiết kêu gọi các mục tử và toàn thể cộng đoàn tín hữu hãy nâng đỡ những người ly dị bằng một lòng bác ái khẩn thiết, để họ không cảm thấy mình bị tách rời khỏi Hội thánh. Là những người đã chịu Phép Rửa, họ có thể và phải tham dự vào đời sống Hội thánh: được khuyến khích lắng nghe Lời Chúa, tham dự Hy tế Thánh lễ, kiên trì trong cầu nguyện, gia tăng các việc bác ái và tham gia các sáng kiến cộng đoàn vì công lý, giáo dục con cái trong đức tin Kitô giáo, vun trồng tinh thần sám hối và thực hành các việc đền tội để ngày ngày khẩn cầu ơn Chúa. Hội thánh hãy cầu nguyện cho họ, khích lệ họ, tỏ mình là người mẹ đầy lòng thương xót và nhờ đó nâng đỡ họ trong đức tin và niềm hy vọng.

Tuy nhiên, dựa trên Kinh thánh, Hội thánh khẳng định lại kỷ luật của mình là không thể cho những người ly hôn đã tái hôn được hiệp thông Thánh Thể. Những người ấy không thể được rước lễ, vì tình trạng và lối sống hiện tại của họ mâu thuẫn một cách khách quan với mối hiệp nhất yêu thương giữa Đức Kitô và Hội thánh, mối hiệp nhất được biểu lộ và thực hiện trong Bí tích Thánh Thể. Ngoài ra, còn có một lý do mục vụ đặc thù: nếu cho phép những người ấy lãnh nhận Thánh Thể, các tín hữu khác có thể bị lầm lẫn và hoang mang về giáo huấn của Hội thánh liên quan đến tính bất khả phân ly của hôn nhân.

Việc hòa giải trong Bí tích Thống hối – mở đường tiến đến Bí tích Thánh Thể – chỉ có thể được ban cho những người, sau khi ăn năn vì đã vi phạm dấu chỉ Giao ước và lòng trung tín đối với Đức Kitô, thực sự sẵn sàng chấp nhận một lối sống không còn mâu thuẫn với tính bất khả phân ly của hôn nhân. Trên thực tế, điều này có nghĩa rằng khi người nam và người nữ, vì lý do hệ trọng – chẳng hạn để chăm lo và giáo dục con cái – không thể thực hiện nghĩa vụ ly thân, thì họ phải cam kết sống tiết dục trọn vẹn, tức là kiêng cữ mọi hành vi thuộc đời sống vợ chồng (x. Gioan Phaolô II, Bài giảng bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ VI, số 7, 25.10.1980: AAS 72 [1980], tr. 1082).

Tương tự, vì sự tôn trọng phải dành cho Bí tích Hôn phối, cho chính vợ chồng và thân nhân của họ, cũng như cho cộng đoàn tín hữu, mọi chủ chăn đều bị cấm – dù vì bất kỳ lý do hay viện cớ nào, kể cả mục vụ – cử hành bất cứ nghi thức nào cho những người ly dị tái hôn. Những nghi thức như vậy sẽ tạo ấn tượng rằng một cuộc hôn nhân bí tích mới đã được cử hành, và do đó dẫn đến hiểu lầm về tính bất khả phân ly của một hôn nhân đã được xác lập hợp lệ.

Khi hành động như vậy, Hội thánh tuyên xưng lòng trung thành với Đức Kitô và chân lý của Người; đồng thời, với tâm tình mẫu tử, Hội thánh chăm sóc và nâng đỡ những người con của mình – đặc biệt là những ai, không do lỗi của họ, đã bị người phối ngẫu hợp pháp bỏ rơi.

Với niềm tin vững chắc, Hội thánh xác tín rằng ngay cả những người đã xa rời giới răn của Chúa và vẫn đang sống trong tình trạng ấy, nếu kiên trì trong cầu nguyện, sám hối và bác ái, cũng có thể nhận được nơi Thiên Chúa ân sủng hoán cải và ơn cứu độ.

Những người không lập gia đình được

85. Tôi xin nói thêm một lời dành cho một nhóm người mà, vì hoàn cảnh cụ thể họ đang sống – và thường không phải do ý muốn của họ – tôi nhận thấy họ đặc biệt gần gũi với Trái Tim Đức Kitô và xứng đáng được Hội thánh cùng các mục tử săn sóc bằng tình thương và hành động thiết thực.

Thật đáng buồn, trên thế giới có rất nhiều người không thể quy chiếu vào điều mà ta gọi là “gia đình” theo nghĩa đúng đắn. Những vùng rộng lớn của nhân loại sống trong cảnh nghèo đói cùng cực, nơi sinh hoạt chung lộn xộn, thiếu nhà ở, các mối quan hệ không ổn định và không theo quy chuẩn, cùng với điều kiện văn hóa hạn chế đến mức không thể nói đến một gia đình thực sự. Có những người khác, vì nhiều lý do khác nhau, đã trở nên cô đơn giữa cuộc đời. Dẫu vậy, đối với tất cả những người ấy vẫn tồn tại một “Tin mừng về gia đình”.

