LỜI MỞ
Hình ảnh người mục tử luôn có sức thu hút trong dòng lịch sử, không phải vì đó là một dung mạo khả ái, mà đó là cách thế, qua đó Thiên Chúa chăm sóc và yêu thương nhân loại. Qua các mục tử, Thiên Chúa tiếp tục đổ tràn tình yêu thương xuống cho nhân loại, chăm sóc dân Người, vẫn là Mục Tử đời đời.
Thiên Chúa hứa sẽ không bao giờ để cho dân Người thiếu mục tử chăm sóc và hướng dẫn: “Ta sẽ thôi thúc cho [các chiên Ta] những mục tử để các mục tử chăn nuôi chúng, chúng sẽ không còn sợ hãi và hoảng loạn” (Gr 23,4). Là Mục tử đã được các tiên tri loan báo, “Mục tử Tối Cao của đoàn chiên” (Dt 13,20) mang cho chiên sự sống (x. Ga 10,10), Đức Giêsu cũng đã trao phó cho các Tông đồ và những người kế vị các ngài sứ mệnh chăn dắt đoàn chiên của Thiên Chúa (x. Ga 21,15-17; 1Pr 5,2)[1]. Do đó, lời Đức Giêsu mời gọi thánh Phêrô xưa: “Hãy chăn sóc chiên của Thầy” (Ga 21,17) vẫn là lời khẩn thiết gửi tới nhân loại, đặc biệt là Giáo Hội và những ai muốn dấn thân trong sứ vụ chăm sóc đoàn chiên của Chúa.
Thánh Phaolô cũng là người mục tử theo nghĩa thánh nhân đã tiếp tục sứ mạng chăm sóc đoàn chiên là Giáo Hội của Đức Kitô. Khi nói về thánh Phaolô, chúng ta thường biết đến ngài là con người hăng say, một chiến sỹ truyền giáo, thành lập các cộng đoàn và là nhà bảo vệ Giáo Hội trong thời sơ khai; thế nhưng, thánh nhân đã là mục tử phục vụ của Đức Kitô, cho dù thánh nhân có đưa ra giáo huấn hay điểm giáo lý nào. Các giáo huấn và suy tư thần học của thánh nhân cũng xuất phát từ hoàn cảnh mục vụ cho cộng đoàn. Những câu trả lời của thánh nhân thể hiện một con người ưu tư làm sao để các tín hữu của mình trở thành những Kitô hữu vững vàng trong đức tin và xây dựng một Giáo Hội hiệp nhất. Sứ vụ ấy được thúc đẩy bởi “lòng bác ái mục tử” chân thành, yêu mến và nhiệt thành. Nơi thánh nhân, ta khám phá ra tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu đã thúc bách ngài (x. 2Cr 5,14) trong sứ vụ phục vụ như người chủ chăn đối với các cộng đoàn.
Phác hoạ lại dung mạo thánh Phaolô, một vị mục tử lữ hành được Đấng Phục Sinh uỷ thác sứ vụ loan báo Tin Mừng, sẽ giúp ta khám phá những nét tuyệt vời của một tâm hồn yêu mến Đức Kitô và Tin Mừng của Người, một con người tình cảm dạt dào, có lòng thương mến những người con ngài sinh ra trong đức tin. Ngài là vị mục tử có lúc thể hiện uy thế của người quản gia lãnh đạo, thẳng thắn lên án, sẵn sàng ra hình phạt, nhưng có lúc lại tỏ ra đau khổ vì thất bại, vì các cộng đoàn bất tuân. Khi thi hành quyền bính đứng đầu các cộng đoàn, thánh nhân thể hiện mối bận tâm đầy thương mến và thân thiện, thậm chí sẵn sàng hy sinh cốt để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô. Đó là hình ảnh người chăn chiên, người canh giữ đoàn chiên với thái độ tuân phục đối Đức Kitô là Vị Mục Tử Tối Cao của các đoàn chiên. Do vậy, thánh Phaolô vẫn mãi là một tấm gương điển hình cho sứ vụ mục tử của những ai được Đức Kitô kêu gọi.
PHẦN 1: DUNG MẠO THÁNH PHAOLÔ, NGƯỜI MỤC TỬ
1. Mục tử hiến thân vì Tin Mừng Đức Kitô
2. Dùng quyền bính để phục vụ như người quản gia
3. Mục tử nhạy cảm, yêu mến và hy sinh phục vụ các giáo đoàn
4. Mục tử chịu nhiều thất bại và thử thách
5. Đối diện với các thách đố mục vụ
Thánh Phaolô trở nên người vĩ đại theo tiếng gọi của Đức Kitô vì ngài hoạt động trên sức mạnh của tình yêu, tình yêu này đã là “luật” cho đời sống của thánh nhân. ‘Đau khổ thánh nhân phải chịu càng tô điểm thánh nhân thành vị thầy khả tín về chân lý, một con người không tìm tư lợi, danh vọng, thoả mãn cho riêng mình nhưng dấn thân phục vụ Đấng đã yêu thương chúng ta và phó mình vì chúng ta’[2]. Đây là chân dung người “mục tử” đã bước theo gót Vị Mục Tử Nhân Lành là Đức Giêsu Kitô, loan truyền tình yêu của Chúa đến cho mọi người.
Chúng ta có thể khám phá chân dung thánh Phaolô ở nhiều cương vị khác nhau. Người thì coi thánh nhân là tông đồ dân ngoại, người khác gọi thánh nhân là người sáng tạo Kitô giáo, là ngôn sứ phê phán, chiến sỹ kiên cường cho chân lý Tin Mừng. Chúng ta cũng có thể gọi thánh nhân là nhà thần học đại tài khi ngài viết nhiều giáo huấn đậm tính thần học về Đức Giêsu Kitô, về lề luật, về sự công chính …. Và đối với các cộng đoàn, thánh nhân là mục tử phục vụ đầy nhiệt huyết và khôn ngoan, hết lòng yêu mến, hy sinh vì Tin Mừng và Kitô hữu; đồng thời cũng là người lo âu, với thái độ ân cần chăm sóc cũng như giải quyết các vấn đề mục vụ cho các Kitô hữu trong các giáo đoàn.
1. Mục tử hiến thân vì Tin Mừng Đức Kitô
Gặp gỡ Đấng phục sinh qua biến cố Đamát là biến cố nền tảng và đã để lại âm vang trong đời mục tử của thánh nhân. Nhận ra Đấng mà thánh nhân đang tìm cách bách hại, cũng là lúc ngài khám phá ra chân dung đích thực của Thiên Chúa mà ngài hằng tìm kiếm. Biết mình được yêu mến và được cứu thoát nhờ Đấng mình bách hại, Phaolô nhận ra ân sủng Thiên Chúa. Giờ đây, thánh nhân thay vì tìm thì Đấng ngài tìm kiếm nắm lấy ngài: đó là Đức Giêsu Kitô. Chính lúc nhận ra ơn gọi đích thực của mình là lúc ngài nhận được ân sủng là mạc khải và sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho dân ngoại. Thánh nhân nhận mình là người phục vụ dân ngoại qua việc loan báo Tin Mừng: “Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 15,15-16).
Kể từ lúc gặp Đấng Phục Sinh và được biến đổi, thánh Phaolô đã bước đi trong khúc ngoặt mới, trong một nhãn quan mới. Thánh nhân không còn dành ưu tiên về gia đình, văn hoá, mà với lòng nhiệt thành, ngài quy hướng cuộc đời và sứ vụ mình về Đức Kitô, Đấng ngài đã gặp và bị khuất phục. Từ một kẻ bắt bớ Đức Kitô, ngài thành người rao giảng Tin Mừng về Đức Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh và đã phục sinh. Chính vì hướng đến Đức Kitô phục sinh đã làm Phaolô chú tâm đến những thực tại, nhấn mạnh các nhu cầu cấp bách của mỗi người phải nhận biết “quyền năng phục sinh của Người” (Pl 3,10). Bỏ lại những gì vốn thiết thân và đã gắng sức đạt được, thánh nhân tận tâm tận lực rao giảng Tin Mừng, một sứ mạng nhận được từ Thiên Chúa chứ “không phải là do loài người” (Gl 1,11). Bản chất cuộc đời thánh Phaolô có thể tóm gọn trong câu nói: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9,16).
Nhưng thánh Phaolô loan báo Tin Mừng nào, nội dung ra sao?
Thánh nhân khẳng định chỉ có một Tin Mừng và chỉ có một biến cố thánh nhân công bố mà thôi: đó là Đức Kitô đã chết và đã Phục Sinh. Tin Mừng ấy do “Thiên Chúa thương mạc khải cho” (Gl 1,16) mà thánh nhân đón nhận cách đặc biệt từ Đức Kitô qua kinh nghiệm đời mình nên thánh nhân có thể nói về “Tin Mừng của mình.” Chính Tin Mừng ấy mà thánh nhân ra sức mạnh mẽ chống những người phản bội lại công trình cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, những người rao giảng thứ tin mừng khác. Tin Mừng ấy là quyền năng cứu độ, soi sáng thánh Phaolô chu toàn sứ vụ của mình, thắng vượt các gian nan khốn khó, kết hợp với Đức Giêsu Kitô đến nỗi thánh nhân thốt lên: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Trọng tâm Tin Mừng Đức Kitô chết và sống lại mà thánh Phaolô công bố là lẽ sống cho cuộc đời thánh nhân: “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Qua biến cố Đamát, thánh nhân cảm nghiệm không còn phải là Thiên Chúa của Lề Luật nữa, mà là Thiên Chúa bị đóng đinh. Thiên Chúa đã cất đi tấm màn che, cho thánh nhân nhìn thấy vinh quang của Người. Trên đường phục vụ, thánh nhân nhận ra thập giá là nguồn mạch yêu thương vô biên của Thiên Chúa, là cách bày tỏ quyền năng vô biên của Người, thể hiện trong Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế, thánh Phaolô đã ra đi bằng sức mạnh của thập giá, chấp nhận gian khổ để loan báo Tin Mừng. Thánh nhân cho rằng Thiên Chúa chọn ngài là “kẻ sinh non” (1Cr 15,8), làm kẻ có sứ mạng lớn lao: “Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1,16).
Rõ ràng, thánh Phaolô nhấn mạnh đến tầm quan trọng Tin Mừng ngài đã nhận và truyền đạt trung thành tối đa. Tin Mừng này vốn là trọng tâm của đức tin Kitô giáo: Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai…. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1Cr 15,3-5.8). Trung tâm của Tin Mừng là biến cố diễn ra trong thời gian: cái chết của Đức Giêsu. Song Phaolô hướng tới một giá trị cứu thoát: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta” như là biến cố trong kế hoạch Thiên Chúa.
