Misericordiae Vultus – Dung nhan của Tình Thương
Phanxicô, Giám Mục Rôma, Người Tôi Tớ của Các Tôi Tớ,
gửi đến tất cả những ai đọc Bức Thư này Ân Sủng, Tình Thương và Bình An. 1. Chúa Giêsu Kitô là dung nhan của tình thương Cha. Những lời này có thể tóm lại rõ ràng mầu nhiệm đức tin Kitô giáo. Tình thương đã trở nên sống động và hữu hình nơi Đức Giêsu Nazarét, đạt đến tột đỉnh của mình nơi Người. Chúa Cha, Đấng “giầu lòng thương xót” (Epheso 2:4), sau khi đã mạc khải danh của mình cho Moisen như là “một Vị Thiên Chúa nhân hậu và từ ái, chậm bất bình và tràn đầy tình yêu bền vững và lòng trung thành” (Xuất Hành 34:6), đã không bao giờ thôi tỏ ra cho thấy bản tính thần linh của Ngài qua các đường lối khác nhau suốt giòng lịch sử. Vào “thời điểm viên trọn” (Galata 4:4), khi mọi sự đã được sắp xếp theo dự án cứu độ của mình, Ngài đã sai Người Con duy nhất của Ngài đến thế gian, hạ sinh bởi Trinh Nữ Maria, để tỏ cho chúng ta thấy hết cỡ tình yêu của Ngài. Ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha (xem Gioan 14:9). Đức Giêsu Nazarét là Đấng mạc khải cho thấy tình thương của Thiên Chúa, bằng lời nói của Người, hành động của Người và toàn thể bản thân của Người (Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on Divine Revelation Dei Verbum, 4).
2. Chúng ta cần liên lỉ chiêm ngưỡng mầu nhiệm của tình thương. Nó là một suối nguồn của niềm vui, thảnh thơi và an bình. Ơn cứu độ của chúng ta lệ thuộc vào nó. Tình thương là một từ ngữ mạc khải cho thấy chính mầu nhiệm của Ba Ngôi Chí Thánh. Tình thuơng là một hành động tối hậu và tối cao đưa Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta. Tình thương là thứ luật cốt yếu ở trong tâm can của hết mọi con người chân thành nhìn vào mắt của anh chị em mình trên đường đời. Tình thương là chiếc cầu nối liên kết Thiên Chúa với con người, hướng lòng chúng ta về niềm hy vọng vĩnh viễn được yêu thương bất chấp tội lỗi của chúng ta.
3. Có những lúc chúng ta được kêu gọi để chăm chú hơn nữa ngắm nhìn tình thương để chúng ta có thể trở thành một dấu hiệu tác dụng hơn nữa của hành động của Chúa Cha trong đời sống của chúng ta. Vì lý do này, tôi đã công bố một Năm Thánh Ngoại Lệ về Tình Thương như là một thời điểm đặc biệt cho Giáo Hội; một thời điểm mà chứng từ của thành phần tín hữu trở nên mạnh mẽ hơn và hiệu năng hơn.
Năm Thánh này sẽ được khai mở vào ngày 8/12/2015, Lễ Trọng Kính Đức Mẹ Hoài Thai Vô Nhiễm Tội. Ngày lễ phụng vụ này nhắc lại hành động của Thiên Chúa ngay từ ban đầu trong lịch sử loài người. Sau khi xẩy ra tội lỗi của Adong và Evà, Thiên Chúa đã không muốn để cho nhân loại lẻ loi một mình trong những nỗi thống khổ của sự dữ. Bởi vậy mà Ngài đã ghé mắt nhìn tới Đức Maria, thánh hảo và tình tuyền trong yêu thương (xem Epheso 1:4), chọn đức nữ này làm Mẹ của Đấng Cứu Chuộc nhân trần. Trước cái trầm trọng của tội lỗi, Thiên Chúa đã đáp ứng một cách tràn đầy tình thương. Tình thương bao giờ cũng sẽ lớn lao hơn bất cứ tội lỗi nào, và không ai có thể đặt giới hạn cho tình yêu của Thiên Chúa là Đấng hằng sẵn lòng thứ tha. Tôi sẽ hân hoan mở Cửa Thánh vào Lễ Trọng Đức Mẹ Hoài Thai Vô Nhiễm này. Hôm đó, Cửa Thánh sẽ trở thành Cửa Tình Thương qua đó bất cứ ai tiến vào sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa là Đấng an ủi, thứ tha và lan tràn niềm hy vọng.
Vào Chúa Nhật sau đó, Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng, Cử Thánh của Vương Cung Thánh Đường Rôma – tức là Đến Thờ Thánh Gioan Laterano – sẽ được mở ra. Vào những tuần tiếp theo, các Cửa Thánh của các Đền Thờ Tông Tòa khác sẽ được mở ra. Cùng ngày Chúa Nhật này, tôi sẽ loan báo rằng ở hết mọi Giáo Hội địa phương, tại vương cung thánh đường thánh đường mẹ của tín hữu ở bất cứ vùng đất đặc biệt nào hay, có thể thay thế, ở một ngôi đồng vương cung thánh đường hay nhà thờ khác có tính cách quan trọng đặc biệt, Cửa Tình Thương sẽ được mở ra cho thời gian của Năm Thánh. Tùy theo sự khôn ngoan của bản quyền địa phương, một cửa tương tự có thể được mở ra ở bất cứ Đền Thánh nào được đông các nhóm hành hương tới thăm viếng, vì các cuộc viếng thăm ở những nơi thánh này thường là những giây phút tràn đầy ân sủng, khi dân chúng tìm thấy con đường hoán cải. Bởi thế, hết mọi Giáo Hội Riêng sẽ trực tiếp tham hần vào việc sống Năm Thánh này như là một thời khắc của ân sủng và canh tân thiêng liêng. Vậy Năm Thánh này sẽ được cử hành cả ở Rôma cũng như ở các Giáo Hội Riêng như một dấu hiệu hữu hình của mối hiệp thông toàn cầu của Giáo Hội.
