Ngày 05 tháng 06
Truyện tử đạo Thánh Luca Loan, vị liên trưởng trong số 117 thánh tiên khởi Việt Nam(84 tuổi), là một trong những bằng chứng cụ thể nhất về sự phi lý của các bản án tử đạo. Ngài đã bị giết chỉ do án lệnh của triều đình, trong khi tại địa phương, mọi người đều kính yêu vị linh mục 84 tuổi, râu dài, tóc bạc, hiền lành, đôn hậu. Từ quan huyện, quan tòa đến lính ngục, tất cả đều thấy ngài đáng tuổi cha ông mình, nên xưng hô bằng “Cụ’, và còn đối xử nhân đạo với ngài: Gần năm tháng tù không một đòn roi, không phải cùm gông. Ngày xử tử, hai người lính tình nguyện cáng cha ra pháp trường. Cả mười lý hình được lệnh chém đầu cha đều bỏ trốn dù biết sẽ bị phạt, và viên đao phủ thứ mười một chỉ dám thi hành phận sự sau khi đã xin lỗi, và nói rằng mình bị bó buộc miễn cưỡng thôi.
Đời linh mục ướp nồng bằng lời nguyện
Luca Vũ Bá Loan sinh năm 1756 ở họ Bút Quai, thuộc xứ Bút Đông, giáo phận Tây Đàng Ngoài. Từ thiếu niên, cậu đã dâng mình cho Chúa, rồi tu học ở Phú Đa và Kẻ bào. Sau khi thụ phong linh mục, cha Loan đến giúp xứ Nam Sang sáu tháng, rồi về giúp cha già Liêm xứ Kẻ Vồi. Năm 1828, khi Đức cha Longer Gia chia xứ Kẻ Vồi làm hai thì cha Loan nhận xứ mơi là Kẻ Sở cho đến ngày bị bắt. Trong nhiệm vụ linh mục, những người biết cha đều học được nơi cha một mẫu gương sáng ngời về các nhân đức. Đặc biệt là lòng yêu mến Chúa, nhiệt tâm phục vụ các linh hồn và nếp sông thanh bạch.
Cha Loan chuyên chú nhiều trong việc giảng dạy. Vào mùa Chay, mỗi ngày cha giảng ba lần. Bài giảng của cha ngắn gọn, đơn sơ dễ hiểu, nhưng rất thực tế với những chỉ dẫn áp dụng cụ thể trong cuộc sống. Cha ít dùng lý luận, cha nói bằng kinh nghiệm bản thân mình về Đấng cha đã gặp gỡ thực sự trong kinh nguyện và thánh lễ.
Khi cầu nguyện cha như xuất thần, quyên hết mọi truyện chung quanh, dù ai gây tiếng đọâng sát bên cũng không làm cha gián đoạn cuộc tiếp xúc với Đấng linh thiêng được. Hầu như cha không bỏ dâng lễ bao giờ. Thánh lễ cha cử hành có màu sắc trang nghiêm khoan thai, cung kính đặc biệt. Một thày giảng góp ý xin cha dâng lễ nhanh lên như các linh mục khác. Cha giải thích: “Không được con ạ. Lễ Misa là việc cao trọng nhất trên trần gian. Không có gì đáng để chúng ta phải cử hành thánh lễ cách vội vã cả. Việc thờ phượng Chúa cần phải làm cho trang nghiêm sốt sắng”.
Và thánh lễ của cha chưa kết thúc ở lời chúc bình an, cha thường quỳ lại lâu giờ trước Thánh Thể để tạ ơn Chúa.
Cha Loan đã thưa gì với Chúa trong giờ kinh nguyện? Có Chúa mới biết được. Phải chăng cha xin Chúa dạy những gì phải giảng, hay là cầu nguyện cho tín hữu trong xứ, cầu nguyện cho Giáo Hội, cho đồng bào? Có điều chắc chắn: song song với kinh nguyện đó, cha thường xuyên đến thăm những người nghèo khó bệnh tật, cha tận tâm nuôi dạy một vài em hiền lành nhanh nhẹn để chuẩn bị linh mục cho tương lai, và cha nhiệt thành hướng dẫn giúp đỡ nhiều tín hữu sống nhân ái với mọi người, dú có đạo hay không.