Vì những người đang sống trong cảnh nghèo đói cùng cực, tôi đã nêu lên nhu cầu cấp bách phải can đảm hành động để tìm ra những giải pháp – kể cả ở bình diện chính trị – nhằm giúp họ vượt thoát khỏi tình trạng suy thoái phi nhân đạo này. Đây là trách nhiệm chung của toàn xã hội trong tinh thần liên đới, nhưng đặc biệt thuộc về những người có thẩm quyền vì chức vụ và trách nhiệm của họ, cũng như thuộc về các gia đình, những người cần thể hiện lòng cảm thông sâu sắc và ý chí tương trợ.

Đối với những người không có một gia đình tự nhiên, cần mở rộng hơn nữa các cánh cửa của đại gia đình Hội thánh, đại gia đình này được thể hiện cụ thể trong gia đình giáo phận và giáo xứ, trong các cộng đoàn Giáo hội cơ sở và trong các phong trào tông đồ. Không ai bị tước mất gia đình trong thế gian này: Hội thánh là nhà và là gia đình cho mọi người, đặc biệt cho những ai đang “làm lụng vất vả và mang gánh nặng nề” (x. Mt 11,28).

LỜI KẾT LUẬN

86. Gửi đến anh chị em là vợ chồng, gửi đến anh chị em là những người cha và những người mẹ trong gia đình;

Gửi đến các con, các bạn trẻ nam và nữ – các con là tương lai và niềm hy vọng của Hội thánh cũng như của thế giới, và sẽ là trụ cột đồng thời là nòng cốt năng động của gia đình trong thiên niên kỷ thứ ba sắp đến.

Gửi đến anh em – chư huynh đáng kính và thân mến trong hàng Giám mục và hàng linh mục; gửi đến các con yêu dấu là tu sĩ nam và nữ, những tâm hồn tận hiến cho Chúa – những người làm chứng cho các cặp vợ chồng về thực tại tối hậu của tình yêu Thiên Chúa.

Gửi đến tất cả anh chị em là những người có lương tri ngay thẳng, những ai dù với tư cách nào đang bận tâm về vận mệnh của gia đình: khi kết thúc Tông huấn này, tâm hồn tôi hướng về anh chị em với một mối quan tâm tha thiết.

Tương lai của nhân loại đi qua gia đình.

Vì vậy, việc mọi người có thiện chí dấn thân để bảo vệ và thúc đẩy các giá trị cũng như những đòi hỏi của gia đình là điều thật cần thiết và khẩn cấp.

Một nỗ lực đặc biệt trên phương diện này khiến tôi phải tha thiết kêu gọi các con cái Hội thánh. Anh chị em – nhờ đức tin đã nhận biết trọn vẹn mầu nhiệm kỳ diệu của Thiên Chúa – càng có thêm lý do để quan tâm sâu sắc tới thực trạng gia đình trong thời đại chúng ta, vừa đầy thử thách vừa chan chứa ân sủng.

Anh chị em có bổn phận yêu mến gia đình một cách đặc biệt. Đây là một sứ mạng cụ thể và đòi hỏi.

Yêu mến gia đình có nghĩa là trân trọng và không ngừng nỗ lực cổ vũ các giá trị cùng triển vọng của gia đình. Yêu mến gia đình còn là nhận diện những nguy cơ và những điều xấu đang đe dọa gia đình, để từ đó vượt qua chúng. Yêu mến gia đình là dấn thân kiến tạo một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của gia đình. Hơn nữa, một cách yêu mến vượt trội là trao lại cho các gia đình Kitô hữu ngày nay – vốn dễ bị cám dỗ nản lòng và lo âu trước những khó khăn ngày càng gia tăng – những lý do để tin tưởng vào chính mình, vào sự phong phú phát xuất từ căn tính và ơn sủng của họ, và để vững tin vào sứ mạng Thiên Chúa đã giao phó. “Các gia đình thời chúng ta cần giành lại vị thế của mình! Cần bước theo Chúa Kitô!” (Gioan Phaolô II, Tông thư Appropinquat iam, số 1, ngày 15/8/1980).

Ngoài ra, các Kitô hữu còn có nhiệm vụ loan báo Tin mừng về gia đình với niềm vui và niềm xác tín – một Tin mừng mà các gia đình hôm nay rất cần được nghe đi nghe lại và hiểu sâu xa hơn. Những lời chân thật ấy giúp gia đình nhận ra căn tính của mình, khám phá những nguồn lực nội tâm và ý thức tầm quan trọng của sứ mạng mà gia đình được mời gọi thực hiện, cả trong Thành đô loài người lẫn trong Thành đô của Thiên Chúa.

Hội thánh biết con đường dẫn gia đình vào chân lý sâu xa của mình. Con đường ấy, Hội thánh đã học dưới mái trường Đức Kitô và qua lịch sử, được giải thích dưới ánh sáng Thánh Thần; Hội thánh không áp đặt con đường ấy, nhưng cảm thấy một thôi thúc không thể kìm nén để đề nghị nó cho mọi người, không sợ hãi mà với niềm tin và hy vọng lớn lao, dù biết rằng Tin mừng cũng mang ngôn ngữ của Thập giá. Qua Thập giá, gia đình mới đạt tới con người viên mãn và tình yêu hoàn mỹ.