4. Tôi đã chọn ngày 8/12 vì ý nghĩa phong phú của nó trong lịch sử gần đây của Giáo Hội. Thật vậy, tôi muốn mở Cửa Thánh vào dịp mừng kỷ niệm 50 năm bế mạc Công Đồng Chung Vaticanô II. Giáo Hội cảm thấy rất cần để giữ cho biến cố này được tồn tại. Nhờ Công Đồng này mà Giáo Hội đã tiến vào một giai đoạn mới của lịch sử mình. Các Nghị Phụ Công Đồng mạnh mẽ nhận thấy, như hơi thở thực sự của Thánh Linh, nhu cầu cần phải nói về Thiên Chúa cho con người nam nữ của thời đại họ một cách khả đạt hơn. Các bức tường quá dài đã làm cho Giáo Hội trở thành một thứ thành trì đã bị đổ xuống và thời điểm đã đến để loan báo Phúc Âm một cách mới mẻ. Nó là một giai đoạn mới của cùng một việc truyền bá phúc âm hóa đã từng hiện hữu ngay từ ban đầu. Nó là việc thực hiện mới mẻ đối với tất cả mọi Kitô hữu trong việc làm chứng cho đức tin của họ một cách nhiệt thành và thâm tín hơn. Giáo Hội đã cảm thức được trách nhiệm trở thành một dấu sống động cho tình yêu Chúa Cha trên thế giới này.
Chúng ta nhớ lại những lời sắc bén của Thánh Gioan XXIII vào lúc khai mở Công Đồng này, khi ngài phác họa đường lối phải theo: “Giờ đây, Hiền Thê của Chúa Kitô muốn sử dụng phương dược tình thương hơn là tỏ ra khắc nghiệt… Giáo Hội Công Giáo, như Giáo Hội nâng cao ngọn đuốc chân lý Công giáo ở Công Đồng này, muốn chứng tỏ mình là một người mẹ yêu thương tất cả mọi người; nhẫn nại, nhân từ, được tác động bởi lòng cảm thương và sự thiện hảo đối với những đức con tách lìa” (Opening Address of the Second Vatican Ecumenical Council, Gaudet Mater Ecclesia, 11 October 1962, 2-3). Chân Phước Phaolô VI đã nói theo cùng một chiều hướng vào lúc bế mạc Công Đồng này: “Chúng ta thích vạch ra cách thức đức ái đã từng là đặc tính đạo giáo chính yếu của Công đồng này… câu chuyện về Người Samaritanô xưa đã là mô phạm cho linh đạo của Công Đồng… một làn sóng cảm mến và cảm phục xuất phát từ Công Đồng này tuôn vào thế giới nhân loại tân tiến. Những lỗi lầm thực sự bị lên án vì đức ái đòi hỏi điều ấy không thua gì sự thật đòi hỏi, thế nhưng đối với chính các cá nhân thì chỉ có khuyên răn, tôn trọng và yêu thương. Thay vì những chuẩn đoán thê lương là những phương trị phấn chấn; thay vì những tiên đoán thảm khốc là các sứ điệp tin tưởng được xuất phát từ Công Đồng này cho thế giới ngày nay. Các giá trị của thế giới tân tiến chẳng những được tôn trọng mà còn được tôn kính nữa, các nỗ lực của nó được chuẩn nhận, các hứng khởi của nó được thanh tẩy và chúc phúc… Một điểm khác chúng ta cần nhấn mạnh ở đây là tất cả giáo huấn phong phú này đều được tuôn theo một chiều hướng duy nhất, đó là việc phục vụ nhân loại thuộc mọi thân phận, nơi hết mọi nỗi yếu hèn và nhu cầu” (Speech at the Final Public Session of the Second Vatican Ecumenical Council, 7 December 1965).
Với những cảm thức tri ân cảm tạ về hết mọi sự Giáo Hội đã nhận lãnh, và với một cảm quan về trách nhiệm đối với công việc trước mắt, chúng ta sẽ vượt qua ngưỡng Cửa Thánh hoàn toàn tin tưởng rằng sức mạnh của Chúa Phục Sinh, Đấng liên lỉ nâng đỡ chúng ta trên con đường hành trình của chúng ta, sẽ phù trì trợ giúp chúng ta. Xin Thánh Linh, Đấng hướng dẫn những bước đường của tín hữu trong việc cộng tác với công việc cứu độ được Chúa Kitô thực hiện, dẫn đường chỉ lối và nâng đỡ Dân Chúa để họ có thể chiêm ngưỡng dung nhan của tình thương (Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 16: Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 15).
5. Năm Thánh này sẽ bế mạc với Lễ Trọng Chúa Kitô Làm Vua vào ngày 20 tháng 11 năm 2016. Vào ngày đó, khi chúng ta đóng Cửa Thánh lại, chúng ta sẽ được tràn đầy trước hết một cảm quan tri ân cảm tạ Ba Ngôi Chí Thánh đã ban cho chúng ta một thời gian đặc biệt của ân sủng. Chúng ta sẽ ký thác đời sống của Giáo Hội, toàn thể nhân loại, và toàn thể vũ trụ này cho vai trò làm Chúa của Đức Kitô, xin Người tuôn đổ tình thương của Người trên chúng ta như sương mai, nhờ đó hết mọi người có thể cùng nhau hoạt động để xây dựng một tương lai rạng ngời hơn. Tôi mong muốn biết bao năm tới sẽ trở nên sâu xa hơn về tình thương, để chúng ta có thể tiến tới với hết mọi con người nam nữ, mang đến cho họ sự thiện hảo và niềm dịu dàng êm ái của Thiên Chúa! Chớ gì dầu thơm của tình thương tỏa ra cho hết mọi người, cả thành phần tín hữu lẫn những ai xa cách, như là một dấu hiệu cho thấy rằng Vương Quốc của Thiên Chúa đã ở giữa chúng ta rồi vậy!.
II- Tình Thương: Hành Động của Thiên Chúa trong Mạc Khải Thánh Kinh (6-9)
6. “Thật là thích hợp để Thiên Chúa thực thi tình thương và Ngài bày tỏ quyền toàn năng của Ngài ra một cách đặc biệt như thế” (Saint Thomas Aquinas, Summa Theologiae, II-II, q. 30, a. 4). Những lời của Thánh Tôma Aquinas cho thấy rằng tình thương của Thiên Chúa là dấu hiệu cho quyền toàn năng của Ngài, hơn là một dấu hiệu của những gì là yếu hèn. Đó là lý do phụng vụ, ở một trong những lời nguyện đầu lễ cổ kính nhất chúng ta đã cầu rằng: “Ôi Thiên Chúa, Đấng tỏ quyền năng của Chúa ra nhất là nơi tình thương và sự tha thứ của Chúa…” (XXVI Sunday in Ordinary Time. This Collect already appears in the eighth century among the euchological texts of the Gelasian Sacramentary [1198]). Trải suốt giòng lịch sử của nhân loại, Thiên Chúa bao giờ cũng là Đấng hiện diện, gần gũi, quan phòng, thánh hảo và nhân hậu.