Sứ vụ của thánh Phaolô gắn bó với mạc khải về chiến thắng lạ lùng của quyền năng Thiên Chúa trong sự yếu đuối của Đấng đã chịu khổ hình thập giá. “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1Cr 1,22-23). Mầu nhiệm thập giá được thánh Phaolô miêu tả sống động, là sự khôn ngoan của Thiên Chúa để mạc khải sự hạ mình và tuân phục của Con Thiên Chúa, một lối vào gặp Thiên Chúa, một sức mạnh phá tan “bức tường thù ghét” (Ep 2,16). Đây là ngọn nguồn cuộc chiến thắng của Đức Kitô trước tội lỗi và sự chết (x. 1Cr 15,51-58). Đây chính là lý do khiến Phaolô ngăn cấm những ai muốn gói gọn Tin Mừng vào sự khôn ngoan của người phàm: “Đức Kitô đã sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1Cr 1,17). Tin Mừng phải là lời mời gọi đón nhận sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà người đời cho là điên rồ (x. 1Cr 1,18-25).
Thánh Phaolô không chỉ công bố Tin Mừng về thập giá, gây ra “cớ vấp phạm” mà thánh nhân nhìn thập giá trong viễn cảnh của niềm hy vọng, khi công bố Tin Mừng Đức Kitô Phục Sinh. Phaolô đã viết cho các Kitô hữu ở Côrintô và khẳng định: “nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14). Như vậy, thánh nhân cũng mở ra cho các Kitô hữu niềm tin hy vọng về tương lai bắt nguồn từ sự phục sinh của Đức Kitô, Người làm chủ sự chết, làm cho ta nên công chính (x. Rm 4,25), cho ta sống lại ngày sau hết (x. Rm 6,5; 1Cr 15,13) ….
Nhận được mạc khải của Thiên Chúa, đón nhận và nêu cao giá trị của Tin Mừng Đức Giêsu chết và phục sinh là động cơ để thánh nhân gắng công rao giảng niềm tin đó. Thánh nhân đã dấn thân không mệt mỏi, trải qua bao gian khổ và thử thách để luôn trung thành với lý tưởng và ơn gọi làm người loan Tin Mừng. Ngài còn cho mình là “tôi tớ của Đức Kitô Giêsu; được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 1,1). Ngài không công bố Tin Mừng khác nhưng là Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và phục sinh đem ơn cứu độ cho nhân loại.
Vì Tin Mừng và cho cộng đoàn, thánh Phaolô, vị mục tử chân chính đã không sống trên đoàn chiên mà sống cho đoàn chiên. Ngài cho rằng “làm thợ đáng được hưởng công” và công việc loan báo Tin Mừng cũng như người lo thánh vụ trong đền thờ xưa, “được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ. Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng” (1Cr 9, 13-14). Nhưng thánh nhân không muốn lệ thuộc vào cộng đoàn mà trở nên gánh nặng cho họ. Ngài coi rao giảng Tin Mừng là một công việc “vinh quang”, không lệ thuộc vào vật chất. Thậm chí, ngài còn cho rằng đó không chỉ là lý do để tự hào nhưng là điều cần thiết bó buộc: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Khi ngài nhận ra ơn nhưng không Đức Kitô ban, ngài quyết tâm dấn thân rao giảng Tin Mừng mà không hề tìm lợi lộc, tự nguyện “rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng” (1Cr 9,18). Thánh nhân đã lao động kiếm sống để không gây phiền hà cho các tín hữu, nhưng cũng để “chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Kitô” (1Cr 9,12). Sức mạnh để ngài chiến thắng gian khổ và trở nên người mục tử chăm sóc chiên hết mình là do ngài đã kết hợp với Đức Kitô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35-36).
2. Dùng quyền bính để phục vụ như người quản gia
Thánh Phaolô ra đi truyền giáo không mệt mỏi, thiết lập các cộng đoàn và luôn canh cánh mối lo toan sao cho các cộng đoàn được lớn lên trong đức tin và lòng mến. Cho dù có uy thế người đứng đầu và nuôi dưỡng đức tin cộng đoàn, thánh nhân cũng không lấy quyền của thủ lãnh áp đặt và lãnh đạo họ, nhưng ngài thi hành quyền bính như một quản gia phục vụ Đức Kitô là Chủ và đoàn chiên của Người. Cho dẫu nhìn nhận mình có quyền như tông đồ, thánh nhân cũng dùng quyền đó trong giới hạn “theo quyền hành Chúa đã ban để xây dựng, chứ không phải để phá đổ” (2Cr 13,10).
Thay vì dùng quyền để kiểm soát và điều hành mọi công việc trong các giáo đoàn, thánh Phaolô lại xác định mình chỉ là người quản lý và phục vụ khi thực thi loan báo Tin Mừng. Trong tác vụ quản gia, người phục vụ đoàn chiên Đức Kitô trao phó, thánh Phaolô đã nhiều lần đề cập ngài chỉ là người dẫn dắt mọi người đến vâng phục đức tin (x. Rm 1,5; 6,16-17; 5,18….) và xây dựng Thân Thể Chúa Kitô là Hội Thánh vì “quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2Cr 4,7). Quyền ấy do Đức Kitô ban “để xây dựng, chứ không phải để đánh đổ anh em” (2Cr 10,8). Như thế, ta hiểu phần nào thái độ cứng rắn của thánh Phaolô tới mức thật nghiêm khắc, có thể ra hình phạt (2Cr 10,6) khi cộng đoàn sống vô kỷ luật (1Cr 11;14), gây gương xấu về đời sống luân lý (1Cr 5), khi đối diện với thứ Tin Mừng xa lạc (Gl 1,9) cũng chỉ để bảo vệ và hướng cộng đoàn sống thực thi Tin Mừng toàn vẹn.
Thánh nhân nhận mình cùng với những người khác là “những cộng tác viên của Thiên Chúa” (1Cr 3,9) chứ không nhận mình làm chủ hay có quyền hành tối thượng trên các cộng đoàn. Do đó, thánh nhân cũng tỏ lòng tri ân những người đã giúp cho Tin Mừng và công cuộc của ngài, như Silvanô, Timôthê, Titô, Priscilla, Philêmon, Máccô, Đêma, Luca…, song ngài lại lên án những ai rao giảng một Tin Mừng khác với Tin Mừng của mình.
Khi thi hành quyền bính để phục vụ cho các cộng đoàn, thánh Phaolô dựa vào uy thế của Tin Mừng (2Cr 4,5) với mục đích là xây dựng và phát triển Thân Thể Đức Kitô (1Cr 10; Rm 14,19). Thánh nhân không dùng quyền để vinh danh mình mà để “rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa” (2Cr 4,5). Trong cuộc xung đột với Phêrô, thánh Phaolô cũng bày tỏ uy thế của người tông đồ của Đức Kitô, nhưng dựa vào công trạng và ân sủng của Đức Kitô, và cũng để nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ cho hết mọi người, dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, cắt bì hay không cắt bì. Không lo cho mình, nhưng thánh nhân toàn tâm toàn lực vì công cuộc xây dựng hiệp thông và phục vụ mọi người, đặc biệt là những con người yếu thế. Trong thư gửi cho các cộng tác viên, thánh nhân cũng khuyên họ khước từ lợi lộc và quyền thống trị mà sống nêu gương mẫu cho cộng đoàn họ phục vụ (x. 1Tm 3,2; Tt 1,7-8). Chính vì bận tâm lo cho Hội Thánh nên thánh nhân đã đồng hoá đời sống mình vào tha nhân: “còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?” (2Cr 11,28-29).
Tuy có uy thế của người phục vụ Tin Mừng, nhưng thánh Phaolô cũng không ngần ngại thú nhận những yếu đuối của mình (x. 1Cr 2,3). Một đàng thánh nhân đòi hỏi các cộng đoàn và các cộng tác viên phải tuân phục tuyệt đối với đức tin; đàng khác, thánh nhân lại nhắc đến quá khứ yếu đuối của mình. Điều đó có vẻ nghịch lý, nhưng lại xác quyết một điều rằng ân sủng của Thiên Chúa hoạt động không do sức con người: “tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2Cr 12,9).
Thánh Phaolô tỏ uy thế để yêu mến các Kitô hữu (2Cr 11,11; 12,15) bằng một tình yêu ghen tương như người đã kết hôn với họ (2Cr 11,2), có khi đó là hình ảnh người cha, người mẹ với con cái. Khi thì thánh nhân coi mình là người mẹ: “khi ở giữa anh em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ. Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi” (1Tx 2,7-8). Lúc khác, thánh Phaolô coi mình là người sinh ra các Kitô hữu trong Đức Kitô: “Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em” (Gl 4,19). Có khi ngài nhắc mình là người cha đối với con cái: “chúng tôi đã cư xử với mọi người trong anh em như cha với con” (1Tx 2,11; cf. 1Cr 4,14; 2Cr 6,13). Và thánh nhân cũng không nề hà khi nhận mình là người nô lệ, vì Đức Kitô để phục vụ cộng đoàn: “chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu” (2Cr 4,5; cf. 1Cr 9,19).
Người ta thường gán cho quyền bính mác “gia trưởng và độc đoán”, nhưng thánh Phaolô không hề lợi dụng quyền bính để thoả mãn khát vọng thống trị nào. Quả thế, là người nhận lệnh phục vụ Tin Mừng và chiên của Đấng Phục Sinh, không bao giờ thánh nhân đòi người khác tuân phục chỉ vì bản thân mình mà luôn phân biệt những gì đến từ Thiên Chúa: “tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa” (1Cr 7,10). Không coi mình là người có quyền trên cộng đoàn, ngược lại, thánh nhân nhận mình là cộng tác viên chỉ làm những gì trong khả năng Thiên Chúa ban cho ngài: “kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể .… Chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên. Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác thì xây trên nền móng đó. Nhưng ai nấy phải coi chừng về cách mình xây cất. Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô” (1Cr 3,7-11). Đó cũng là tinh thần mà thánh nhân kêu gọi các Kitô hữu hướng theo, bắt chước ngài “như ngài bắt chước Đức Kitô” (1Cr 11,1), hầu dẫn dắt họ đến với Đức Kitô.
Như vậy, là mục tử làm công tác quản gia của Đức Kitô, thánh Phaolô không mơ ước gì hơn là xây dựng các cộng đoàn huynh đệ không còn chia rẽ và thống trị. Chính vì lẽ đó mà thánh nhân không sử dụng quyền bính như một thế mạnh để cai trị mà thi hành với tất cả niềm thương mến và thân thiện. Thánh Phaolô cho mình chỉ là người quản lý, còn Đức Kitô mới là người Mục Tử Tối Cao có quyền trên đoàn chiên. Vì thế, thánh nhân thi hành quyền đứng đầu các cộng đoàn, chăm sóc họ với thái độ tuân phục đối với Đức Kitô.