Một đặc điểm khác nơi cha Loan là lòng khiêm tốn trong phục vụ. Khi Đức cha gởi linh mục phó xứ Kẻ Sở, cha tín nhiệm, khích lệ và nâng đỡ tận tình. Cha nói: “Xin trao phó mọi sự cho cha, tôi đã già lại chậm chạp. Xin cha coi sóc cửa nhà, giúp người và coi sóc cả tôi nữa”. Tuy được giáo dân sẵng sàng trợ cấp mọi nhu cầu cần thiết, nhưng cha Loan tự giới hạn cho mình. cha muốn sống nghèo khó theo gương Đức Giêsu. Áo quần, cha mặc cho đến sờn rách, vá trên vá dưới mới chịu dùng cái khác. Ăn uống cha chọn những thứ bình dân như người trong xứ. Khi đi giảng ở đâu, nếu ai dọn “mâm sang cỗ đầy” một chút là được cha tỏ thái độ liền. Đức cha Jeantet Khiêm ca tụng cha rằng: “Thày xét các việc cha Loan làm từ khi chịu chức linh mục đến ngày tử đạo, thày thấy có lẽ trong số linh mục Việt Nam từ trước đến nay không ai sánh bằng”.
Bị sa tay kẻ gian
Bấy giờ có hai người là Bá hộ kiểng ở làng Bún và Đô Cang ở phố Vôi. Cả hai đều ngoại giáo và hiện đang chờ xét xử vì phạm pháp. Họ bàn tính với nhau đến bắt cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là tối ngày 10.01.1840 tại họ Kẻ Chuôn, khi cha vừa dùng cơm xong, họ gỉa làm khách đến thăm cha, rồi mời xuống thuyền chở thẳng về làng Bún. Các tín hữu khi nghe biết tin đến xin chuộc, họ đòi 2.000 quan. Cha Loan thương giáo hữu nghèo nên trình bày: “Các anh đòi 200 may ra còn liệu được, chứ bạc ngàn thì vô phương”. Bá hộ Kiểng định hạ giá xuống, nhưng Đô Cang không chịu, vì muốn nộp cha để giảm án của mình.
Hai người đem nộp cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ lại phải đưa cha về thẳng Thăng Long. Vừa đến công đường, quan đầu tỉnh chỉ thẳng mặt hai ông mắng rằng: “Quân dại dột, sao bay đang tâm bắt người hiền lành đạo đức, lại đáng tuổi cha ông chúng bay thế này ?”. Tuy nhiên vì vua Minh Mạng đã ra lệnh bắt đạo, và việc cha Loan bị bắt đã công khai, quan đành ra lệnh giam cha lại.
Tuổi cao nhưng vững vàng sốt sắng
Tuy phải ra tòa hai lần, nhưng cha luôn được các quan đối xử lịch sự và kính trọng mái đầu bạc. Các quan chỉ điều tra lý lịch và khuyên cha đạp lên Thánh Giá. Cha tìm cách nói khéo đi rằng: “Các linh mục nuôi tôi và Đức cha truyền chức cho tôi thì đã chết cả rồi. Địa chỉ tôi thì nay đây mai đó, chỗ nào không chứa, tôi ẩn vào chùa nọ, đình kia. Riêng việc quá khóa thì thưa quan, tôi là đạo trưởng, làm sao tuân diều đó được?”. Khi quan hỏi sao lại theo đạo ngoại quốc, cha trả lời: “Tôi chẳng theo Chúa của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa trời đất, Chúa của muôn dân thôi”.