“Nhẫn nại và nhân hậu”. Những lời này thường đi với nhau trong Cựu Ước để diễn tả bản tính của Thiên Chúa. Bản tính nhân hậu của Ngài được thể hiện một cách cụ thể nơi nhiều hành động của Ngài dọc suốt giòng lịch sử cứu độ, một giòng lịch sử cho thấy sự thiện hảo của Ngài trổi vượt hơn là trừng phạt và hủy diệt. Các Thánh Vịnh đã đặc biệt nhấn mạnh đến sự cao cả nơi hành động nhân hậu của Ngài: “Ngài thứ tha tất cả mọi lầm lỗi của ngươi, Ngài chữa lành tất cả mọi bệnh hoạn của ngươi, Ngài cứu chuộc sự sống của ngươi khỏi huyệt thẳm, Ngài thăng hóa ngươi bằng tình yêu và tình thương bền vững” (103:3-4). Bài Thánh Vịnh khác, còn rõ ràng hơn nữa, chứng thực cho thấy các dấu hiệu cụ thể của tình thương Ngài: “Ngài bảo đảm công lý cho kẻ bị đàn áp; Ngài ban lương thực cho người đói khổ. Chúa giải phóng thành phần tù nhân; Chúa mở mắt cho những ai mù lòa. Chúa nâng dậy những ai bị đè nén; Chúa yêu thương thành phần công chính. Chúa canh chừng những ai kiều cư, Ngài nâng đỡ cô nhi quả phụ; nhưng Ngài phá tan đường lối của kẻ gian ác” (146:7-9). Đây là một số diễn tả khác của Thánh Vịnh gia: “Ngài chữa lành tâm can tan nát và băng bó các thương tích của họ… Kẻ bị chà đạp được Chúa nâng lên, kẻ gian ác bị Ngài quăng xuống đất” (147:3,6). Tóm lại, tình thương của Thiên Chúa không phải là một ý nghĩ trừu tượng mà là một thực tại cụ thể nhờ đó Ngài mạc khải cho thấy tình yêu thương của Ngài như tình yêu của một người cha hay của một người mẹ, một tình yêu hết sức động lòng yêu thương đứa con của mình. Nói mà không sợ quá đáng thì đó là một thứ tình yêu “đầy cảm xúc”. Nó vọt ra một cách tự nhiên từ thâm cung đầy những niềm êm ái dịu dàng và cảm thương, yêu chiều và xót thương.
7. “Vì tình thương của Ngài bền vững muôn đời”. Đây là phiên khúc được lập lại sau mỗi câu trong Thánh Vịnh 136 khi Thánh Vịnh này kể ra lịch sử mạc khải của Thiên Chúa. Vì tình thương mà tất cả mọi biến cố trong Cựu Ước đầy những ý nghĩa cứu độ sâu xa. Tình thương làm cho lịch sử của Thiên Chúa với dân do Thái thành một lịch sử cứu độ. Việc lập lại liên tục “vì tình thương của Ngài bền vững muôn đời”, như trong bài Thánh Vịnh này, như thể làm cho các chiều kích về không gian và thời gian được thông suốt, đem hết mọi sự vào mầu nhiệm đời đời của tình yêu. Như thể nói rằng chẳng những trong lịch sử mà còn cho đến đời đời con người bao giờ cũng sẽ ở dưới ánh mắt nhân hậu của Chúa Cha. Không phải là ngẫu nhiên mà dân Do Thái đã muốn cho bài thánh vịnh này – được gọi là “Great Hallel – Bài Chúc Tụng Cao Cả” – vào những ngày lễ phụng vụ quan trọng nhất.
Trước cuộc Khổ Nạn của mình, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng bài thánh vịnh tình thương này. Thánh ký Mathêu chứng thực điều ấy khi ngài nói rằng “khi các vị hát một bài thánh ca” (26:30) Chúa Giêsu và các môn đệ của Người đi lên Núi Cây Dầu. Khi Người thiết lập Thánh Thể như là một việc muôn đời tưởng nhớ đến Người và hy tế vượt qua của Người, Người đã đặt tác động mạc khải tối cao này một cách biểu hiệu theo chiều kích tình thương của Người. Trong chính bối cảnh tình thương ấy, Chúa Giêsu đã tiến vào cuộc khổ nạn và tử nạn của Người, ý thức về mầu nhiệm yêu thương cao cả mà Người sẽ hoàn tất trên cây thập tự giá. Việc nhận thức được chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện bài thánh vịnh này đã làm cho bài thánh vịnh ấy thậm chí càng trở nên quan trọng hơn nữa đối với Kitô hữu chúng ta, thách thức chúng ta hãy lập lại điệp khúc này trong đời sống hằng ngày của chúng ta, bằng cách cầu nguyện với những lời chúc tụng ấy: “vì tình thương của Ngài muôn đời bền vững”.
8. Bằng ánh mắt của mình ngắm nhìn Chúa Giêsu cũng như ngắm nhìn ánh mắt nhân hậu của Người, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Ba Ngôi Chí Thánh. Sứ vụ Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ Cha là sứ vụ mạc khải tất cả mầu nhiệm tình yêu thần linh. “Thiên Chúa là tình yêu” (1Gioan 4:8,16), Thánh ký Gioan khẳng định như thế lần đầu tiên và là lần duy nhất trong toàn bộ Thánh Kinh. Tình yêu này giờ đây đã trở thành hữu hình và khả giác nơi tất cả cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu. Bản thân của Người chẳng là gì khác hơn là tình yêu, một tình yêu được tặng ban một cách nhưng không. Các mối liên hệ Người tạo nên với dân chúng là thành phần tiến đến với Người cho thấy một cái gì đó hoàn toàn đặc thù và bất khả tái diễn. Những dấu hiệu Người thực hiện, nhất là trước các tội nhân, trước thành phần nghèo khổ, thành phần ở bên lề xã hội, thành phần yếu bệnh, và thành phần đau khổ, tất cả đều có mục đích giáo huấn về tình thương. Hết mọi sự nơi Người đều nói về tình thương. Không một sự gì nơi Người mà lại trống rỗng lòng cảm thương.
