Hỏi: Thật không may, một số giáo dân có thói quen xấu là rời nhà thờ ra về ngay sau khi Rước lễ. Tôi ước tính khoảng 30%, tương đương khoảng 225 người, ra về sớm. Nhà thờ của chúng tôi có sức chứa 750 người, vì vậy sự vắng 30% số người dự lễ là rất dễ nhận biết. Xin cha cho một lập luận thần học về lý do tại sao việc rời nhà thờ như thế không phải là hành vi thích hợp. – D. S., Port Charlotte, bang Florida, Mỹ.
Đáp: Đây là một vấn đề “muôn thuở”, nhưng người ta phải giải quyết nó bằng sự kiên nhẫn, bằng cách hãy lên tiếng “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (opportune et inopportune, 2 Tm 4, 2) như Thánh Phaolô nói, cho đến khi kết quả tốt đạt được.
Câu hỏi này làm tôi nhớ đến câu chuyện của một linh mục thánh thiện. Linh mục này có cùng vấn đề như thế với một trong các giáo dân mộ đạo của mình. Họ tham dự thánh lễ hàng ngày nhưng lại rời nhà thờ ra về ngay lập tức sau khi rước lễ. Cha đã giải quyết vấn đề bằng cách bảo hai chú giúp lễ cầm đèn nến sáng đi hai bên ông ấy, khi ông ấy đi ra khỏi nhà thờ và cùng đi với ông cho đến khi ông lên xe ra về.
Sau ba ngày sự việc cứ diễn ra như thế, ngưởi giáo dân lịch lãm ấy cảm thấy bối rối và lấy làm lạ, nên xin cha xứ giải thích sự việc. Cha trả lời rằng bởi vì Chúa Kitô vẫn còn hiện diện trong ông khi ông rời khỏi nhà thờ, nên sự hiện diện của ông cần được tôn vinh bằng đèn nến thắp sáng. Không cần phải nói thêm gì nữa, kể từ đó người ấy không bao giờ ra về sớm nữa.
Giai thoại này có thể được sử dụng như là một điểm khởi đầu cho vị linh mục, để giải thích với giáo dân về tầm quan trọng của việc tạ ơn vì hồng ân của Thánh Lễ, của việc được Lời Chúa dưỡng nuôi, của việc tham dự vào hy tế độc nhất của Chúa Kitô, và của việc Rước lễ.
Điều này cũng đòi hỏi phải một khoảng thời gian thực sự thinh lặng sau bài thánh ca hiệp lễ, và linh mục, phó tế và các thừa tác viên khác cần làm gương cho giáo dân, bằng cách ngồi thinh lặng chiêm niệm trong 2-3 phút.
Vào lúc này, linh mục có thể giúp giáo dân bằng suy niệm một lời kinh tạ ơn ngắn gọn. Điều này đặc biệt là có hiệu quả trong các Thánh lễ dành cho thiếu nhi, vì trong khi lời kinh được hướng tới cách rõ ràng cho trẻ em, nó cũng có ích cho người lớn nữa.
Một điểm khác cần được nhấn mạnh là tầm quan trọng của việc tham dự trọn Thánh Lễ. Có nhiều hình ảnh tạo hình để minh họa cho điều này, nhưng đa số có thể hiểu một việc đơn giản là nếu ông chủ của họ, hoặc thị trưởng địa phương chẳng hạn, triệu tập họ đến dự một cuộc họp, họ sẽ không dám ra về, trước khi người chủ ấy chính thức kết thúc buổi họp. Thậm chí điều này còn là đúng hơn khi người cha người mẹ, anh chị em ruột hoặc người bạn thân mời chúng ta dành thì giờ ở bên họ.
Nếu chúng ta ứng xử như vậy trước các người khác và các mối quan hệ, thì điều này cần phải đúng hơn nhiều khi người chủ của chúng ta là Chúa Cha tạo dựng nên ta, Chúa Con chết và phục sinh vì chúng ta, và Chúa Thánh Thần ban sự sống cho chúng ta.
Chúng ta hãy bỏ phép lịch sự qua một bên, và trở về với sự tạ ơn. Thánh Lễ là một cái mà chúng ta cùng cử hành với nhau với tư cách là Giáo Hội, và với tư cách là một cộng đoàn thờ phượng được hiệp nhất với Chúa Kitô qua vị linh mục. Do đó, thánh lễ không chỉ là một cái mà chúng ta cử hành với tư cách cá nhân Kitô hữu.
Trong cùng một cách thức như vậy, việc tạ ơn của chúng ta cho Thánh Lễ không thể được giản lược vào lĩnh vực cá nhân, nhưng phải được thực hiện với tư cách Giáo Hội. Việc tạ ơn tập thể này được làm qua vị linh mục trong lời nguyện kết lễ, mà tất cả đồng thanh thưa “Amen”.
Cuối cùng, Thánh Lễ được kết hiệp mật thiết với đời sống và sứ mạng của Kitô hữu. Nghi thức kết lễ (phép lành và lời chúc đi bình an) sai chúng ta ra về để thông chuyển cho anh chị em mình những gì chúng ta đã nhận được. Do đó, nếu chúng ta rời nhà thờ ngay sau khi Rước Lễ, thì chúng ta mất đi thành phần quan trọng của đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Về một quan điểm vật chất, người ta cũng có thể thấy liệu có động lực hữu hình nào làm cho người ta rời nhà thờ sớm chăng. Sợ bị kẹt xe ở bãi xe chăng? Giờ hai thánh lễ quá gần nhau chăng? Nếu thực sự có sự bất tiện liên quan như thế, thì một mình thần học là không hiệu quà trong việc thay đổi thói quen của người ta, cho đến khi các bất tiện ấy được giải quyết trước đã.
Câu hỏi này làm tôi nhớ đến câu chuyện của một linh mục thánh thiện. Linh mục này có cùng vấn đề như thế với một trong các giáo dân mộ đạo của mình. Họ tham dự thánh lễ hàng ngày nhưng lại rời nhà thờ ra về ngay lập tức sau khi rước lễ. Cha đã giải quyết vấn đề bằng cách bảo hai chú giúp lễ cầm đèn nến sáng đi hai bên ông ấy, khi ông ấy đi ra khỏi nhà thờ và cùng đi với ông cho đến khi ông lên xe ra về.
Sau ba ngày sự việc cứ diễn ra như thế, ngưởi giáo dân lịch lãm ấy cảm thấy bối rối và lấy làm lạ, nên xin cha xứ giải thích sự việc. Cha trả lời rằng bởi vì Chúa Kitô vẫn còn hiện diện trong ông khi ông rời khỏi nhà thờ, nên sự hiện diện của ông cần được tôn vinh bằng đèn nến thắp sáng. Không cần phải nói thêm gì nữa, kể từ đó người ấy không bao giờ ra về sớm nữa.
Giai thoại này có thể được sử dụng như là một điểm khởi đầu cho vị linh mục, để giải thích với giáo dân về tầm quan trọng của việc tạ ơn vì hồng ân của Thánh Lễ, của việc được Lời Chúa dưỡng nuôi, của việc tham dự vào hy tế độc nhất của Chúa Kitô, và của việc Rước lễ.
Điều này cũng đòi hỏi phải một khoảng thời gian thực sự thinh lặng sau bài thánh ca hiệp lễ, và linh mục, phó tế và các thừa tác viên khác cần làm gương cho giáo dân, bằng cách ngồi thinh lặng chiêm niệm trong 2-3 phút.
Vào lúc này, linh mục có thể giúp giáo dân bằng suy niệm một lời kinh tạ ơn ngắn gọn. Điều này đặc biệt là có hiệu quả trong các Thánh lễ dành cho thiếu nhi, vì trong khi lời kinh được hướng tới cách rõ ràng cho trẻ em, nó cũng có ích cho người lớn nữa.
Một điểm khác cần được nhấn mạnh là tầm quan trọng của việc tham dự trọn Thánh Lễ. Có nhiều hình ảnh tạo hình để minh họa cho điều này, nhưng đa số có thể hiểu một việc đơn giản là nếu ông chủ của họ, hoặc thị trưởng địa phương chẳng hạn, triệu tập họ đến dự một cuộc họp, họ sẽ không dám ra về, trước khi người chủ ấy chính thức kết thúc buổi họp. Thậm chí điều này còn là đúng hơn khi người cha người mẹ, anh chị em ruột hoặc người bạn thân mời chúng ta dành thì giờ ở bên họ.
Nếu chúng ta ứng xử như vậy trước các người khác và các mối quan hệ, thì điều này cần phải đúng hơn nhiều khi người chủ của chúng ta là Chúa Cha tạo dựng nên ta, Chúa Con chết và phục sinh vì chúng ta, và Chúa Thánh Thần ban sự sống cho chúng ta.
Chúng ta hãy bỏ phép lịch sự qua một bên, và trở về với sự tạ ơn. Thánh Lễ là một cái mà chúng ta cùng cử hành với nhau với tư cách là Giáo Hội, và với tư cách là một cộng đoàn thờ phượng được hiệp nhất với Chúa Kitô qua vị linh mục. Do đó, thánh lễ không chỉ là một cái mà chúng ta cử hành với tư cách cá nhân Kitô hữu.
Trong cùng một cách thức như vậy, việc tạ ơn của chúng ta cho Thánh Lễ không thể được giản lược vào lĩnh vực cá nhân, nhưng phải được thực hiện với tư cách Giáo Hội. Việc tạ ơn tập thể này được làm qua vị linh mục trong lời nguyện kết lễ, mà tất cả đồng thanh thưa “Amen”.
Cuối cùng, Thánh Lễ được kết hiệp mật thiết với đời sống và sứ mạng của Kitô hữu. Nghi thức kết lễ (phép lành và lời chúc đi bình an) sai chúng ta ra về để thông chuyển cho anh chị em mình những gì chúng ta đã nhận được. Do đó, nếu chúng ta rời nhà thờ ngay sau khi Rước Lễ, thì chúng ta mất đi thành phần quan trọng của đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Về một quan điểm vật chất, người ta cũng có thể thấy liệu có động lực hữu hình nào làm cho người ta rời nhà thờ sớm chăng. Sợ bị kẹt xe ở bãi xe chăng? Giờ hai thánh lễ quá gần nhau chăng? Nếu thực sự có sự bất tiện liên quan như thế, thì một mình thần học là không hiệu quà trong việc thay đổi thói quen của người ta, cho đến khi các bất tiện ấy được giải quyết trước đã.