Thánh Đaminh NINH, Nông dân (1841 – 1862)

Ngày 02 tháng 06

Đức tin mạnh hơn sự chết

“Giác quan khiếp sợ trước những hiểm nguy, những  cái sẽ đem đến đau thương và chết chóc. Nhưng với đức tin mạnh mẽ và sống động, giác quan không còn e sợ gì cả, nó biết trước tất cả những gì sẽ xảy đến đều do ý Chúa, và những điều Chúa muốn chỉ sinh ích mà thôi. Như vật, tấc cả những gì sẽ đến vui hay buồn, sức khỏe hay bệnh tật, sống hay chết đều được nó vui nhận trước và dĩ nhiên không còn biết sợ gì”.

Tư tưởng trên đây đã được cha Charles de Foucault, vị khai sáng dòng tiểu đệ trình bày, diễn tả thật chính xác về các vị thánh tử đạo Việt Nam. Các vị biết trước những gian nan và đau khổ sẽ phải chịu, nhưng tin vào Thiên Chúa, các ngài không chút nhát sợ. Sự hiên ngang can trường của các ngài trước bạo lực trần gian thật đáng được muôn đời ca tụng. thánh Đminh Ninh là một trong số các vị oai hùng đó.

Năm 1841, làng Trung Linh, tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Trung (nay là giáo phận Bùi Chu) đón nhận cậu bé Đaminh Ninh  chào đời. Làng Trung Linh cũng là xứ Trung Linh, là một làng thuần Công Giáo. Trong giai đoạn đầu công cuộc truyền giáo  tại miền bắc Việt Nam, Trung Linh là nơi đặt Toa Giám Mục và có trường đào tạo chủng sinh.

Tuy là một nông dân chất phác, cần cù anh Ninh vẫn cố gắng học thêm  chữ Nôm, hy vọng tương lai ngày mai tươi sáng hơn. Anh Ninh được dân làng khen là một Kitô hữu tốt lành, đạo đức. Duy có điều đáng buồn đối với anh, đó là cha mẹ đã ép anh phải kết hôn với một thiếu nữ trong làng. Vì không muốn làm buồn lòng cha mẹ, anh đành miễn cưỡng  chấp nhận cuộc hôn nhân này. Nhưng sau ngày cuới, anh vẫn sống như người độc thân, chứ không chung sống với người thiếu nữ đó. Tuy nhiên, anh vẫn cư xử hòa nhã với nàng. Và sau anh nhận thấy mình có phần lỗi, nên đã cố gắng đền bù bằng cuộc sống thánh thiện, nhất là can đảm chấp nhận mọi đau khổ, cực hình vì đức tin và vì lòng mến Chúa.

Chiếu chỉ phân sáp ban hành ngày 05.08.1861 của vua Tự Đức được áp dụng triệt để tại làng Nam Định. Nếu nhiều nơi trước khi bị phân sáp, giáo hữu còn được bán nhà lấy tiền chi tiêu thì ở đây họ bị bắt, bị trói từng năm người một, và chỉ được đem theo mấy nắm cơm đủ ăn trong hai ngày ngắn ngủi.

Thanh niên can trường.

Năm 1862, anh Ninh vừa được 21 tuổi. Anh bị bắt cùng một số giáo hữu khác, và bị giam nhiều trại tù với những lời dụ dỗ, đe dọa, tra tấn để làm cho các tôi tớ Thiên Chúa khiếp sợ mà chối bỏ đức tin. Quan đã dùng nhiều lời hứa hẹn và đe dọa bắt anh Ninh phải chà đạp Thánh Giá nhưng anh can đảm trả lời: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình thì làm sao người Kitô hữu được phép chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thánh trời đất ? Xin quan cứ thi hành điều quan muốn, còn tôi không bao giờ xúc phạm Thánh Giá Chúa đâu”

Trong án phong Chân Phước cho anh Đaminh Ninh, bà Rôsa Hun làm chứng rằng: “Tôi thấy anh bị nhốt tù tại Đông Vi, tuy mang gông cùm xiềng xích nặng nề, anh vẫn vui vẻ tươi cười”.

Trước lòng can đảm, khẳng khái của anh Đaminh Ninh, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân đã kết án trảm quyết. Và bản án được thi hành ngày 02.06.1862 tại pháp trường An Triêm, tỉnh Nam Định.

Ngày 29.04.1951 tại giáo đô Vatican, trong Vương Cung Thánh Đường Phêrô, anh Đaminh Ninh, người thanh niên nông dân nghèo, nhưng cũng là Kitô hữu can trường đã được Đức cha Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Lm. Đào Trung Hiệu, OP