Chúa Giêsu, khi thấy các đám đông dân chúng đi theo Người, đã nhận thấy rằng họ mệt mỏi và kiệt sức, lạc loài và không có người chăn dắt, nên Người đã cảm thấy thật là cảm thương họ (xem Mathêu 9:36). Theo tình yêu cảm thương này, Người đã chữa lành các bệnh nhân được mang đến cho Người (xem Mathêu 14:14), và bằng một chút ổ bánh và cá, Người đã nuôi no thỏa cả một đám thật đông (xem Mathêu 15:37). Cái đã tác động Chúa Giêsu trong tất cả mọi trường hợp này không là gì khác ngoài tình thương, một tình thương khiến Người biết được tâm can của những ai Người gặp gỡ và đã đáp ứng nhu cầu sâu xa nhất của họ. Khi Người thấy bà góa Thành Naim đang đưa đứa con trai của mình đi chôn, Người đã hết sức cảm thương về nỗi đau khổ mênh mông của người mẹ sầu thương này, và Người đã trả lại đứa con cho bà bằng việc làm em hồi sinh từ kẻ chết (xem Luca 7:15). Sau khi giải thoát cho một người bị quỉ ám ở miền Gerasenes, Người đã trao cho anh ta sứ vụ này là “Hãy trở về với bạn bè của anh mà nói cho họ biết Chúa đã làm cho anh biết bao, và Ngài đã thương anh như thế nào” (Marco 5:19). Việc kêu gọi chàng Mathêu cũng xẩy ra trong bối cảnh của tình thương. Khi đi ngang qua một quán của người thu thuế này, Chúa Giêsu đã chăm chú nhìn chàng Mathêu. Chính cái nhìn đầy tình thương này đã thứ tha các tội lỗi của con người đó, một tội nhân và là một viên thu thuế, kẻ được Chúa Giêsu chọn – ngược lại với sự ngần ngại của các môn đệ – để trở thành một trong Nhóm 12. Thánh Bede the Venerable, khi dẫn giải về đoàn Phúc Âm này, đã viết rằng Chúa Giêsu đã nhìn chàng Mathêu một cách yêu thương nhân hậu và đã chọn chàng: miserando atque eligendo (Cf. Homily 22: CCL, 122, 149-151). Lời diễn tả này đã đánh động tôi đến độ tôi đã chọn nó làm câu tâm niệm giáo phẩm của tôi.
9. Trong các dụ ngôn về tình thương, Chúa Giêsu đã mạc khải cho thấy bản tính của Thiên Chúa như là bản tính của một Người Cha không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi Ngài tha thứ kẻ lầm đường lỡ bước và chế ngự thái độ tẩy chay bằng lòng cảm thương và tình thương. Chúng ta quá biết những dụ ngôn ấy, đặc biệt là 3 dụ ngôn: về con chiên lạc, về đồng cắc thất lạc và về người cha với 2 đứa con (xem Luca 15:1-32). Trong những dụ ngôn này, Thiên Chúa luôn tỏ ra tràn đầy niềm vui, nhất là khi Ngài tha thứ. Nơi những dụ ngôn ấy, chúng ta thấy được cái cốt lõi của Phúc Âm và của đức tin chúng ta, vì tình thương hiện lên như là một quyền lực thắng vượt hết mọi sự, làm cho tâm can tràn đầy yêu thương và mang lại niềm ai ủi bằng ơn tha thứ.
Ở dụ ngôn khác, chúng ta có được một giáo huấn quan trọng cho đời sống Kitô hữu của chúng ta. Trong câu trả lời cho vấn nạn của Tông Đồ Phêrô về số lần tha thứ cần thiết, Chúa Giêsu nói rằng: “Thày không bảo là 7 lần mà là 70 lần 7” (Mathêu 18:22). Đoạn Người tiếp tục nói về dụ ngôn của “người bầy tôi tàn nhẫn”, kẻ bị chủ mình đòi nợ một số tiền khổng lồ đã quì xuống van xin ông thương tình. Người chủ nợ đã tha hết số nợ cho hắn. Nhưng sau đó hắn gặp một người đồng nghiệp bầy tôi mắc nợ hắn có vài xu thôi và người này quì xuống xin thương tình, nhưng tên đầy tớ trước từ khước lời van xin của người bạn bầy tôi này mà tống anh ta vào tù. Khi người chủ nghe thấy tự sự thì nổi giận và gọi tên đầy tớ thứ nhất vào mà nói: “Tại sao ngươi đã chẳng xót thương người bạn bầy tôi của ngươi như ta đã thương xót ngươi chứ?” (Mathêu 18:33). Chúa Giêsu kết luận: “Cha Thày ở trên trời cũng sẽ đối xử với mọi người trong các con như vậy, nếu các con không thật lòng tha thứ cho anh em của các con” (Mathêu 18:35).
Dụ ngôn này chất chứa một giáo huấn sâu xa cho tất cả chúng ta. Chúa Giêsu khẳng định rằng tình thương không chỉ là một hành động của Người Cha, nó còn trở thành một tiêu chuẩn cho thấy ai thật là con cái của Ngài. Tóm lại, chúng ta được kêu gọi để tỏ ra tình thương vì chúng ta đã được tình thương cho ra cho trước. Việc tha thứ các xúc phạm trở nên việc thể hiện rõ ràng nhất tình yêu nhân hậu, và đối với Kitô hữu chúng ta nó là một mệnh lệnh chúng ta không thể tránh né. Có những lúc dường như khó mà có thể thứ tha! Tuy nhiên, tha thứ là một dụng cụ được đặt trong bàn tay mềm yếu của chúng ta để đạt được sự thanh thản của cõi lòng. Việc giải tỏa những gì hận tức, giận dữ, bạo động và trả thù là những điều kiện cần thiết để sống một cách hân hoan. Bởi thế, chúng ta hãy lắng nghe lời huấn dụ của Thánh Tông Đồ: “Đừng để cho đến khi mặt trời lặn mà vẫn còn hận tức” (Epheso 4:26). Trước hết, hãy lắng nghe lời của Chúa Giêsu là Đấng làm cho tình thương trở thành lý tưởng của đời sống và là tiêu chuẩn cho cái thế giá của đức tin chúng ta: “Phúc cho ai biết xót thương, vì họ sẽ được thương xót” (Mathêu 5:7): phúc đức này là những gì chúng ta đặc biệt cần phải khao khát trong Năm Thánh này.