Trong trại giam, cha Loan không hề bị gông cùm, vì các tín hữu đút tiền cho lính canh và nói: “Cụ già quá rồi, có bảo trốn cũng chẳng đi được, mấy anh cùm lại làm chi ?”. Lính thông cảm tuổi già nên không cùm cha một ngày nào. Một lần quan tỉnh xuống trại giam gặp cha, dặn dò lính canh: “Cụ già tuổi tác cao, phải xử cho hẳn hoi, đừng cấm người ta vào thăm”. Nhờ thế, trong những ngày tháng giam tù, cha Loan được rất nhiều người thăm nuôi tiếp tế. Quà biếu nhận được, cha chia sẻ cho lính và các bạn tù nên càng được họ quý mến.
Tuy không thiếu thốn vật chất, nhưng vì sức yếu tuổi già, lại phải ở nơi chật hẹp hôi hám, sau một tháng tù cha Loan trở bệnh nặng, chân phù, mặt sưng, cộng với căn bệnh suyễn kinh niên, làm cha kiệt quệ, nhiều lúc tưởng không hy vọng đi tới đích cuối cùng lãnh phúc tử đạo. Viên cai ngục thấy thế tội nghiệp, tâu trình và xin phép quan cho một tín hữu họ đạo Chuôn Trung ở luôn trong tù chăm sóc cho cha đến ngày xử tử. Hai ba giáo xứ nài nỉ cha làm tờ di chúc thi hài sau khi chết cho xứ mình. Cha chỉ cười và nói: “Xác tôi cũng là tro bụi, chết rồi cũng tanh hôi cho gày bọ rúc rỉa, các ông xin làm chi?”. Thế nhưng cha nhận lời ký giấy trao thi thể cho họ Chuôn Trung, xứ Kẻ Chuôn, túc là xứ đạo của người giúp cha trong tù, được lo liệu mai táng khi cha khải hoàn về Thiên Quốc.
Vinh phúc thiên thu
Quan tỉnh Hà Nội tuy quý trọng cha, nhưng lại sợ vua Minh Mạng, nên khi thấy cha cương quyết không bỏ đạo, ông đành làm án xử trảm quyết. Vua Minh Mạng châu phê và ra lệnh thi hành. Trước ngày xử, một giáo dân tìm cách đưa cha Tuấn vào tù giải tội và trao Mình Thánh cho cha già.
Đúng ngày 05/06/1840, quân lính tình nguyện cáng cha già Loan ra pháp trường, nhưng cha cám ơn từ chối. Vì trời nắng gay gắt, cha chỉ chấp nhận cho hai tín hữu đi hai bên cầm lọng che nắng. Viên quan giám sát chủ trì phiên sử thấy cha đi bộ cũng bỏ ngựa, giao cho một người lính rồi cùng đi ra cửa ô Cầu giấy là nơi thi hành bản án. Đến nơi, ông nói với cha: “Cụ muốn làm gì thì làm đi”. Cha Loan qùi xuống cầu nguyện, rồi vui vẻ đưa tay cho lính cột trói vào cọc. Mười người lính được chỉ định chém cha Loan bỗng trốn đi đâu hết. Uy tín của cha qúa lớn, đến độ họ cứ sợ sau khi chết, hồn cha sẽ nhập vào họ trả thù chăng. Để giải quyết vấn đề, quan liền sai một người lính nam bộ, anh Minh, người lính bất đắc dĩ đó đã đến lạy cha Loan và biện bạch rằng: “Việc vua truyền chúng cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho, cháu sẽ giúp cụ chết êm ái. Khi về trời, cụ nhớ đến cháu nhé”. Cha Loan gật đầu, rồi ra hiệu cho anh thi hành phận sự. chỉ một nhát chém, cha giã từ trần thế về Thiên Quốc. Các tín hữu xông vào cởi áo, thấm máu vị tử đạo như một chứng tích anh hùng của người cha tuy già yếu nhưng mạnh mẽ về niềm tin.
Được ân huệ trối trăng, xứ Kẻ Chuôn đem thi hài cha về chôn cất ở họ mình.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Luca Vũ Bá Loan lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP