Nhận Xét về Kitô học Thần Khí theo quan điểm của Roger Haight

Trong số xuất bản tháng 6, 1992, tạp chí Theological Studies đã cho đăng bài viết mang tựa đề Ủng Hộ Kitô Học Thần Khí của tác giả Roger Haight, S.J. [2]

Dù có đưa ra nhiều khía cạnh rất xác đáng tinh  vi, thì theo thiển ý của tôi, bài viết ấy cũng  mang theo nhiều thiếu sót tại căn, và vì thế, không phải  là một cách nhận thức có thể chấp nhận được trong đường  hướng tìm hiểu về đức tin kitô.

 

Vì từ ngữ “Kitô học Thần khí” có bao gồm nhiều  ý nghĩa khác nhau, nên thiết tưởng ngay từ đầu, cũng  cần phải nêu rõ ý nghĩa của những gì bài  viết kia muốn bàn tới. Haight đã miêu tả chính  xác về các hình thái Kitô học, coi đó như là “những  cách thức biểu đạt, hay là giải thích, hoặc la dựa  trên kinh nghiệm đức tin về sự kiện Đức Giêsu đã mang  lại ơn cứu độ của Thiên Chúa cho loài người, mà  nhận chân về bản sắc con người Đức Giêsu” (trang  84). Kitô học Thần Khí theo Haight coi Đức Giêsu như là  một con người đã được đầy Thiên Chúa như là Thần  Khí ngay từ lức bắt đầu cuộc sống, cho đến độ Ngài  đã trở thành Đấng mang ơn cứu độ của Thiên  Chúa. Theo tác giả, thì chính sự việc Thần Khí cư ngụ trong  Đức Giêsu ngay từ giây phút đầu của cuộc sống, là  yếu tố làm cho hình thái Kitô học này khác biệt với  nghĩa tử thuyết (tr. 79). Tác giả Haight đã hiểu việc cư ngụ ấy của Thần Khí như là thiên tính của  Đức Giêsu:

 

 “Đức Giêsu được Thần Khí của Thiên Chúa quyền lực hoá; Thần Khí Thiên Chúa là chính Thiên Chúa hiện  diện, và như thế là hiện diện, là quyền năng,  là sức mạnh, là động lực, Thần Khí tác động hữu  hiệu vô song; do vậy, Đức Giêsu thật là hiện thân của  Thiên Chúa như là Thần Khí. Tuy nhiên, đó không phải  là một quyền năng vô ngã chỉ biết chiếm đoạt và  kiểm soát, nhưng là chính Thiên Chúa tác động trong tự  do của con người, không phải từ bên ngoài  và để thống trị, cũng như không phải từ bên  trong và để chiếm đoạt, song là bằng cách làm  cho tự do hiện thực hóa trọn vẹn được các khả năng cố  hữu của mình” (78).

 

 Trong hình thái Kitô học Thần Khí ấy, có hai khía cạnh cần  phải lưu ý tới: kinh nghiệm tôn giáo của Đức Giêsu,  và kinh nghiệm tôn giáo của những kẻ theo Ngài.  Đức Giêsu đã cảm nghiệm Thiên Chúa như là Thần  Khí hiện diện trong Ngài, làm cho Ngài có thể gọi  Thiên Chúa là “Abba!” Và hệt như vậy, khi cho  chúng ta được chia sẻ Thần Khí với Ngài, Ngài cũng  làm cho chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Abba!”

 

Khi tiến sâu vào tận trong ngôi vị hay chủ thể nơi  Đức Giêsu, thì chỉ nhận ra được một ngôi vị thụ tạo, một  nhân vị, cho dù có được Thần Khí ban cho ân huệ đến tột  mức và quyền lực hóa đến tối đa. Haight không nhìn nhận  Đức Giêsu là một ngôi vị thần linh khi viết rằng: “Ý  thức lịch sử ngày nay không cho phép nói rằng thực  trạng Đức Giêsu làm người thật sự có ý chỉ về một  bản tính loài người toàn vẹn nhưng trừu  tượng, với một ngôi vị thần linh, chứ không có một nguyên  tắc hiện hữu loài người làm nguyên lý hiện  hữu.” (76, Số 35). Miêu tả ngôi vị thần linh trong  Đức Giêsu theo kiểu cách ấy thì có thể là phần nào  có dụng ý tính toán (“bản tính loài người toàn  vẹn nhưng trừu tượng”); nhưng ý nghĩa thì xem ra đã  rõ. Bởi vì chối bỏ chủ thể thần linh và,  vì thế, chối bỏ luôn cả việc chuyển thông đặc tính  (communication of properties ), (76) nên Haight không muốn  nói đến cuộc tiền hiện hữu của Đức Giêsu (77).