Như chúng ta có thể thấy trong Thánh Kinh, tình thương là từ ngữ then chốt cho thấy hành động của Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài không chỉ hạn hẹp mình nơi việc xác nhận tình yêu của Ngài mà còn làm cho nó trở nên hữu hình và khả giác nữa. Dù sao tình yêu không bao giờ chỉ là một cái gì đó trừu tượng. Nơi chính bản chất của mình, tình yêu nói lên một cái gì đó cụ thể: những ý hướng, các thái độ và những hành vi cử chỉ được tỏ ra trong cuộc sống hằng ngày. Tình thương của Thiên Chúa là mối quan tâm yêu thương của Ngài đối với từng người chúng ta. Ngài cảm thấy có trách nhiệm; tức là Ngài muốn chúng ta được phúc hạnh và Ngài muốn thấy chúng ta hạnh phúc, tràn đầy hân hoan và an bình. Đó là con đường mà tình yêu nhân hậu của thành phần Kitô hữu cũng cần phải hành trình. Cha yêu thương thế nào thì con cái của Ngài cũng thế. Như Ngài là Đấng nhân hậu thì chúng là cũng được kêu gọi sống nhân hậu với nhau như thế.
III- Tình Thương: Nền Tảng của Đời Sống Giáo Hội (10-12)
10. Tình thương là chính nền tảng của đời sống Giáo Hội. Tất cả mọi hoạt động mục vụ của Giáo Hội cần phải được gắn bó với niềm êm ái dịu dàng Giáo Hội tỏ ra với các tín hữu; không một sự gì nơi việc giảng dạy của Giáo Hội cũng như nơi chứng từ của Giáo Hội trước thế giới lại có thể vắng bóng tình thương. Chính cái uy tín của Giáo Hội được nhận thấy ở cách thức Giáo Hội tỏ ra cho thấy tình yêu nhân hậu và cảm thương. Giáo Hội “có một ước muốn khôn nguôi bày tỏ cho thấy tình thương” (Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium, 24). Có lẽ chúng ta đã quên đi từ lâu lắm rồi cách thức tỏ bày và sống đường lối của tình thương. Một đàng thì khuynh hướng chỉ tập trung vào công lý làm cho chúng ta quên rằng công lý chỉ là những gì đầu tiên mặc dù là một bước cần thiết và bất khả châm chước. Thế nhưng Giáo Hội cần phải tiến xa hơn nữa và nỗ lực đạt tới một mục đích cao hơn và quan trọng hơn. Đàng khác, đáng buồn thay, chúng ta cần phải công nhận rằng việc thực hành tình thương là những gì đang bị suy tàn trong một nền văn hóa bao rộng hơn. Ở một số trường hợp chữ này được như đã bị bỏ đi không còn sử dụng nữa. Tuy nhiên, không có chứng từ tình thương thì đời sống trở thành thui chột và héo úa, như thể bị khuất dạng trong một sa mạc cằn cỗi. Đã đến lúc Giáo Hội cần phải tiếp tục ơn gọi hân hoan về tình thương một lần nữa. Đã đến lúc trở về với những gì là căn bản và mang lấy những yếu hèn cùng các thứ chống chọi của anh chị em chúng ta. Tình thương là năng lực làm chúng ta tái bừng lên sự sống mới và thâm nhập trong chúng ta lòng can đảm hy vọng nhìn về tương lai.
11. Chúng ta đừng quên giáo huấn cao cả của Thánh Gioan Phaolô II gửi cho chúng ta trong bức Thông Điệp thứ 2 của ngài, Giầu Lòng Thương Xót – Dives in Misericordia, một thông điệp vào lúc ấy là những gì không ngờ lại có, mà đề tài của bức thông điểm này đã làm cho nhiều người cảm thấy ngỡ ngàng. Có 2 đoạn đặc biệt tôi muốn nhấn mạnh đến. Đoạn thứ nhất, Thánh Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh đến sự kiện là chúng ta đã quên vấn đề về tình thương trong môi trường văn hóa ngày nay: “Tâm thức của ngày hôm nay đây, có lẽ hơn tâm thức của con người ta trong quá khứ, dường như chống lại với một Vị Thiên Chúa của tình thương, thực sự là có khuynh hướng loại trừ ra khỏi đời sống và tẩy chay khỏi tâm can của con người chính ý nghĩ tình thương. Từ ngữ và quan niệm ‘tình thương’ dường như gây ra cái cảm giác khó chịu nơi con người, thành phần mà nhờ sự phát triển khổng lồ về khoa học và kỹ thuật, chưa từng thấy trong lịch sử, đã trở thành chủ nhân ông của trái đất này và đã làm chủ cùng thống trị nó (xem Khởi Nguyên 1:28). Việc thống trị trái đất này, đôi khi được hiểu theo một chiều và hời hợt, dường như không còn chỗ đứng cho tình thương… Và đó là lý do tại sao, trong tình trạng của Giáo Hội và thế giới ngày nay, nhiều cá nhân và tập thể được hướng dẫn bởi một cảm quan sống động của đức tin đang quay về, tôi có thể nói là hầu như một cách bộc phát tự nhiên, với tình thương của Thiên Chúa” (Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium, 2).
Ngoài ra, Thánh Gioan Phaolô II đã đẩy mạnh việc loan báo và chứng từ cho tình thương một cách khẩn trương hơn nữa trong thế giới hiện đại: “Nó được thúc đẩy bởi tình yêu thương giành cho con người, giành cho tất cả những gì là nhân bản và là những gì, theo trực giác của nhiều người đồng thời của chúng ta, đang bị đe dọa bởi một mối nguy hiểm ngút ngàn. Mầu nhiệm của Chúa Kitô… buộc tôi phải loan báo tình thương như là tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, một tình yêu được mạc khải cũng ở nơi mầu nhiệm Chúa Kitô ấy. Nó đồng thời cũng bắt buộc tôi phải chạy đến với tình thương ấy mà van xin tình thương vào lúc khó khăn này, giai đoạn nghiêm trọng của lịch sử Giáo Hội và thế giới” (Saint John Paul II, Encyclical Letter Dives in Misericordia, 15). Giáo huấn này càng liên hệ hơn bao giờ hết và đáng được tái tiếp tục trong Năm Thánh này. Chúng ta hãy nghe lời ngài một lần nữa: “Giáo Hội sống một đời sống chân thực khi Giáo Hội tuyên xưng và loan báo tình thương – một phẩm tính kỳ diệu nhất của Đấng Hóa Công và của Đấng Cứu Chuộc – cũng như khi Giáo Hội mang con người đến gần với các nguồn mạch tình thương của Đấng Cứu Thế, một tình thương mà Giáo Hội là ký thác viên và là nơi chất chứa” (Saint John Paul II, Encyclical Letter Dives in Misericordia, 13).