3. Mục tử nhạy cảm, yêu mến và hy sinh phục vụ các giáo đoàn
Khi xác định được cuộc đời gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng, khi coi quyền bính để phục vụ Tin Mừng và các Kitô hữu, thánh Phaolô đã đem hết tâm huyết xây dựng và phát triển đức tin của cộng đoàn. Thánh nhân không nề hà khổ cực, kể cả phải làm lụng vất vả để không luỵ thuộc vào các cộng đoàn. Ngài yêu thương cộng đoàn hết mình, đôi khi cũng ân cần sửa dạy, thậm chí còn cảnh cáo họ vì những lỗi lầm.
a. Mục tử nhạy cảm và nhiệt huyết
Qua các mối tương quan của thánh Phaolô với các Kitô hữu, ta nhận thấy ngài là vị chủ chăn nhiệt huyết, cho dù đôi lúc tỏ ra là người cương quyết. Thánh nhân ‘là chủ chăn giàu nhân bản, có khả năng chia sẻ cuộc sống của các tín hữu và biết duy trì các tương quan liên bản vị sâu sắc vững vàng’[3], hết mực yêu thương các Kitô hữu, yêu thương vô vị lợi. Ngài cũng mong các Kitô hữu đáp lại tình thương ấy bằng cách mở rộng lòng mình để đón nhận lời ngài rao giảng. Do đó, thánh nhân cũng không ngần ngại cảnh cáo, sửa dạy các Kitô hữu với lời lẽ cứng rắn. Thái độ đó không phải để tỏ uy thế, nhưng để xây dựng cộng đoàn (x. Rm 14,19) huynh đệ hiệp nhất trong Thân Thể Đức Kitô, để tránh làm phương hại đến các phần tử yếu đuối trong cộng đoàn.
Dù đứng ở cương vị lãnh đạo cộng đoàn, thánh nhân cũng muốn chia sẻ buồn vui cùng cộng đoàn. Chính thánh nhân thổ lộ: “Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh ! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên ?” (2Cr 11,27-29). Thánh nhân không ngần ngại cho đi bản thân mình vì hạnh phúc và bảo vệ cộng đoàn trước sự tấn công của thứ tin mừng khác, lối sống dân ngoại …. Ngài nhận được tình yêu nhưng không từ Đấng Phục Sinh, và ngài đến loan truyền tình yêu ấy cho các Kitô hữu cũng nhưng không. Chính vì muốn tình yêu Thiên Chúa không bị “vô ích” trong thế gian, nên ngài bắt chước Đức Kitô, sẵn sàng “coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, đành mất hết, và coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3,8). Thánh nhân đã từng thổ lộ bằng lời trái tim mình: “Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hoà khi viết cho anh em: tôi viết không phải để gây ưu phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi hết lòng yêu mến anh em” (2Cr 2,4).
b. Mục tử bảo vệ đoàn chiên hiệp nhất
Vì yêu thương cộng đoàn, và để xây dựng một Thân Thể Đức Kitô hiệp nhất mà thánh Phaolô đã lên tiếng cảnh cáo tình trạng gây chia rẽ sống xa cách Tin Mừng và khích lệ họ sống niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Khi tín hữu Côrintô mắc bẫy một số người âm mưu chia rẽ cộng đoàn, hợp bè kéo cánh, người theo Phaolô, kẻ ủng hộ Apôlô, người khác nữa phò Kêpha, thánh nhân nhắc cho họ biết rằng chỉ có Chúa Kitô là nền móng duy nhất của căn nhà đức tin mà mỗi tín hữu phải cố công xây cất cho mình. Ngài nhắc họ chỉ có Chúa Giêsu Kitô là nền tảng duy nhất của toàn Giáo Hội: “Apôlô là gì ? Phaolô là gì ? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mọi người đã làm theo khả năng Chúa ban. Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1Cr 3,5-6). Và thánh nhân kết luận: “đừng ai khoe mình trước mặt người đời. Mọi sự đều thuộc về anh chị em. Phaolô, Apôlô, Kêpha, thế gian, sự sống, sự chết, hiện tại, tương lai, tất cả là của anh chị em. Nhưng chính anh chị em thì thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thì thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3,21-23).
Nói cách khác, thánh Phaolô nghiêm khắc cảnh cáo các tín hữu đừng mắc mưu những người muốn đánh phá Giáo Hội bằng cách gây chia rẽ và tạo ra tâm thức mặc cảm, so sánh, tị hiềm, cạnh tranh, nghi ngờ, kéo bè kết đảng giữa các thành phần Giáo Hội, giữa các chủ chăn với nhau, giữa các tín hữu và các chủ chăn, giữa cộng đoàn này với cộng đoàn khác. Riêng đối với tín hữu Côrintô, thánh Phaolô cho họ hiểu rằng nếu thánh nhân và các cộng sự viên của ngài có làm mọi sự để lôi kéo họ, thì không phải là để khống chế hay chiếm đoạt họ, mà là để đưa họ tới với Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Chúa, cộng tác với ơn thánh Chúa để niềm vui phát xuất từ đức tin của họ được trọn vẹn (x. 2Cr 1,24). Quả thế, thánh Phaolô minh xác với tín hữu Côrintô như sau: “Thật vậy, chúng tôi không rao giảng về chúng tôi, nhưng rao giảng Chúa Giêsu Kitô là Chúa, và chúng tôi chỉ là đầy tớ của anh chị em vì lòng mến Chúa Kitô” (2Cr 4,5). Nhận thức mình chỉ là đầy tớ của các tín hữu vì lòng mến Chúa Kitô, thánh Phaolô từ chối phô trương các khả năng đặc sủng ngài có, mà chọn các phương cách tầm thường hơn, nhưng cũng hữu hiệu hơn để giúp tín hữu tăng trưởng trong lòng tin.
Ngoài việc khuyến khích các Kitô hữu xây dựng hiệp nhất trong Đức Kitô, thánh Phaolô còn thúc đẩy, nài xin và khuyên nhủ họ, thay vì ra lệnh, sai khiến. Trong thư gửi ông Philêmôn, thánh Phaolô nói rằng dù ngài có quyền nhân danh Chúa Kitô truyền cho ông phải tiếp nhận Ônêsimô như là một người anh em trong đức tin, chứ không phải như một người đầy tớ đã trốn chủ, thánh nhân thích kêu gọi lòng yêu thương của ông hơn (x. Plm 8-9). Khi kêu gọi tín hữu Côrintô quảng đại rộng tay trợ giúp các Kitô hữu giáo đoàn Giêrusalem là “Giáo hội mẹ”, thánh Phaolô nói ngài không ra lệnh cho họ, nhưng chỉ nhắc tới nhiệt tâm của các tín hữu khác, để xem họ thành tâm trợ giúp các tín hữu nghèo túng tới mức nào (x. 2Cr 8,8). Thánh nhân còn nhắc nhở các Kitô hữu Thêxalônica biết ngài và các cộng sự viên truyền giáo đã cư xử với họ trong tình cha con, khuyên bảo, an ủi và nài xin họ sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng đã gọi họ vào Nước của Ngài để hưởng vinh quang với Chúa (x. 1Tx 2,11-12).
Không chỉ nêu gương sống cho các tín hữu, thánh Phaolô còn khuyến khích họ noi gương sống của ngài. Khi kêu gọi họ “nài xin anh chị em hãy bắt chước tôi” (1Cr 4,6), thánh nhân đã quy chiếu về Đức Kitô chứ không nhằm đề cao mình hay các cộng sự viên của ngài, để thôi thúc tín hữu biết lấy Chúa Kitô làm điểm tham chiếu duy nhất, và noi gương các ngài như các ngài đã noi gương sống của Chúa.
c. Mục tử yêu thương nhưng cho ‘roi vọt’
Tuy rất ân cần, thân mật, nhưng khi cần phải lên tiếng trước lối sống ngược Tin Mừng, thánh Phaolô cũng rất cứng rắn, quở trách nặng lời các tín hữu, đúng theo nguyên tắc “thương con cho roi cho vọt.” Thánh nhân mắng tín hữu Galát là “ngu xuẩn” vì đã để cho những Kitô hữu gốc Do Thái quá khích lung lạc, lôi kéo họ sống phản Tin Mừng tự do và giải phóng của Chúa Kitô. Theo thánh nhân, nhờ lòng tin vào Chúa Kitô chịu đóng đinh, con người được giải phóng khỏi luật lệ, nhận được Chúa Thánh Thần và sống theo tinh thần của Tin Mừng tự do, nhưng giờ đây họ lại quay trở về với luật lệ nô lệ và sống theo xác thịt (x. Gl 3,1-3). Ngài cũng trách tín hữu Côrintô “dại khờ” để cho các Kitô hữu gốc Do Thái gây chia rẽ, hành hạ, xâu xé, bóc lột, cười chê và đánh tát, mà tỏ ra nhu nhược không dám phản ứng nhân danh Tin Mừng của Chúa Kitô (x. 2 Cr 11,19-21). Thánh Phaolô cố ý nặng lời như thế với các tín hữu là để thức tỉnh họ đừng rơi vào mê hồn trận của những người phản bội tinh thần Tin Mừng của Chúa Kitô. Thánh nhân còn doạ sẽ “mang roi vọt” (1Cr 4,21) thay vì đức bác ái và lòng nhân hậu đến, nếu họ không hối lỗi sửa mình.
Mạnh mẽ hơn, đối với các người sống phản chứng và trở thành kẻ thù của Tin Mừng, đe dọa sự thật của Tin Mừng, nối giáo cho Satan đánh phá Giáo Hội Chúa, gây chia rẽ giữa ngài và các tín hữu, thánh Phaolô không ngần ngại mạt sát họ với thái độ khinh miệt và coi thường. Có khi thánh nhân gọi họ là “đồ anh em giả dối” (2 Cr 11,26; Gl 2,4), là các “tông đồ giả” (2 Cr 11,13) là “các kẻ phục vụ Satan” (2 Cr 11,15) là “những kẻ gây hoang mang rối loạn trong cộng đoàn” (Gl 5,13), thậm chí nặng hơn là “quân chó má” (Pl 3,2) và là “kẻ thù của thập giá Chúa Kitô” (Pl 3,18). Tình yêu thương đối với các tín hữu khiến cho thánh Phaolô trở thành đanh đá và có giọng sắt thép, song ngài viết những lời đó không phải để làm các Kitô hữu xấu hổ, nhưng là để sửa dạy họ như những người con yêu quý của ngài (x. 1Cr 4,14). Thánh nhân không coi họ là những thành phần nguy hiểm đáng nguyền rủa cho bằng nhắm đến mối hiệp thông trong Đức Kitô. Hội Thánh là các cộng đoàn mà thánh nhân đã nhọc công xây dựng trên sứ điệp Tin Mừng, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô bị đóng đinh (1Cr 3,10-17) nên ai đánh phá các cộng đoàn và gây chia rẽ lung lạc đoàn chiên tín hữu, là động đến chính con người của ngài, là làm ô uế đền thờ của Thiên Chúa, là phá huỷ công nghiệp của Đấng cứu chuộc.
d. Mục tử tự làm lụng để sống
Xác định mình là người rao giảng Tin Mừng chứ không sống nhờ Tin Mừng và lợi dụng cộng đoàn, thánh Phaolô đã tìm cho mình con đường tự mưu sinh, không để lại gánh nặng cho bất kỳ ai. Sách Công Vụ Tông Đồ xác định thánh Phaolô làm nghề dệt lều: “và vì cùng nghề, nên ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều” (Cv 18,3), nghề mà xã hội thời đó dành cho nô lệ hoặc những người kém cỏi nhất. Chúng ta không chỉ thấy hình ảnh một con người ngang dọc khắp nơi để truyền giáo, viết thư cho các cộng đoàn mình lập ra mà còn được chiêm ngắm một con người đang làm việc, đôi khi còn khó khăn, cực nhọc để kiếm sống. Thánh nhân quả là mục tử đã không “chăn” chiên nhằm trục lợi nhưng “đêm ngày đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em” (1Tx 2,9).
Thánh nhân coi mình là người loan báo Tin Mừng, song chính ngài cũng phải chọn nghề để nuôi thân. Đối với thánh nhân, lao động chân tay không là một nghề dành cho nô lệ, nhưng là mục đích để Tin Mừng gần gũi với con người, nhất là những người thấp kém. Lao động được xem là ưu thế biểu lộ sức mạnh của Tin Mừng, như là khả năng biến đổi thế giới và xây dựng tình huynh đệ. Và lao động cũng để giữ cho mình tránh tìm kiếm lợi lộc riêng tư làm cản trở Tin Mừng. Thánh nhân kết lại: lương bổng nếu có thì đó chính là lương bổng tự do, trong đó mình không ngừng lớn lên: “Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1Cr 9,17).
Là công dân tự do và nhà truyền giáo, lẽ ra thánh Phaolô không phải lao động mà có thể xin các cộng đoàn giúp đỡ, song ngài lao động để chia sẻ gian khó cùng các Kitô hữu. Thánh nhân xác định làm thợ đáng được hưởng công (x. 1Tm 5,18) và “những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng” (1Cr 9,14). Song thánh nhân từ chối nhận quyền hưởng lợi đó nhưng đã phục vụ nhưng không. Qua cuộc sống lao động, thánh nhân chia sẻ với các tín hữu về những gian nan và mệt mỏi của mình: “chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4,11-12). Qua đó, thánh nhân mời gọi các Kitô hữu cũng hãy làm việc chứ không sống thụ động, bỏ bê công việc: “ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã truyền cho anh em” (1Tx 4,11).
Thánh Phaolô đã tự làm việc chân tay để tự kiếm sống hầu thanh thoả trong việc rao giảng và cống hiến nhưng không cho Tin Mừng. Làm như thế, thánh nhân không lệ thuộc và lợi dụng danh nghĩa người loan Tin Mừng để tìm tư lợi cho mình. Thánh nhân đã từ chối nhận bố thí tài chính, không muốn lệ thuộc và trở thành gánh nặng cho các Kitô hữu (1Tx 2,9; 2Cr 11,9) vì loan báo Tin Mừng là một danh dự, tước hiệu vinh quang (x. 1Cr 9,15). Không chỉ cho mình, thánh nhân còn cảnh giác các cộng tác viên của mình trước nguy cơ đòi được biết ơn là điều “cản trở đối với Tin Mừng Đức Kitô” (1Cr 9,12). Vì rao giảng là thiết yếu với thánh nhân: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16) nên ngài coi đó là công việc ưu tiên trên lợi lộc vật chất. Rao giảng cách vô vị lợi không phải để ngài dành quyền lợi gì mà ngài tâm sự: “đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi” (1Cr 9,18). Lý do sâu xa mà thánh Phaolô đã rao giảng nhưng không chính là: Vì Thiên Chúa đã chọn gọi ngài cách nhưng không và đến lượt thánh nhân cũng muốn loan báo cách nhưng không, và muốn biểu lộ trách nhiệm lo cho Tin Mừng mà ngài đã được giao phó. Vì thế, ngài không muốn lương bổng nào khác ngoài sự tự do với mọi người và với bất cứ điều gì, miễn là “Đức Kitô được rao giảng” (Pl 1,18).
Chính vì nhận mình là người đầy tớ của Tin Mừng (x. 1Cr 4,1), thể hiện tinh thần người mục tử thân thiện và khôn ngoan muốn cho các Kitô hữu được đón nhận Tin Mừng Đức Kitô, thánh Phaolô đã hy sinh hết mình phục vụ cho Tin Mừng và các giáo đoàn, cho dù phải làm việc chân tay, cho dù chịu thiệt thân, cho dù phải khốn khó. Vì tinh thần và lòng mến mà thánh nhân sẵn sàng hiến mình, kể cả mạng sống vì các Kitô hữu (x. 1Tx 2,8).
4. Mục tử chịu nhiều thất bại và thử thách
Chúng ta thường thấy những thành công trong cuộc đời thánh Phaolô mà ít khi nhìn nhận và đánh giá những đau khổ và thử thách thánh nhân đã trải qua. Đọc các bản văn của Phaolô, ta thấy không khí hừng hực nhiệt huyết của nhà truyền giáo đầy tự tin, hoạt động mạnh mẽ và đương đầu với những thù địch không hề nản chí hoặc chẳng mảy may một thất bại nào. Nhưng thực tế, thánh nhân cũng đã đề cập nhiều lần về các hình phạt, nỗi vất vả, những thất bại từ bên ngoài, hay thậm chí cả những nỗi buồn đến từ các Kitô hữu trong các cộng đoàn (1Cr 4,9-11; 2Cr 4,8-10; 6,4-10; 11,23-33; 12,10; Rm 8,35-36). Điều đó làm ta hiểu được lời thánh nhân bộc bạch: “chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về nỗi gian truân chúng tôi đã gặp bên A-xi-a: chúng tôi đã phải chịu đựng quá mức, quá sức chúng tôi, đến nỗi chúng tôi không còn hy vọng sống nổi” (2Cr 1,8). Như thế, đời thánh Phaolô đã in đậm những dấu của đau khổ, đối kháng, thậm chí cả thất bại để đổi lấy những thành công là Tin Mừng được lan rộng.
a. Người Hy lạp, Do Thái phản đối
Trước tiên, ta nhận thấy thánh Phaolô đã thất bại khi ngài là vị mục tử đến để củng cố và chăm sóc đoàn chiên. Sách Công vụ Tông đồ kể lại, thì ngay hành trình truyền giáo đầu tiên đi cùng Barnaba (Cv 13,1-14,28), thì thánh nhân đã gặp ngay những ghen tương, đố kỵ, từ chối và thù địch đến từ chính người Do Thái: bị trục xuất (Cv 13.50), bị ném đá (Cv 14,19). Khi ngỏ lời với các triết gia Hy Lạp ở Athen và người Do Thái ở Côrintô (Cv17,16-18,17), thánh Phaolô cũng gây nên xáo động và chia rẽ, khiến thánh nhân ra đi trong thất bại và tủi hổ. Song thánh nhân không hề nản chí, ông từ giã họ nhưng vẫn hy vọng: “để lần khác tôi sẽ trở lại với các ông, nếu Thiên Chúa muốn” (Cv 18,20).
b. Dân Galát phản bội đức tin
Ngoài ra, thánh Phaolô còn chịu những đau khổ từ chính những Kitô hữu mà thánh nhân đã dầy công chăm sóc. Trong thư Galát, thánh nhân đã phải ngạc nhiên và giận giữ với các Kitô hữu vì họ đã quay lại với Tin Mừng thánh nhân rao giảng. Họ đã bị chính các Kitô hữu gốc Do Thái vốn sống trong vòng vây của Lề Luật Do Thái giảng cho họ lối sống khác với Tin Mừng, làm họ bỏ giáo huấn của thánh Phaolô để sống theo lời các Kitô hữu gốc Do Thái. Bị tổn thương, thánh nhân viết thư nhắc nhở họ hãy sống Tin Mừng Đức Kitô, với lời lẽ sôi sục đầy vẻ giận giữ và ngạc nhiên: “Tôi lấy làm ngạc nhiên, khi thấy anh em trở mặt mau lẹ như thế với Đấng đã kêu gọi anh em nhờ ân sủng của Đức Kitô, để theo một Tin Mừng khác” (Gl 1,6). Đàng sau những lời có vẻ giận giữ đó, ta nhận thấy hình ảnh người mục tử chịu những vết thương, bị động chạm đến tận nền tảng đức tin của người đã từng gắn bó để rao giảng cho các Kitô hữu.
c. Dân Côrintô từ chối
Ta cũng đoán ra được hoàn cảnh mà Phaolô phải chịu đựng khi bản thân ngài thổ lộ “trong nước mắt”, cảm thấy đau khổ trước thái độ hai lòng và kiêu căng của anh em Kitô hữu ở Côrintô. Khi được biết những căng thẳng trong cộng đoàn Côrintô, một cộng đoàn đã thực hành những lối sống khác xa Tin Mừng, thánh Phaolô đã viết thư để nhắc nhở họ, thậm chí phái Titô đến truyền đạt tinh thần của ngài, và xem cộng đoàn đã sống ra sao. Nhưng những người này từ chối đối thoại nên đích thân ngài phải đến Côrintô. Song trước thái độ của nhiều phần tử trong cộng đoàn, chính thánh nhân cũng đành phải ngậm ngùi ra đi vì cảm thấy bị tổn thương và xúc phạm.