 

Tắt một lời: Haight coi Đức Giêsu đơn thuần là một  con người được tràn đầy Thiên Chúa như là Thần  Khí ngay từ lúc mới bắt đầu hiện hữu. Nơi Ngài,  chẳng có một chủ thể thần linh tiền hiện hữu nào  đã có trước và đã trở thành tác nhân  chủ động trong lịch sử loài người, nhờ vào  nhân tính mà chính mình đã nhận lấy làm của  riêng mình. Chẳng có một Con Thiên Chúa vĩnh hằng nào  đã từng trở thành một con người, nhưng đơn  thuần chỉ có một con người được tràn đầy Thiên Chúa  như là Thần Khí tới mức siêu quần bạt tụy.

 

Trong phần đầu của bài viết, về mặt phương pháp, Haight  đã đề ra sáu tiêu chuẩn cho việc nhận định về tính cách  thích đáng của một nền Kitô học. Các tiêu chuẩn ấy đã  được chọn lựa xác đáng. Nhưng dùng chúng để đánh giá  nền Kitô học được tác giả miêu tả qua bài viết  của mình, thì, theo tôi nghĩ, là một việc làm khiếm  khuyết: khiếm khuyết ngay ở điểm Haight từ chối không  nhận rằng chủ thể ngôi vị cơ bản trong Đức Giêsu,  tức là chính bản thân Đức Giêsu, là ngôi vị thần  linh thực sự. Tác giả Haight không cho là một Đấng  đã “sinh bởi Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời,”  và dù thế, cũng đã thực sự trở thành  một con người hoàn toàn “đồng bản tính”  với chúng ta. Sau đây, xin được lần lượt nhận định về các  tiêu chuẩn vừa nói:

 

1. Tiêu chuẩn thứ nhất là phải có tính cách biện  giáo: Kitô học có sứ mạng phải chứng giải kinh nghiệm  kitô về Đức Giêsu; phải minh giải lý do tại sao người  kitô nhận được ơn cứu độ từ nơi Ngài (50). Và  “ơn cứu độ cốt tại ở sự việc Thiên Chúa tự mạc  khải chính mình ra” (60), làm cho Ngài hiện diện  ra trong lịch sử cùng thông ban sức năng biến hóa chúng  ta trở thành môn đồ.

 

Đã đành là Kitô học phải bắt đầu với kinh  nghiệm kitô: kinh nghiệm mà các môn đồ đầu tiên của  Đức Giêsu có về Ngài, và kinh nghiệm của các  tín hữu suốt trong dòng lịch sử Giáo Hội cho đến  cả ngày nay. Chắc hẳn là trong kinh nghiệm của  mình, người kitô thực sự liên hệ với Đức Giêsu như là  Đấng Cứu Tinh, nhưng đồng thời họ cũng liên hệ với Ngài như là Đức Chúa (Kyrios ). Tân Ước biểu  đạt kinh nghiệm kitô về Đức Giêsu qua các vinh tụng ca dâng về Ngài (thí dụ Dt 13,21; 2Pr 3,18; Kh 5,13), vinh tụng ca  mà qua các thế hệ, phụng vụ kitô hằng không ngớt hát  xướng lên. Đã được vô số các tín hữu sau này lặp đi lặp lại làm của mình, lời tuyên tín của  tông đồ Tôma thốt lên rằng: “Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên  Chúa của tôi!” (Ga 20, 28), đích thị là lời biểu  đạt một kinh nghiệm xác thực về Đức Giêsu. Đó không phải là những lời đơn thuần thưa lên cùng Thiên  Chúa như là Thần Khí cư ngụ trong Đức Giêsu, song là thưa lên cùng chính bản thân Đức Giêsu. Kitô học Thần  Khí theo Haight không chứng giải được khía cạnh này của kinh nghiệm kitô.