12. Giáo Hội được sai đi loan báo tình thương của Thiên Chúa là con tim đang rung đập của Phúc Âm, một tình thương theo cách thức của mình cần phải thấm nhập tâm trí của hết mọi người. Hiền Thê của Chúa Kitô cần phải khuôn mẫu hành vi cử chỉ của mình theo gương Con Thiên Chúa, Đấng đã tiến đến với hết mọi người không trừ ai. Vào ngày hôm nay đây, khi Giáo Hội đang chuyển mình với công việc tân truyền bá phúc âm hóa, đề tài tình thương là những gì cần phải được đề ra một lần nữa bằng một nhiệt tình mới và hoạt động mục vụ đổi mới. Thật là vô cùng cần thiết đối với Giáo Hội cũng như đối với thế giá sứ điệp của Giáo Hội mà chính Giáo Hội phải sống và làm chứng cho tình thương. Ngôn ngữ của Giáo Hội và cử chỉ của Giáo Hội cần phải truyền đạt tình thương, để có thể chạm đến tâm can của tất cả mọi người và phấn chấn họ một lần nữa trong việc tìm kiếm con đường dẫn về cùng Chúa Cha.
Sự thật tiên quyết của Giáo Hội là tình yêu của Chúa Kitô. Giáo Hội biến mình trở thành tôi tớ cho tình yêu này và hòa giải nó với tất cả mọi dân tộc: một tình yêu tha thứ và tỏ mình ra nơi việc ban tặng bản thân mình. Nhờ đó, bất cứ Giáo Hội hiện diện ở đâu thì tình thương của Cha cần phải được hiện lộ ở đó. Tóm lại, trong các giáo xứ, cộng đồng, hiệp hội và phong trào của chúng ta, ở đâu có Kitô hữu thì ở đấy mọi người thấy được một ốc đảo tình thương.
IV- Tình Thương: Như Cha Thương Xót (13-17)
13. Chúng ta muốn sống Năm Thánh này theo chiều hướng của lời Chúa: Hãy thương xót như Cha. Vị Thánh ký nhắc nhở chúng ta về giáo huấn của Chúa Giêsu là Đấng đã nói: “Hãy xót thương như Cha của các con thương xót” (Luca 6:36). Nó là chương trình sống gắt gao cùng đầy niềm vui và an bình. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu là những gì nhắm đến hết bất cứ ai muốn lắng nghe tiếng của Người (xem Luca 6:27). Vì thế, để có thể xót thương, trước hết chúng ta cần phải sẵn sàng nghe Lời Chúa. Có nghĩa là tái nhận thức được cái giá trị của sự thinh lặng để suy niệm chính Lời muốn nói với chúng ta. Có thế chúng ta mới có thể chiêm ngưỡng tình thương của Thiên Chúa và chấp nhận tình thương như là lối sống của chúng ta.
14. Việc hành hương có một chỗ đứng đặc biệt trong Năm Thánh này, vì nó tiêu biểu cho cuộc hành trình mà mỗi người chúng ta thực hiện trong cuộc sống đây. Chính đời sống là một cuộc hành hương, và nhân loại là một lữ khách; một kẻ hành trình đang tiến bước trên con đường của mình để tới đích điểm ước định. Cũng thế, để tiến đến Cửa Thánh ở Rôma hay ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới, hết mọi người, mỗi người tùy theo khả năng của mình, sẽ cần phải thực hiện một cuộc hành trình. Điều ấy sẽ là một dấu hiệu lấy tình thương làm đích nhắm và đòi phải dấn thân cùng hy sinh. Chớ gì cuộc hành trình là một cái đà hoán cải: bằng việc bước qua ngưỡng Cửa Thánh, chúng ta sẽ được sức mạnh để gắn bó với tình thương của Thiên Chúa và dấn thân trở nên nhân hậu với người khác như Cha đã đối xử với chúng ta.
Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy những bước đường hành trình để đạt tới mục đích của chúng ta, đó là: “Đừng phán xét để các con khỏi bị phán xét; đừng lên án để các con khỏi bị lên án; hãy tha thứ thì các con sẽ được thứ tha; hãy cho thì các con sẽ được ban tặng; đong đầy, nén sâu, lắc kỹ, thì các con sẽ được thỏa thuê. Vì các con đong đấu nào các con sẽ nhận được đấu ấy” (Luca 6:37-38). Chúa xin chúng ta trước hết là đừng phán xét và đừng lên án. Nếu ai muốn không bị Thiên Chúa phán xét thì họ không được biến mình thành quan án của anh chị em mình. Nhân loại, bất cứ khi nào phán xét thì chỉ thiển cận bề ngoài, trong khi đó Chúa Cha nhìn vào tận thẳm cung linh hồn. Biết bao nhiêu là lời nói tai hại khi họ bị kích động bởi những cảm giác ghen tương đố kỵ! Việc nói xấu người khác là việc đẩy người ấy vào một làn ánh sáng nhạt nhòa, làm suy yếu tiếng tăm của người ta và biến người ấy thành mối ngon cho những lời xì xèo bàn tán. Việc kiềm chế phán xét và lên án, theo nghĩa tích cực, có nghĩa là biết chấp nhận cái tốt nơi hết mọi người và không gây cho họ bất cứ một đau khổ nào có thể gây ra bởi việc phán xét thiên lệnh của chúng ta cũng như bởi những gì chúng ta tưởng rằng chúng ta biết hết mọi sự về họ. Thế nhưng điều ấy vẫn chưa đủ để thể hiện tình thương. Chúa Giêsu cũng xin chúng ta hãy tha thứ và hãy ban tặng nữa. Hãy trở thành dụng cụ của tình thương, vì chính chúng ta là thành phần đã lãnh nhận tình thương của Thiên Chúa trước. Hãy quảng đại với người khác, nhận thức rằng Thiên Chúa đã vô cùng quảng đại tuôn đổ lòng thiện hảo của Ngài xuống trên chúng ta.