Mặc dầu cảm thấy “vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hoà” (2Cr 2,4), song thánh nhân cũng không bỏ liên lạc với cộng đoàn. Một lần nữa, ta thấy người mục tử hy sinh vì đoàn chiên: “Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt” (2Cr 4,8-9). Mục tử ấy “mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu” (2Cr 4,10) với hy vọng để sự sống của Đức Giêsu được triển nở.
d. Đau khổ vì hình phạt, mệt mỏi và nguy hiểm do sứ vụ
Không chỉ gánh chịu những thất bại và đau khổ với những bất trung của các Kitô hữu, thánh Phaolô còn phải gánh chịu những đau khổ trong thân xác vì bị đánh đòn, bị ném đá, bị xiềng xích, bị cầm tù …. Hình phạt đầu tiên thánh nhân chịu là bị đánh đòn, một hình phạt của người Do Thái: “Năm lần tôi bị người Do Thái đánh bốn mươi roi bớt một” (2Cr 11,24). Hình khổ hơn là ba lần thánh nhân bị đánh đòn bởi hình phạt của người Rôma. Và sau cùng, thánh nhân cũng chịu hình phạt ném đá (x Cv 14,19-20).
Ngoài ra, thánh nhân nhắc tới các nguy hiểm thường gặp trong các cuộc hành trình của mình. Đó là những mối nguy hiểm do đắm tàu, cướp bóc và những anh em giả hiệu: “ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi ! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em” (2Cr 11,25-26). Thánh nhân còn cho thấy điều kiện sống bị mất mát, bị tước đoạt (2Cr 11,27-28), thức đêm (2Cr 6,6), “chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt” (1Cr 4,11; cf. Rm 8,35; 2Cr 6,5). Những khó khăn và điều kiện sống ấy cũng góp phần tới cơn đau thân thể thánh nhân chịu đựng.
e. Kinh nghiệm về bệnh tật
Thánh nhân không được miễn trừ khỏi các cơn đau về thân thể, đặc biệt là bệnh tật. Cơn bệnh mà thánh nhân nhắc khi lần đầu tiên ngài rao giảng cho người Galát: “khi thân xác bị đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên” (Gl 4,13). Căn cứ vào luận chứng thánh nhân đưa ra, chúng ta thấy ngài cũng chịu khổ sở vì chứng bệnh hành hạ thân xác, mà theo thư Galát đó là bệnh khiến thánh nhân lệ thuộc nhiều, còn trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, thì chứng bệnh này có liên hệ tới cuộc loan báo Tin Mừng: “tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).
Ta có thể xác định thánh Phaolô chịu căn bệnh gì trong cơ thể? Phải chăng đó là những căn bệnh về thần kinh khi làm việc nhiều, về mắt, hay cơn đau vì vết thương bị hành hạ. Nhưng dù bệnh gì đi nữa, ngài vẫn hy vọng và vui mừng, cho dầu có phải chịu nhiều đau khổ “tiêu phí cả sức lực lẫn con người vì linh hồn anh em” (2Cr 12,15). Đó cũng là lời lý giải tại sao thánh nhân đi sâu vào mầu nhiệm khổ nạn của Đức Kitô trong sứ vụ của ngài.
f. Hy vọng từ trong khổ đau
Thánh Phaolô không kể công, bi thảm hoá hay là thi vị hoá về những hoàn cảnh khó khăn ngài phải chịu đựng, nhưng thánh nhân gắn những khó công phải chịu đựng vì thông phần với khổ đau của Đức Kitô và vì để chăm sóc cho các cộng đoàn.
Tuy gặp yếu đuối, khổ đau và thất bại đôi chút trong cuộc đời mục tử chăm sóc các chiên, thánh nhân không thất vọng và bỏ cuộc nhưng coi đó là cơ hội để sức mạnh của Đức Kitô được thể hiện. Trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô và trong thư gửi giáo đoàn Philíphê, thánh nhân nói với các tín hữu: “Con tim tôi được tràn đầy niềm an ủi và tôi tràn trề niềm vui trong mọi nỗi khổ đau của chúng tôi” ( 2 Cr 7,4; 2 Cr 6,10; cf. Pl 1,4.7.18; 2,17-18). Thánh Phaolô không đi tìm đau khổ chỉ vì ngài thích đau khổ, nhưng thánh nhân đã cầu nguyện để thoát khỏi khổ đau (x. 2Cr 12,8), phải chiến đấu với những đau khổ ấy. Thánh nhân cũng công bố đau khổ là dấu chỉ thế giới này đang đi qua (x. Rm 8,18 tt), đau khổ và cái chết sẽ biến mất và vương quyền của Đức Kitô sẽ hiển trị muôn đời (x. 1Cr 15,24-27). Tuy thế, thánh Phaolô cũng đón nhận đau khổ như một phần chia sẻ, mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu (1Cr 4,10) vì người phục vụ Đức Kitô, vì sứ giả Tin Mừng không được miễn chước khỏi con đường thập giá mà Đức Kitô đã đi.
Những đau khổ ấy được thánh Phaolô nhìn qua lăng kính tình yêu, giúp ngài nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35 tt). Vì tình yêu Đức Kitô và các cộng đoàn, vì thông phần với Đức Kitô, thánh nhân coi đau khổ mình chịu như là cách thế để đến gần Thiên Chúa, là phương tiện biểu lộ quyền năng Thiên Chúa (2Cr 4,7), và đó cũng là mầu nhiệm của việc loan báo Tin Mừng. Nhận ra sức mạnh của Đức Kitô được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối, thánh Phaolô cảm nghiệm được niềm vui sâu xa trước những bắt bớ, thử thách và khổ đau vì Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài: “tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).
Chính thánh nhân đã sống và cảm nghiệm thấm thía trên thân xác ngài mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Chúa Kitô mà thánh loan báo. Nói cách khác, cuộc sống chịu đóng đanh của thánh Phaolô là chứng tá sống động hùng hồn cho Tin Mừng mà ngài rao giảng. Sự yếu đuối của nhân loại được quyền năng tạo dựng của Thiên Chúa biến đổi trở thành thụ tạo mới. Vì thế, khi thấy tín hữu Côrintô bị kiểu giải thích hiếu thắng khải hoàn của cuộc sống Kitô lôi cuốn và làm lóe mắt, trong chương 4,9-13 thư thứ nhất gửi cho họ, thánh Phaolô nhắc họ đừng quên thập giá và đêm đen của ngày thứ sáu tuần thánh và mọi thử thách, bắt bớ, khổ đau mà họ cũng phải gánh chịu để được ơn cứu độ.
g. Kết
“Hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (2 Tm 1,8) như là lời di chúc của thánh Phaolô dành cho người môn đệ yêu quý là Timôthê, và đó cũng là kinh nghiệm mà thánh nhân đúc kết vào cuối hành trình của cuộc đời. Đấng Phục Sinh đã kêu mời thánh Phaolô đi loan báo Danh Chúa (x. Cv 9,15), một công việc vinh quang nhưng hàm chứa một trách nhiệm lớn lao. Trách nhiệm loan báo Tin Mừng và lời mời gọi chịu đau khổ vì Đức Kitô đi đôi với nhau, không thể tách rời nhau được.
Lời mời gọi thành vị tông đồ, vị thầy các dân cũng là lời mời gọi hiệp thông đau khổ với Đức Kitô, Đấng đã chuộc lại chúng ta qua cuộc thương khó của Người. Đau khổ mà thánh nhân phải chịu làm thánh nhân thành vị thầy khả tín về chân lý trước những đối kháng, thành con người không tìm danh lợi mà dấn thân phục vụ Đấng đã yêu thương chúng ta và phó mình vì ta, trở nên vị mục tử hiến toàn thân cho đoàn chiên. Do đó, trước các thách đố đe doạ các cộng đoàn, thánh nhân đã bảo vệ họ như vị chủ chăn bảo vệ chiên của mình trong tình mến.
5. Đối diện với các thách đố mục vụ
Trước trào lưu đòi dân ngoại trở lại đạo Kitô cũng phải giữ các tập tục của người Do Thái, thánh Phaolô băn khoăn và tìm phương cách làm sao để dân ngoại tin vào Đức Kitô mà không phải chịu gánh nặng. Buộc họ phải chịu phép cắt bì? Liệu họ có thể ăn uống chung với những Kitô hữu gốc Do Thái không? Liệu với xác tín Đức Giêsu Kitô phục sinh giải thoát ta khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết có cho phép làm bất cứ điều gì và làm theo ý muốn mình không? Và còn nhiều thắc mắc mà các Kitô hữu, đặc biệt là ở Côrintô đã gửi tới cho thánh Phaolô.
Là người chủ chăn luôn chăm lo cho các Kitô hữu, thánh Phaolô gợi ra một số tiêu chuẩn trong cách ứng xử và thái độ cần có trước các vấn đề đó. Trên nền tảng các sứ điệp của Đức Kitô và công nghiệp của Người, thánh nhân mời gọi các tín hữu hãy đón nhận từ Đức Kitô thái độ sống trong thế giới có thể trái ngược với những gì họ vẫn sống.
Trong số những vấn nạn mà Phaolô giải quyết cho các tín hữu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tinh thần người mục tử Phaolô trước quyền bính chính trị và dân sự, với vấn đề nô lệ, phái tính hôn nhân và đối với các phụ nữ. Đây là các vấn đề mục vụ, cần được hiểu trong bối cảnh văn hoá thời thánh nhân.
a. Trước nhà cầm quyền chính trị và dân sự
Trong Tân Ước, thật hiếm những bản văn nhắc tới quyền bính chính trị, hay thái độ của Kitô hữu phải có đối với giới chức thẩm quyền chính trị và dân sự. Có lẽ thánh Phaolô là một trong số các tác giả đề cập đến vấn đề này cách trực tiếp: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt” (Rm 13,1-2 tt).
Rõ ràng, thánh Phaolô không nhằm đưa ra giáo huấn về yếu tính thiên linh của quyền bính, cũng không nhắm hợp thức hoá các quyền dân sự, cũng không thần thánh hoá đế quốc hay bênh vực việc bóc lột độc đoán. Không hiểu rõ nguồn gốc lịch sử của nó, một số tác giả đã thấy trong đó một giáo huấn về yếu tính và nền tảng thiên linh của quyền bính. Thậm chí người ta còn dùng lời khuyên này hòng bênh vực cho các chế độ độc tài, chuyên chế. Song chính thánh Phaolô không hề nhằm tới một giáo huấn về quyền bính mà chỉ nhắm giải quyết vấn đề mục vụ, đem lại lợi ích cho các Kitô hữu.