 

2. Kitô học phải trung thành với cung cách Kinh Thánh  nói về Đức Giêsu. Thiết tưởng là cần phải lấy toàn bộ Tân Ước làm qui phạm; và để được  coi là chính đáng, thì một nền Kitô học cần phải biết  lưu tâm đến chứng từ của Tân Ước, không được bỏ sót một phần trọng yếu nào. Nói cho đúng ra, hình thái  Kitô học nổi bật nhất trong Tân Ước dường như không phải  là Kitô học Ngôi Lời, cũng chẳng phải là  Kitô học Thần Khí, mà là một nền Kitô học đặt cơ  sở trên sự kiện làm “Con Thiên Chúa.” Đâu  đâu trong Tân Ước cũng thấy nói đến một cách minh nhiên  hay là ám thị, đến sự kiện Đức Giêsu là Con Thiên  Chúa. Tuy nhiên Đức Giêsu không chỉ là một trong những  người con của Thiên Chúa, giống như bất cứ một tín  hữu nào khác, nhưng là “Con yêu dấu” của  Thiên Chúa (Mt 3,17), “Con riêng của Thiên Chúa”  (Rm 8,3); Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta nên đồng  hình đồng dạng với Người Con này (Rm 8,29), là “Con  Một từ nơi Cha” (Ga 1,14; 3,16). Phaolô rao giảng  “Tin Mừng về Con của Người (Thiên Chúa)”  (Rm 1,3), Người Con đã từng hợp lực cọng tác vào  trong công trình tạo dựng vũ trụ (thí dụ 1Cr 8,16; Cl 1,15-17;  Dt 1,2; Ga 1,3).

 

Đúng là trong thực tế, Kitô học Ngôi Lời đã từng  làm cho một vài người, như Apollinaris chẳng hạn,  đi đến chỗ quan niệm về Đức Giêsu theo lối nhìn của  nhất tính thuyết (monophysite), không phù hợp với  Tân Ước. Nhưng lập trường này cũng chẳng phù  hợp gì với Kitô học Ngôi Lời theo Gioan. Thánh nhân coi  là “phản Kitô” những ai không chịu chấp  nhận sự kiện “Đức Kitô đã đến trong xác phàm”  (1Ga 4,2.3). Không nhất thiết là Kitô học Ngôi Lời  phải tất yếu đưa tới những lập trường không phù  hợp với các cứ liệu trong Tân Ước. Có thể xảy ra là  một trực giác phong phú và màu mỡ (như trường  hợp Kitô học Ngôi Lời) lại sinh sản ra một vài  thứ cỏ dại mà chỉ cần bứt tỉa đi, rồi tu chỉnh và  bổ khuyết lại là đủ. 

Công nhận là trong Tân Ước có nhiều hình thái Kitô học  khác nhau; tuy nhiên, tôi không chấp nhận được quan điểm cho  rằng Tân Ước trình bày những hình thái Kitô học tương  trừ lẫn nhau, chỉ vì mâu thuẫn với nhau. Chấp nhận  một số hình thức biểu đạt chẳng có nghĩa là phải  loại bỏ các hình thức khác. Không phải lúc nào  cũng có thể tìm ra được cách thức để dung hòa các  hình thức biểu đạt ấy; nhưng đó là như một dịp mời  gọi đi tìm cho ra điều mà Lonergan gọi là “một quan  điểm cao hơn,” [3] tức là một viễn ảnh khả dĩ xếp đặt  các hình thức biểu đạt có vẻ đối nghịch nhau vào trong  một mối hiệp đồng thực sự hợp lý có sức nối kết chúng  lại với nhau.