Vì thế, hãy thương xót như Cha là “câu tâm niệm” của Năm Thánh này. Nơi tình thương chúng ta thấy được chứng cớ Thiên Chúa yêu thương chúng ta ra sao. Ngài đã ban cho chúng ta tất cả bản thân của Ngài, luôn luôn, một cách tự do, chẳng đòi lại gì. Ngài đến trợ giúp chúng ta bất cứ khi nào chúng ta kêu cầu Ngài. Thật là một điều tốt đẹp khi Giáo Hội bắt đầu kinh nguyện hằng ngày của mình bằng câu: “Ôi Thiên Chúa, xin đến trợ giúp con. Ôi Chúa, xin mau đến giúp con” (Thánh Vịnh 70:2)! Sự trợ giúp chúng ta xin đây đã là bước đầu tiên của tình thương Thiên Chúa đối với chúng ta rồi. Ngài đến trợ giúp chúng ta nơi nỗi yếu hèn của chúng ta. Và ơn trợ giúp của Ngài là ở chỗ giúp chúng ta chấp nhận sự hiện diện của Ngài và sự gần gũi của Ngài. Ngày ngày được lòng cảm thương của Ngài chạm đến, chúng ta cũng có thể trở nên cảm thương đối với người khác.
15. Trong Năm Thánh này, chúng ta hướng tới cái cảm nghiệm về việc mở lòng của chúng ta ra cho những ai đang sống ở những lề mép xa xôi nhất của xã hội: những lề mép do chính xã hội tân tiến tạo nên. Biết bao nhiêu là những tình trạng bất ổn và đau thương trong thế giới ngày nay! Biết bao nhiêu là những thương tích nơi xác thịt của những người không có tiếng nói, vì tiếng kêu la của họ bị bóp nghẹt và nhận chìm bởi thái độ lạnh lùng của kẻ giầu sang phú quí! Trong Năm Thánh này, Giáo Hội được kêu gọi hơn nữa trong việc hàn gắn các thương tích ấy, trong việc xoa dịu chúng bằng dầu an ủi, trong việc băng bó chúng bằng tình thương và chữa lành chúng bằng tình liên kết cùng với việc ân cần chăm sóc. Chúng ta đừng để mình bị rơi vào tình trạng dửng dưng đáng xấu hổ hay vào một cái thói quen thuộc làm cản trở chúng ta trong việc khám phá ra những gì là mới mẻ! Chúng ta hãy tránh né những gì là yếm thế hủy hoại! Chúng ta hãy mở mắt chúng ta ra để thấy được tình trạng khốn khổ của thế giới, thấy những vết thương của anh chị em chúng ta là những người đang bị chối bỏ phẩm vị của họ, và chúng ta hãy nhận thức rằng chúng ta buộc phải lắng nghe tiếng kêu la xin được cứu giúp của họ! Chớ gì chúng ta vươn đến họ và nâng đỡ họ để họ có thể cảm thấy hơi ấm của việc chúng ta hiện diện, của tình thân hữu chúng ta, và của tình huynh đệ của chúng ta! Chớ gì tiếng kêu la của họ trở thành của chúng ta, và cùng nhau chúng ta phá đổ những rào cản cái dửng dưng lạnh lùng là những gì quá ư thống trị chúng ta và hãy lột bỏ đi cái mặt nạ giả hình và cái tôi của chúng ta!
Ước muốn thiết tha của tôi là, trong Năm Thánh này, dân Kitô giáo hãy nghĩ đến các công việc xót thương về thể lý và tâm linh. Nó sẽ là cách để làm cho lương tâm của chúng ta bừng tỉnh lại, một lương tâm đã quá thường trở nên cùn nhụt trước cảnh nghèo khổ. Và chúng ta hãy tiến sâu hơn nữa vào cốt lõi của Phúc Âm là nơi người nghèo có một vị thế đặc biệt nơi tình thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta những công việc xót thương này trong việc giảng dạy của Người nhờ đó chúng ta có thể biết chúng ta có đang sống như là môn đệ của Người hay chăng. Chúng ta hãy tái khám phá ra những công việc xót thương về thể lý (theo kinh nguyện Tiếng Việt là Thương Xác 7 Mối): cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới áo mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, chôn xác kẻ chết. Và chúng ta đừng quên các công việc xót thương về tâm linh (theo kinh nguyện tiếng Việt là Thương Linh Hồn 7 Mối), đó là lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Chúng ta không thể thoát khỏi lời Chúa nói với chúng ta, và những lời này trở thành tiêu chuẩn mà chúng ta sẽ bị phán xét, ở chỗ chúng ta có cho kẻ đói ăn và cho kẻ khát uống hay chăng, chúng ta có cho khách đỗ nhà và cho kẻ rách rưới áo mặc hay chăng, hay chúng ta có viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc hay chăng (xem Mathêu 25:31-45). Hơn thế nữa, chúng ta sẽ phải trả lẽ rằng chúng ta có giúp cho người khác khỏi bị ngờ vực khiến họ bị chán nản và thường là nguồn gây ra tình trạng lẻ loi cô độc hay chăng; chúng ta có giúp vào việc thắng vượt tình trạng vô tri mà hằng bao nhiêu triệu người đang sống hay chăng, nhất là các trẻ em bị hụt hẫng những phương tiện cần thiết để giải thoát họ khỏi mọi ràng buộc nghèo khổ; chúng ta có gần gũi với những ai lẻ loi cô độc và sầu thương hay chăng; chúng ta có tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, và loại trừ tất cả mọi hình thức hận tức cùng thù ghét gây ra bạo lực hay chăng; chúng ta có đức nhẫn nại như của Thiên Chúa là Đấng quá nhẫn nại với chúng ta hay chăng; và chúng ta có phó dâng anh chị em chúng ta lên Chúa trong nguyện cầu hay chăng. Nơi mỗi một người trong “những kẻ hèn mọn” này có chính Chúa Kitô hiện diện. Xác thịt của Người trở nên hữu hình nơi xác thịt của những ai bì hành hạ, những ai bị chà đạp, những ai bị áp bức, những ai bị thiếu dinh dưỡng, và những ai bị đầy ải… thành phần chúng ta cần phải nhận ra, chạm tới và chăm sóc. Chúng ta đừng quên những lời của Thánh Gioan Thánh Giá: “khi chúng ta lìa đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu” (Words of Light and Love, 57).