Những tương quan của Kitô hữu với thế giới mà thánh Phaolô đề cập chỉ hiểu được trong hoàn cảnh của lịch sử cộng đoàn Rôma. Trong hoàn cảnh các Kitô hữu tiên khởi là thiếu số, và bị nghi ngờ ít có thiện cảm đối với đế quốc Rôma, thánh nhân muốn giúp họ tránh tất cả những nghi ngờ về lòng trung thành với quyền bính chính trị và cũng để tránh nguy cơ bị bách hại. Các tín hữu ở Rôma cho rằng họ đang ở trong những thời cuối cùng (x. Rm 13,11 tt) và được giải phóng khỏi thế gian này, khỏi những cơ cấu thiết định, thì thánh Phaolô phải hành động để ổn định cuộc sống họ. Thánh Phaolô khẳng định thế giới chính trị không phải là thế giới bị nguyền rủa mà ngài khẳng định người thi hành quyền bính trong thế giới ấy cũng đang lo lắng để thực thi một công việc phục vụ linh thiêng. Do đó, ngài xác định mối tương quan giữa bổn phận Kitô hữu với giới chức chính quyền: “chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện,… họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác. Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm. Đó cũng là lý do khiến anh em nộp thuế: nhân viên thu thuế là những người phục vụ Thiên Chúa, khi chu toàn phận sự. Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính” (Rm 13,4-7).
Quan niệm về quyền bính của thánh Phaolô ở Rm 13,1-7 cũng hoàn toàn khác với quan điểm của chúng ta về dân chủ và thế tục. Do đó, chúng ta không thể gán cho thực tại xã hội và chính trị hôm nay một giáo huấn mang màu sắc thần học Do Thái thủ cựu lẫn văn hoá Hy-lạp được. Dầu thế, hiểu trong hoàn cảnh nhất định, thì lời khuyên của thánh Phaolô vẫn phong phú về giáo huấn:
Trước hết, trong cương vị là mục tử chăm sóc cho đoàn chiên, thánh Phaolô nhắc nhở các Kitô hữu sống trong thế giới chứ không hề đứng ngoài thế giới, cũng không đứng độc lập không trong thể chế quyền bính nào. Như các môn đệ xưa được Đức Kitô giáo huấn (x. Mc 12,7), các Kitô hữu không chỉ chu toàn trách vụ công dân Nước Trời mà còn phải thi hành trách nhiệm công dân trần thế nữa.
Thứ đến, thánh Phaolô cũng nhìn nhận rằng thể chế chính trị và giới cầm quyền không phải là cái gì xấu xa đáng nguyền rủa. Đó là phản ánh của quyền năng Thiên Chúa và họ tham dự vào công trình của Người, vì “không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1). Là công dân, Kitô hữu cũng phải kính trọng các giới chức và thể chế ấy. Kitô hữu có bổn phận công dân, và góp phần xây dựng thể chế chính trị theo lối của Tin Mừng.
Sau nữa, thánh Phaolô còn quả quyết rằng thực thi quyền bính trong thể chế chính trị là nhằm tới công ích, “là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện” (Rm 13,4). Cộng đoàn Kitô hữu không đòi hỏi những người ngoại giáo đại diện cho chính quyền phải hoán cải, cũng không đòi hỏi quy chế riêng đặc biệt cho đời sống tôn giáo mà được mời gọi đóng góp xây dựng thiện ích cho mọi người. Trong thư gửi cho Timôthê, tác giả cũng mời gọi cầu nguyện cho những người nắm quyền bính để tất cả chúng ta sống thanh thản, bình an và có đạo đức, phẩm giá (x. 1Tm 2,2).
Không những thế, thánh Phaolô còn kêu gọi một sự phục tùng theo lương tâm: “cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm” (Rm 13, 5). Không chỉ phục tùng thụ động, cam chịu hay mù quáng, nhưng phải xuất phát từ sự chấp nhận từ bên trong, được cụ thể hoá trong chu toàn bổn phận công dân là nộp thuế (x. Rm 13,6).
Cuối cùng, Giáo huấn của thánh Phaolô cũng cho thấy quyền bính được thi hành trong giới hạn quyền của Thiên Chúa. Quyền bính đến từ Thiên Chúa, là dụng cụ Thiên Chúa dùng để mưu cầu ích chung. Việc thực thi quyền bính không được mặc ý tuỳ tiện do các người nắm quyền, mà theo Phaolô, các giới chức vượt quá quyền hạn mình, không thi hành công thiện là đánh mất quyền hành của mình. Và như thế, họ mất quyền được tuân phục và thể theo lương tâm thì người ta đi đến bất tuân phục.
Có thể nói, thánh Phaolô đã trở thành người khai sáng một truyền thống Kitô giáo đối với các vấn đề chính trị và quyền bính. Cho dẫu nằm trong bối cảnh văn hoá chính trị khác hoàn cảnh chúng ta, lời khuyên trên của thánh Phaolô vẫn có tính thời sự. Thánh nhân là người mục tử tìm ra con đường an toàn cho chiên, là người đứng trước hướng dẫn các Kitô hữu bước đi trên một lối suy tư tinh ròng hướng về Thiên Chúa là sự thật toàn vẹn. Như Đức Giêsu, thánh Phaolô cũng mở ra con đường thực thi quyền bính, biết quan tâm lo lắng đến thiện ích công chúng. Đó là quyền đến từ Thiên Chúa, quy về Thiên Chúa, và cần mọi người kính trọng, cộng tác. Theo chân thánh Phaolô, truyền thống Kitô giáo không ngừng chiến đấu mạnh mẽ chống lại chủ chương độc tài, duy quốc gia, chủ nghĩa khủng bố …. Đức tin thức tỉnh con người chống lại thế lực sự ác, thì Kitô hữu cũng cần có thái độ đúng đắn để sống đúng niềm tin của mình.
b. Vấn đề nô lệ
Thời thánh nhân, chế độ nô lệ được coi là một định chế được xã hội công nhận. Tân Ước cũng không hề có đảm bảo nào cho phong trào chống lại chế độ nô lệ, mà còn coi việc làm nô lệ như là chuyện bình thường, cũng như các tầng lớp khác trong xã hội.
Thánh Phaolô không tuyên chiến với việc bắt người làm nô lệ. Không có chỗ nào, kể cả trong thư gửi ông Philêmôn, kết án hay lên tiếng trước tình trạng này. Thánh nhân không có chương trình hành động, không công khai hay ẩn ý kết liễu định chế này. Ngược lại, ta lại thấy thoảng qua tinh thần ủng hộ cho chế độ này, trong những quy tắc tề gia được Tân Ước đưa ra (x. Cl 3,22-25; Ep 6,5-8; Tt 2,910; 1Pr 2,18-22). Nhưng tất cả đều quy về làm “nô lệ” cho Đức Kitô.
Thánh nhân cũng không đả kích chế độ này là vì theo thánh nhân, thay đổi các bậc sống trong xã hội, thay đổi thành phần các phần tử trong cộng đoàn là điều ít quan trọng. Với tâm hồn người mục tử, ngài cũng lo cho mọi người, đặc biệt là người nô lệ, nhưng thánh nhân nhìn thấy một điều cao hơn là phải cách tân trên bình diện khác: sự đổi mới phải diễn ra tích cực bằng thái độ hoán cải của mỗi người, trở về với quy luật của lòng mến. Chính quy luật sống đức ái sẽ đưa đến chỗ bình đẳng, đến chỗ không còn nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà: “không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa … hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi” (Plm 16-17).
Quan trọng nhất là thánh Phaolô muốn quy tụ mọi người trong gia đình của Đức Kitô, vì chính Đức Kitô là người đã “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,7). Phẩm giá mọi người không lệ thuộc vào bậc sống nhưng là tuỳ vào Đức Kitô, Người đã lấy cái chết để đưa chúng ta từ tình trạng nô lệ tội lỗi trở về làm con Thiên Chúa. Giờ đây, “không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,28). Tuy địa vị xã hội không thay đổi, nhưng trong thực tế thì xã hội đã biến đổi: người chủ được giải thoát khỏi bản năng chiếm hữu, thì người nô lệ không còn cảm nghĩ thua thiệt, thấp kém nữa mà ý thức mình, cùng với chủ mình, đều thuộc gia đình của Đức Kitô, đều được hưởng giá máu chuộc tội của Đức Kitô, đều sống trong ân sủng của Người.
Như thế, thánh Phaolô đã thể hiện tinh thần người mục tử thật cao vời, hướng con người tránh nô lệ thế gian mà kết hợp với Chúa là điều quan trọng nhất. “Anh em không biết sao? Khi đem thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của người mà anh em vâng phục: hoặc làm nô lệ tội lỗi, thì sẽ phải chết; hoặc làm nô lệ phục vụ Thiên Chúa, thì sẽ được nên công chính” (Rm 6,16). Thánh nhân không cổ võ cho bạo lực bóc lột, nhưng tìm con đường giải thoát cho các Kitô hữu sống kết hiệp với Đức Kitô. Vì thế, thánh nhân khuyên các tín hữu hãy sống đúng với bậc mình: “Kẻ làm nô lệ, hãy vâng lời những người chủ ở đời này với thái độ run rẩy và sợ sệt, với lòng đơn sơ, như vâng lời Đức Kitô. Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng như nô lệ của Đức Kitô, đem cả tâm hồn thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta. Anh em biết đấy: ai làm việc tốt, sẽ được Chúa trả công, bất luận nô lệ hay tự do. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng doạ nạt nữa: anh em biết rằng Chúa của họ cũng là Chúa của anh em, Người ngự trên trời và không thiên vị ai” (Ep 6,5-12).
c. Vấn đề phái tính và hôn nhân: Độc thân hay kết hôn?
Ngoài các vấn đề chính trị và nô lệ, thánh Phaolô cũng phải đối mặt với các thách đố mục vụ hôn nhân mà các cộng đoàn đang gặp phải. Làm thế nào để sống niềm mong chờ Đức Kitô trở lại trong vinh quang, trong khi ta lại vẫn cưới vợ lấy chồng, sống đời độc thân, đính hôn, goá bụa? Làm thế nào với đời sống tính dục của mình, một khi đã hứa sống một đời sống khác và những mối tương quan khác hơn là những gì đang sống? Vì là các vấn đề phát sinh khi làm mục vụ, nên thánh nhân không tìm cách giải quyết vấn đề trong một khảo luận về tính dục, về hôn nhân, mà các câu trả lời của ngài cũng mang tính cách mục vụ. Cách tiếp cận mới của thánh Phaolô đã làm nhiều người cho rằng thánh nhân khinh chê đời sống hôn nhân. Thực tế thánh Phaolô đã có thái độ thế nào?