Cuối cùng, tôi tha thiết kêu gọi mọi Kitô hữu chân thành và can đảm cộng tác với tất cả những người thiện chí đang chu toàn trách nhiệm phục vụ gia đình. Những ai dấn thân vì lợi ích gia đình trong lòng Hội thánh – nhân danh Hội thánh và được Hội thánh soi dẫn – dù là cá nhân, tập thể, phong trào hay hiệp hội, thường gặp được những cộng tác viên và tổ chức khác cùng chia sẻ lý tưởng. Khi trung thành với các giá trị Tin mừng và tôn trọng phẩm giá con người, đồng thời trân trọng sự đa dạng chính đáng của các sáng kiến, sự cộng tác ấy sẽ thúc đẩy đời sống gia đình thăng tiến nhanh hơn và toàn diện hơn.

Giờ đây, khi kết thúc sứ điệp mục vụ này – sứ điệp nhằm khơi dậy sự quan tâm của mọi người đối với những nhiệm vụ vừa nặng nề vừa cao quý của gia đình Kitô hữu – tôi tha thiết khẩn cầu sự bảo trợ của Thánh Gia Nazareth.

Theo ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã sống ẩn dật trong gia đình ấy suốt nhiều năm; vì thế Thánh Gia trở thành nguyên mẫu và tấm gương cho mọi gia đình Kitô hữu. Gia đình duy nhất ấy – đã trải qua đời sống âm thầm và lặng lẽ trong một làng nhỏ ở Palestine, đã chịu thử thách bởi nghèo khó, bách hại và lưu đày, đã tôn vinh Thiên Chúa cách tinh tuyền và vô song – chắc chắn sẽ không ngừng trợ giúp các gia đình Kitô hữu, và thực sự là mọi gia đình trên thế giới, để họ trung thành với bổn phận hằng ngày, kiên nhẫn chịu đựng những âu lo và thử thách của cuộc sống, quảng đại mở lòng trước nhu cầu của tha nhân, và vui lòng chu toàn chương trình của Thiên Chúa dành cho mình.

Nguyện xin Thánh Giuse – “người công chính”, người lao động cần mẫn không biết mệt mỏi, người gìn giữ trung tín những điều được giao phó – luôn gìn giữ, che chở và soi sáng các gia đình.

Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ của Hội thánh và cũng là Mẹ của “Hội thánh tại gia” – nhờ ơn trợ giúp hiền mẫu của Mẹ, xin cho mỗi gia đình Kitô hữu thực sự trở thành một “Hội thánh nhỏ bé” tại gia, nơi phản chiếu và làm sống lại mầu nhiệm của Hội thánh của Đức Kitô. Nguyện xin Mẹ – Nữ tỳ khiêm nhường của Thiên Chúa – là gương mẫu cho sự đón nhận khiêm nhường và quảng đại trước thánh ý Thiên Chúa; nguyện xin Mẹ – Mẹ Sầu Bi đứng dưới chân Thập giá – an ủi những đau khổ và lau khô nước mắt cho những ai đang chịu khốn khổ vì những thử thách trong đời sống gia đình.

Nguyện xin Đức Kitô Chúa – Vua của vũ trụ, Vua của các gia đình – hiện diện, như Người đã hiện diện tại tiệc cưới Cana, trong mọi tổ ấm Kitô hữu, để ban ánh sáng, niềm vui, bình an và sức mạnh. Trong ngày lễ trọng kính Vương quyền của Người, tôi cầu xin Người cho mỗi gia đình biết quảng đại dâng hiến phần đóng góp độc đáo của mình cho việc hiện thực hóa Vương quốc của Người nơi trần gian – “Vương quốc đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn thánh thiện và bình an” (Kinh Tiền tụng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ) – đích điểm mà lịch sử đang hướng tới.

Tôi phó thác mọi gia đình cho Đức Kitô, cho Đức Maria và cho Thánh Giuse. Tôi dâng Tông huấn này vào đôi tay và vào trái tim các Đấng; xin các Đấng chuyển giao cho chư huynh và chư đệ đáng kính cùng các con yêu dấu, để các Đấng giúp anh chị em mở rộng lòng đón nhận ánh sáng Tin mừng chiếu soi mọi gia đình.

Đến với mọi người và từng người, cùng với lời cam kết cầu nguyện liên lỉ của tôi, tôi chân thành ban Phép Lành Tông Tòa, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Ban hành tại Rôma, bên cạnh Đền thờ Thánh Phêrô, ngày 22 tháng 11 năm 1981, Lễ trọng Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ, năm thứ tư triều đại Giáo hoàng của tôi.

GIOAN PHAOLÔ II

Linh mục Giuse Đinh Quang Vinh

Ban Mục vụ Giáo phận Đà Lạt

Chuyển ngữ từ: vatican.va

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*