16. Trong Phúc Âm Thánh Luca, chúng ta thấy một yếu tố quan trọng khác là những gì sẽ giúp chúng ta sống Năm Thánh bằng đức tin. Thánh Luca viết rằng Chúa Giêsu, vào Ngày Hưu Lễ, đã trở lại Nazarét, và như thói quen, Người đã vào hội đường. Họ mời Người đọc Thánh Kinh và dẫn giải Thánh Kinh. Đoạn Thánh Kinh này đoạn ở Sách Tiên Tri Isaia: “Thần Linh của Chúa là Thiên Chúa ở trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi để mang tin mừng cho người sầu khổ; Ngài đã sai tôi đi băng bó cho kẻ đoạn trường, loan báo tự do cho kẻ bị tù đầy, và giải phóng cho những ai bị giam cầm; công bố năm hồng ân của Chúa” (61:1-2). Một “năm hồng ân của Chúa” hay “tình thương”: đó là những gì Chúa công bố và là những gì giờ đây chúng ta muốn sống. Năm Thánh này sẽ nhấn mạnh đến sự phong phú nơi sứ vụ của Chúa Giêsu được vang vọng qua các lời của vị tiên tri, đó là mang lại một lời nói hay cử chỉ an ủi cho kẻ nghèo khổ, là loan báo tự do cho những ai bị ràng buộc bởi những hình thức nô lệ mới trong xã hội tân tiến, là phục quang cho những ai không còn thấy gì nữa vị họ chỉ nhắm vào bản thân mình, là phục hồi phẩm giá cho tất cả những ai đã bị cướp lột. Việc giảng dạy của Chúa Giêsu được trở nên hữu hình một lần nữa nơi việc đáp ứng của đức tin mà thành phần Kitô hữu được kêu gọi để cống hiến bằng chứng từ của mình. Chớ gì những lời của vị Tông Đồ luôn đi kèm với chúng ta: Ai thực hiện các việc tình thương thì hãy làm việc ấy một cách vui tươi hớn hở (xem Roma 12:8).
17. Mùa Chay trong Năm Thánh này cũng phải được sống một cách tha thiết hơn như là một thời điểm hồng ân để cử hành và cảm nghiệm tình thương của Thiên Chúa. Biết bao nhiêu là đoạn Thánh Kinh thích hợp cho việc suy niệm trong các tuần lễ Mùa Chay để giúp chúng ta tái nhận thức được dung nhan nhân hậu của Chúa Cha! Chúng ta có thể lập lại những lời của vị tiên tri Mica như là của chúng ta: Ôi Chúa, Chúa là một Vị Thiên Chúa bỏ qua lỗi lầm và thứ tha tội lỗi, Đấng không vĩnh viễn giận dữ nhưng muốn bày tỏ tình thương. Lạy Chúa, Chúa sẽ trở lại với chúng con và thương đến dân của Chúa. Chúa sẽ chà đạp tội lỗi của chúng con và quẳng chúng xuống lòng biển cả (xem 7:18-19).
Những trang sách của Tiên Tri Isaia cũng có thể được suy niệm một cách cụ thể trong mùa cầu nguyện, chay tịnh và làm việc bác ái này: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang ĐỨC CHÚA bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, ĐỨC CHÚA sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!’ Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. ĐỨC CHÚA sẽ không ngừng dẫn dắt ngươi, giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ cho ngươi được no lòng; xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho cứng cáp. Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới đẫm như mạch suối không cạn nước bao giờ”. (Bản dịch của Nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh).
Sáng kiến “24 Giờ cho Chúa” được cử hành vào Thứ Sáu và Thứ Bảy trước Tuần Thứ Bốn Mùa Chay, cần phải được áp dụng ở hết mọi giáo phận. Rất nhiều người, bao gồm cả giới trẻ, đang trở về với Bí Tích Hòa Giải; nhờ cảm nghiệm này, họ đang tái khám phá con đường trở về cùng Chúa, sống một giờ khắc thiết tha nguyện cầu và tìm kiếm ý nghĩa trong đời sống của họ. Chúng ta hãy lấy lại Bí Tích Hòa Giải như tâm điểm của đời sống mình ở chỗ bí tích này giúp cho con người chạm đến được tình thương của Thiên Chúa bằng bàn tay của họ. Đối với hết mọi hối nhân thì bí tích này sẽ là một nguồn an bình nội tâm thực sự.
Tôi sẽ không bao giờ mệt mỏi trong việc nhấn mạnh rằng các vị giải tội là dấu hiệu đích thực của tình thương Chúa Cha. Chúng ta không trở thành những vị giải tội tốt lành một cách tự động đâu. Chúng ta trở nên những vị giải tội tốt lành, trước hết, khi chúng ta để cho mình thành những hối nhân tìm kiếm tình thương của Ngài. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng là các vị giải tội có nghĩa là tham dự vào chính sứ vụ của Chúa Giêsu trong việc trở thành dấu hiệu cụ thể cho tính chất liên lỉ của tình yêu thần linh hằng tha thứ và cứu độ. Linh mục chúng ta đã lãnh nhận tặng ân Thánh Linh để tha thứ tội lỗi, và chúng ta có trách nhiệm về tặng ân này. Không ai trong chúng ta nắm giữ quyền trên Bí Tích ấy; trái lại, chúng ta là những người tôi tớ trung thành của tình thương Thiên Chúa qua bí tích ấy. Hết mọi vị giải tội cần phải chấp nhận tín hữu như là người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng: một người cha chạy đến gặp con của mình, bất chấp sự kiện là nó đã phung phí hết gia sản của nó. Các vị giải tội được kêu gọi ôm ấp người con thống hối trở về và bày tỏ niềm vui thấy họ trở về. Chúng ta không bao giờ được tỏ ra mệt mỏi trong việc đến với người con kia là kẻ đứng bên ngoài, không biết hân hoan vui mừng, để giải thích cho nó rằng phán đoán của nó thì khiêm khắc, bất công và vô nghĩa theo chiều hướng của tình thương vô hạn của người cha. Chớ gì các vị giải tội đừng đặt ra những câu hỏi vô ích, nhưng như người cha trong dụ ngôn ấy, làm gián đoạn lời phát biểu được người con hoang đàng soạn nói, nhờ đó các vị giải tội biết chấp nhận lời thỉnh cầu được giúp đỡ và tình thương xuất phát từ tâm can của hết mọi hối nhân. Tóm lại, các vị giải tội được kêu gọi để trở thành dấu hiệu chính yếu của tình thương, trong mọi lúc, hết mọi nơi và trong mọi trường hợp, bất kể.
(Còn nữa)
Nguồn tin: Misericordiae Vultus