Trước tiên, thánh Phaolô chỉ cho các Kitô hữu tìm lại chỗ đứng của thân xác con người. Trong cộng đoàn Côrintô thời đó, có hai nguy cơ đe doạ đời sống các tín hữu: Vô luân và duy khổ chế đối nghịch nhau. Một số Kitô hữu chủ trương đời sống nghiêm ngặt về tính dục vì cho rằng đời sống tính dục không thể hợp với sự thánh thiện. Ngược lại, số Kitô hữu khác cho rằng thân thể rồi cũng qua đi và như thế thì có thể sử dụng thân xác tự do. Thánh Phaolô đã nhắm đến nhóm chủ trương phóng túng. Thánh nhân đã nhắc họ rằng con người gồm cả hồn lẫn xác, và hành vi tính dục cũng không thể giản lược trong thân xác mà coi thân xác như là dụng cụ thuần tuý vì “thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác” (1Cr 6,13). Thánh nhân phân biệt thân xác gian dâm là thân xác bị đặt ra làm dụng cụ và thân xác để cho Chúa là thân xác không thuộc quyền ta mà là “đền thờ của Chúa Thánh Thần.” Như thế, ai sử dụng thân xác mình như một dụng cụ cho các dung túng tình dục thì quả là sai lầm.
Đặt mình đối diện với thái độ sống của người Kitô hữu ở Côrintô, thánh Phaolô không hề nặng lời khiển trách nhưng tìm cho họ con đường của Tin Mừng. Thánh nhân không hề khinh miệt tính dục, nhưng lại có thái độ dứt khoát với tình trạng tính dục bị dụng cụ hoá trong thân xác, nếu tách thân xác ra khỏi sự hiện diện của linh hồn. Theo ngài, từ chối thân xác trong sự hiện diện đó là từ chối chính Chúa, vì thân xác là cái giúp ta có mối tương quan với người khác.
Tiếp đến, thánh nhân lại phải giải quyết vấn đề bậc sống: độc thân hay kết hôn? Đối lại những người sống buông thả, các phần tử khác trong cộng đoàn Côrintô lại từ chối bất cứ hình thức nào của đời sống tính dục. Một số chí thậm chí còn cho rằng cần chia lìa vợ hay chồng mình để sống độc thân vì như thế mới biểu lộ thuộc trọn về Đức Kitô. Trong cương vị là người phục vụ, thánh Phaolô đã thể hiện tinh thần bình đẳng vì lợi ích hạnh phúc của mọi người: “Đàn ông không gần đàn bà là điều tốt. Nhưng để tránh hiểm hoạ dâm ô, thì mỗi người hãy có vợ có chồng. Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng ; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện ; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Xa-tan lợi dụng để cám dỗ. Điều tôi nói đó là một sự nhân nhượng chứ không phải là một mệnh lệnh” (1Cr 7,1-6).
Thánh Phaolô lấy tình người mục tử để đưa ra quy tắc: không coi nguyên tắc là giá trị tuyệt đối nhưng chú ý tới những hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống. Vì thế, thánh nhân cho rằng tiết dục là điều đáng quý, nhưng là điều không dễ thực hiện mà cần có một ân sủng. Khi cần lựa chọn giữa hai điều tốt, cần chọn điều tốt hơn: “Đàn ông không gần đàn bà là điều tốt. Nhưng để tránh hiểm hoạ dâm ô, thì mỗi người hãy có vợ có chồng.” Đây là khôn khéo về mục vụ vì người đàn ông và đàn bà dễ tìm tới người khác nếu họ không triển nở trong đời sống hôn nhân hợp pháp. Với người đã kết hôn, thánh Phaolô lại nhắc tới quyền lợi và nghĩa vụ của người phối ngẫu. Trong đời sống hôn nhân, mỗi người thuộc về người khác chứ không có ai quyền trên người kia, không thể tự mình quyết định cắt đứt kết hợp về tính dục được. Thánh nhân thận trọng về mục vụ trước nguy cơ người phối ngẫu đi tìm kết hợp tính dục với người khác khi không tìm thấy hay bị từ chối trong đời sống vợ chồng. Song sự thận trọng đó cũng đem lại một giáo huấn: “Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng ; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ” (1Cr 7,4). Đây chính là điểm mới, trái ngược luật Do Thái coi người vợ thuộc về chồng.
Như Đức Giêsu, thánh Phaolô nhìn nhận rằng hôn nhân và độc thân là một ân huệ, một đặc sủng của Thiên Chúa. Đó là lý do thánh nhân khuyên các phần tử trong cộng đoàn chưa kết hôn hãy sống trong bậc sống của họ, nhưng nếu không sống độc thân được thì kết hôn: “họ cứ ở vậy như tôi thì tốt cho họ. Nếu không tiết dục được, họ cứ kết hôn” (1Cr 7,9). Thánh nhân cũng không khinh bỉ đời sống hôn nhân, mà còn kiên định cho rằng liên kết hôn nhân là bất khả tháo cởi: “với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ” (1Cr 7,10-11). Tinh thần phục vụ hết lòng chăm lo cho hạnh phúc cho các Kitô hữu của thánh Phaolô cũng thể hiện qua tấm lòng mục tử (x. 1Cr 7,15-16), sau này trở thành “đặc ân Phaolô” trong Giáo luật: người vợ hay chồng Kitô hữu có thể chia lìa người phối ngẫu ngoại giáo khi người đó từ chối sống với vợ hoặc chồng là Kitô hữu.
Thánh nhân cũng đưa ra lời mời gọi mỗi người hãy cứ sống trong địa vị mình được kêu gọi. Lời khuyên của thánh Phaolô nhằm đánh tan tư tưởng của Kitô hữu cho rằng đổi bậc sống để theo đuổi lý tưởng tu thân tích đức. Thánh nhân nhắc họ nhớ rằng điều cốt yếu của đời sống Kitô hữu không nằm ở lựa chọn ngoại thường nhưng trong cách sống tốt lành tối đa hoàn cảnh hiện tại của mình: “Thiên Chúa đã kêu gọi mọi người thế nào, thì cứ sống như vậy” (1Cr 7,17). Với các vấn đề mà các tín hữu Côrintô đặt ra cho ngài, ngài cũng khiêm tốn cho rằng ngài chỉ đưa ra các lời khuyên kết hôn hay độc thân.
Đối với ngài, độc thân có lợi thế hơn không phải nó trổi vượt hơn mà vì lẽ kết hôn sẽ “chuốc lấy những gian truân khốn khổ” vì lo âu căng thẳng, quá để ý đến bạn đời làm mình không còn sẵn sàng nhưng có nguy cơ xung đột với lòng trung tín đối với Đức Kitô, nhất là trong lúc bị bách hại. Đó là điều thánh nhân khuyên độc thân thì hơn: “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1Cr 7,32-34). Thánh nhân cho rằng ngài không gài bẫy các Kitô hữu mà cốt để họ không bị giằng co khi được gắn bó với Chúa tối đa.
Còn đối với người đính hôn, thánh Phaolô khuyên họ hãy lựa chọn bậc sống sáng suốt và thực tiễn, tránh tỏ vẻ là anh hùng về đàng thiêng liêng mà có thể làm phương hại đến ơn gọi đích thực của người đang sống ơn gọi đó. Thánh nhân kêu gọi “Ai đang ở địa vị nào khi được kêu gọi, thì cứ ở địa vị đó” (1Cr 7,20). Tuy nhiên, thánh nhân cũng nhắc nhở mọi người đừng để ép buộc nào ảnh hưởng tới con người mình, khi băn khoăn trước hoàn cảnh phải đính hôn hay ở thế (x. 1Cr 7,36-38).
Với những người goá bụa, họ có thể tái hôn không? Chẳng có chi ngăn cản họ tái hôn. Thánh Phaolô đưa ra ý kiến cá nhân cho rằng goá bụa tốt hơn kết hôn lần nữa: “Người vợ bị ràng buộc bao lâu chồng còn sống. Nếu chồng chết rồi, thì vợ được tự do, muốn lấy ai thì lấy, miễn là trong Chúa. Nhưng theo ý kiến tôi, người ấy có phúc hơn nếu cứ ở vậy. Tôi thiết nghĩ : tôi cũng được Thần Khí của Thiên Chúa soi sáng” (1Cr 7,39-40). Có người cho hay, thánh nhân cũng là người goá vợ khi cho rằng mình cũng được Thần Khí Thiên Chúa soi sáng.
Những giáo huấn của thánh Phaolô về giá trị liên quan đến hôn nhân và độc thân có lẽ chưa hợp lý. Thực ra, đây là các vấn nạn mà thánh Phaolô, trong tư cách người mục tử, phải giải quyết trong khi làm mục vụ. Do đó, thánh nhân cũng công nhận đây chỉ là các lời khuyên hãy sống đúng bậc sống. Thánh nhân chuẩn bị cho các tín hữu sẵn sàng đón Chúa Kitô trở lại, nên ai nấy phải phân định điều “thích hợp nhất” để làm, hầu mình có thể “gắn bó với Chúa, không san sẻ.”
Trong hoàn cảnh đó, ta hiểu rằng thánh Phaolô đề cao độc thân như là thiện ích cần theo đuổi vì được giải thoát khỏi vướng bận thế gian và lo âu trong đời sống hôn nhân, hầu người đó có thể hoàn toàn hiến thân cho Chúa. Thêm vào đó cũng có lý do thần học: đời sống độc thân nói lên ý nghĩa trổi vượt của vương quốc Thiên Chúa so với cái thế gian (x. 1Cr 7,13). Viễn cảnh cánh chung mở ra cho hết mọi người: kết hôn, goá bụa, độc thân, nô lệ, người tự do, người giàu, kẻ nghèo… vì thế gian này sẽ tan biến và họ được kêu gọi sống như thể họ không trong đó, vì họ đã là công dân của trời cao rồi.
Tuy thế, thánh nhân cũng không hề có cái nhìn tiêu cực hay khinh bỉ hôn nhân. Người Do Thái coi hôn nhân là bổn phận, độc thân là bất hạnh thì thánh Phaolô lại dành cho sự độc thân và trinh khiết, tiết dục một vị trí đặc biệt. Thánh nhân coi kết hợp hôn nhân là bất phân ly và đề cao bổn phận của người phối ngẫu, song có lẽ là thánh Phaolô đã không nói rõ về bổn phận yêu thương chồng, vợ và con cái trong gia đình là yêu mến Thiên Chúa, và cũng không nói rõ yêu thương người khác không làm ta xa lìa Chúa. Nhưng dù sao, thánh nhân không hề đánh giá thấp đời sống hôn nhân, càng không coi thường tính dục, nhưng trong khuôn mẫu, ngài đã đưa ra lời kêu gọi cần phân biệt ơn gọi bậc sống đích thực của mình để kết hợp với Đức Kitô tốt nhất và đón nhận tính cách mới mẻ của cánh chung đã tới.
d. Phaolô và nữ giới
Trong xã hội Do Thái thời thánh Phaolô, người phụ nữ bị khinh miệt và được coi là người có quyền thứ yếu so với nam giới. Dù với vai trò là người vợ, người mẹ, song người phụ nữ trong xã hội Do Thái thời đó tựa như bị loại ra khỏi đời sống công cộng. Trong hội đường, họ bị tách biệt so với người đàn ông: không được giáo huấn của Tôra, được miễn chước một phần quan trọng những chỉ thị của Tôra truyền, thậm chí truyền thống Rápbi còn cho rằng thà đốt cháy Tôra còn hơn giao cho phụ nữ.
Cho dù cần phải đưa ảnh hưởng Tin Mừng trên xã hội Hy-La vốn đã mang đậm dấu vết ngăn cách về xã hội, văn hoá và phái tính, song thánh Phaolô cũng không phá vỡ khuôn mẫu xã hội. Không hề hạ giá phụ nữ nhưng thánh nhân lại không dựa vào Gl 3,27-28 để làm cuộc cách mạng, xoá tan đối xử phân biệt đưa đến bình quyền trong xã hội. Cũng như cách giải quyết các vấn đề khác, thánh nhân mời gọi họ hãy cứ sống trong khuôn mẫu ấy để thay đổi chúng tự bên trong. Khi nói đàn ông là “đầu – thủ lãnh” của phụ nữ (1Cr 11,3), thánh Phaolô nhắc nhớ rằng chẳng phụ nữ hay đàn ông thuộc về nhau mà cả hai đều hiện hữu thông qua nền tảng là Đức Kitô và họ phụ thuộc vào nhau: “trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam. Thật thế, như người nữ tự người nam mà có, thì người nam cũng bởi người nữ mà sinh ra, và mọi sự đều tự Thiên Chúa mà có” (1Cr 11,11-12). Mọi người đều bình đẳng vì đều là con Thiên Chúa. ‘Song bình đẳng trong Đức Kitô không xoá bỏ được sự khác biệt trong địa vị xã hội, lối sống và phái tính’[4].
Thật vậy, không còn mang óc kỳ thị như khi còn là thành viên nhóm Pharisêu, giờ đây thánh nhân đã thể hiện tư cách là mục tử đem đến cho mọi người, đặc biệt là phụ nữ cuộc sống bình quyền trong Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh Người. Người Kitô hữu gốc Do Thái đòi dân ngoại trở lại đạo phải giữ Lề Luật, còn Phaolô đã cho rằng như thế là một sự thoái lui, vì trong phép rửa tội đã cho ta bình đẳng trong Đức Kitô: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,27-28). Đây là khẳng định mới mẻ, chấm dứt các đặc quyền tôn giáo của người Do Thái, đặc lợi chính trị, đặc quyền xã hội của người đàn ông. Bởi đâu? Thánh Phaolô cho rằng phép rửa, nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô đã phá tan những rào cản ngăn cách đó. Tuy nhiên, phá huỷ tương quan thống trị không có sự cào bằng, mà thánh nhân cũng giải quyết các vấn đề khác trong tương quan pha trộn tôn giáo và xã hội: đội khăn voan (1Cr 11,2-16) và thinh lặng trong các nơi công cộng (1Cr 14,34-35).
Trong bối cảnh thế giới tôn giáo thời thánh nhân, người phụ nữ phải ở chỗ riêng chứ không được ở chung với người đàn ông và không có vai trò gì trong phụng tự. Thậm chí, đền thờ Giêrusalem còn có cả hành lang dành riêng cho phụ nữ. Phụ nữ Do Thái đến các nơi công cộng cũng phải cột tóc lại và đội lên đầu chiếc khăn voan nhỏ, còn phụ nữ thế giới Hy-La chỉ mang một dải băng nhỏ để giữ tóc xoã ngang vai. Phụ nữ ở thành Côrintô có vẻ tự do hơn, họ tham gia vào hoạt động của cộng đoàn, có những phụ nữ xoá bỏ những dấu hiệu phái tính: xoã tóc trong các buổi cử hành phụng vụ. Điều này làm một số người bất bình vì ngược phong tục và đi đến ngờ vực: các Kitô hữu có tiếp tục mang tấm khăn voan trùm đầu không?
Khi “lệnh” các người phụ nữ phải đội khăn trùm đầu khi tham gia buổi cử hành phụng vụ, thánh Phaolô không phân loại phụ nữ như là Kitô hữu “hạng nhì” so với nam giới, nhưng ngài tôn trọng và làm cho phụ nữ được tham gia trọn vẹn và tự do vào cộng đoàn cầu nguyện. Trong bối cảnh trên, để tránh nguy cơ lẫn lộn với phụng tự ngoại giáo và tránh nguy cơ chia rẽ trong cộng đoàn Kitô hữu, thánh nhân ủng hộ việc đội khăn voan. Khi đưa ra vấn đề này, thánh nhân cũng cho rằng khăn voan chỉ là tượng trưng mà nhấn mạnh dấu chỉ mới quan trọng: tấm khăn biểu lộ khả năng người phụ nữ tham dự vào cộng đoàn phụng vụ cách tự do và trọn vẹn (x. 1Cr 11,13-15). Tấm khăn đội đầu không là dấu chỉ sự lệ thuộc, nhưng là dấu chỉ người nữ có quyền tham dự cầu nguyện và nói tiên tri trong cộng đoàn. Thánh Phaolô cũng cho thấy đây là vấn đề phong tục tập quán, sự thích ứng chứ không là quyền nào đó thuộc về Thiên Chúa đã bắt phụ nữ đội khăn, bởi lẽ đàn ông và phụ nữ có cùng phẩm giá và cùng cầu nguyện chung với nhau theo phạm vi của sự sáng tạo (x. 1Cr 11,11-12).
Thánh Phaolô còn giải quyết vấn đề tiếng nói của phụ nữ trong các buổi họp. Giống bối cảnh của việc phụ nữ đội khăn voan, thánh Phaolô cũng yêu cầu “phụ nữ phải làm thinh trong các buổi họp” (1Cr 14,34) nhằm tránh những lộn xộn xảy ra trong các buổi họp phụng tự. Thánh nhân không chấp nhận việc phân chia giai cấp vì mọi người đều là “thụ tạo mới” và bình đẳng trong Đức Kitô. Song vì có sự lan tràn hiện tượng thần khí (nói ngôn ngữ, nói tiên tri) làm lộn xộn diễn tiến cầu nguyện trong cộng đoàn nên ngài muốn chấn chỉnh lại nhằm tránh tình trạng vô chính phủ. Nhắm quy tắc trật tự trong cộng đoàn, thánh Phaolô nhắc “phụ nữ phải làm thinh trong các buổi họp, vì họ không được phép lên tiếng; trái lại, họ phải sống phục tùng như chính Lề Luật dạy. Nếu họ muốn tìm hiểu điều gì, thì cứ về nhà hỏi chồng” (1Cr 14,34-35). Khi đưa ra vấn đề này, thánh nhân đều dựa trên nguyên tắc “nhằm xây dựng Hội Thánh” (1Cr 14,26). Với mục đích xây dựng cộng đoàn hiệp nhất mà thánh Phaolô giới hạn những can thiệp “đoàn sủng” của các phụ nữ: xin các bà hỏi chồng mình. Làm thế không để xác định vị trí của phụ nữ trong các cộng đoàn, cũng không hề bắt các bà im lặng, mà thánh nhân chỉ nhắm đến tránh lôn xộn trong cộng đoàn khi phân chia phận vụ “người thì hát thánh ca, người thì giảng dạy, người thì nói lời mặc khải, người thì nói tiếng lạ, người thì giải nghĩa” (1Cr 14,26).
Trái ngược với những cách giải thích vội vàng cho rằng thánh Phaolô đã đóng sập lại cánh cửa giải phóng phụ nữ mà Đức Giêsu đã mở ra, các cộng đoàn của thánh nhân đã là nơi để giải phóng phụ nữ, ít là ở Côrintô. Tuy sống trong thế giới văn hoá với vị thế quyền hành thuộc về đàn ông, thì Phaolô cũng là chứng nhân để đưa đến sự biến đổi triệt để mà Tin Mừng đã mở ra. Các cộng đoàn do thánh nhân thành lập có sự bình đẳng nổi bật giữa đàn ông và phụ nữ, mà những lời chào kết thúc các thư là một minh hoạ; họ đều được gọi là “cộng tác viên” của thánh nhân trong Đức Giêsu Kitô (x. Rm 16,3) cho dù là phụ nữ hay đàn ông. Không những thế, thánh Phaolô còn đề cao các phụ nữ có trách nhiệm trong các cộng đoàn như: chị Phêbê là nữ trợ tá đắc lực (Rm 16,1), bà Lyđia, chị Êvôđia, Syntikhê (Cv 16,14-15; Pl 4,2), chị Pơ-rít-ki-la (Cv 18,3)….
Trong tư cách người mục tử chân chính hết lòng vì các cộng đoàn, thánh Phaolô đã chỉ ra cho các Kitô hữu những tiêu chuẩn trong cung cách xử sự với các vấn đề và gợi mở thái độ này hay thái độ khác. Thánh nhân đã không đề ra phương thế đấu tranh thoát khỏi tình trạng bất công, nô lệ, khó khăn hôn nhân hay bất bình đẳng giới, mà ngài đã rút ra những hệ luận từ những gì mình hiểu từ sứ điệp của Đức Kitô và từ công trình cứu chuộc của Người. Thánh nhân không đưa ra phương cách sống trốn thoát hoàn cảnh nhưng khuyên các tín hữu hãy biết lợi dụng hoàn cảnh, sống đúng trong bậc sống mình để thánh hoá hoàn cảnh và làm chứng cho Đức Kitô. Cho dù giải quyết các vấn đề mục vụ, thánh Phaolô vẫn quy hướng về “để xây dựng cộng đoàn” hiệp nhất trong Thân Thể duy nhất là Đức Kitô, cần hoán cải nội tâm và hướng tới cánh chung nhưng không bỏ bê các bổn phận trần thế. Thánh Phaolô không tham vọng phá đổ cơ cấu xã hội nhưng mời gọi thái độ sống kết hợp với Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Đây là nét cho thấy thần học về sự đa dạng và khác biệt trong suy tư mục vụ của thánh Phaolô: ‘thần học về căn tính, đối lại với sự đổ đồng; thần học về tha tính đối lại với sự bình đẳng cào bằng’ (D. Margurat). Và như thế, tinh thần mục vụ của thánh Phaolô là giải quyết vấn đề trong môi trường văn hoá và tôn giáo nhưng luôn giữ căn tính Kitô hữu vì đã thuộc về Đức Kitô.
PHẦN 2: THÁNH PHAOLÔ – MẪU GƯƠNG CHO CÁC MỤC TỬ