 

Theo thiển ý của tôi, dường như Haight đã không  lưu ý cho đủ đặc biệt là đến mẫu thức Kitô học  theo thánh Gioan. Không những vì Haight bỏ quên giáo  huấn của Gioan về vai trò mà Lógos đã  từng cùng với Thiên Chúa đóng giữ trong công trình  tạo dựng (Ga 1,1-3), cũng như quên đi lời Gioan khẳng  định về sự việc Lógos đã nhập thể (Ga 1,14), mà  còn vì đã không để ý gì đến những lời của  chính Đức Giêsu quả quyết trong Tin Mừng theo Gioan,  nói rằng Ngài “chính là Ta” (egồ eimi ).  Khi lý luận chống lại một “Đức Giêsu tiền hiện hữu,”  Haight có vẻ như lẩn quẩn lặp lại một chuyện bằng thừa:  trước khi sinh ra, con người Giêsu đã không hiện hữu  như là con người (78). Không ai đi hiểu cuộc tiền hiện  hữu theo kiểu như thế bao giờ cả; thế thì tại sao  lại phải mệt nhọc bác bẻ lại? Nhưng theo Gioan, thì  Đức Giêsu đã nói là: “Trước khi có Abraham, thì  Ta, chính là Ta” (Ga 8,58). Ngài cũng đã cầu  nguyện như thế này: “Lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn  vinh Con nơi Cha, trong vinh quang mà Con được hưởng bên  Cha trước khi có thế gian” (Ga 17,5). Những lời tuyên  bố như thế là để bỏ sót cho rơi vào quên lãng  hay sao?

 

3. Cũng đồng ý nữa là Kitô học có bổn phận phải  trung thành với giáo lý của các công đồng về Kitô  học, đặc biệt là của hai công đồng Nixêa và Canxêđôn.

 

Đúng, công đồng Nixêa đã không trực tiếp minh định sự  việc Ngôi Lời nhập thể, vì cả Ariô lẫn Athanasiô  đều đồng ý về điểm ấy. Dù sao, thì cũng vẫn phải  nhận là chính giáo huấn của Gioan 1,14 đã làm  cho họ đồng ý với nhau. Công đồng Nixêa và cả toàn  bộ truyền thống kitô giáo sau đó, đã coi đó là một  lời xác minh trọng yếu và đầy ý nghĩa. Dường như  tác giả Haight đã không nghĩ như vậy. 

Hình như căn cớ chính làm phát sinh ra lạc giáo Ariô không  phải là lạc thuyết phụ thuộc (subordinationism) tiềm ngụ ở trong tước hiệu “Lời,” song là  ở trong tước hiệu “Con”: Một người con thì không  thể có cùng số tuổi như cha mình được; Ngôi Cha phải  có trước khi sinh Con ra, vì thế đã có một thời Con  chưa có. 

Nói rằng Nixêa chỉ muốn khẳng định về sự việc Đấng hiện  diện và hoạt động trong Đức Giêsu thì không kém thua gì  Thiên Chúa, là không biết đánh giá cho đúng về những  gì công đồng đã làm. Vì lời khẳng định đó cũng  đúng đối với mọi người lành thánh: nơi họ, cũng  có Đấng không kém thua gì Thiên Chúa hiện diện và hoạt  động. Chúa Thánh Linh cư ngụ trong mỗi một người chúng  ta, trong cộng đồng Hội Thánh, và Thiên Chúa hoạt động  trong mọi việc tốt lành chúng ta làm: quoties bona  agimus, Deus in nobis atque nobiscum, ut operemur, ope-ratur (mỗi khi chúng ta làm điều thiện, thì trong chúng ta  và với chúng ta, Thiên Chúa tác động làm cho chúng  ta làm), như công đồng Orange II đã tuyên bố (DS  379). 

Vì mọi phía đã đồng ý về sự việc Ngôi Lời nhập thể,  nên chủ định của công đồng Nixêa là khẳng định  rằng Đấng chủ động trong các hành động của Đức  Giêsu, tức là Người Con tiền hiện hữu, thì không  thua kém chi Thiên Chúa.

 

Đúng, công đồng Canxêđôn đã thực sự quan tâm đến việc  dạy giáo lý về nhân tính trọn vẹn của Đức Giêsu, và  dạy rằng Ngài là homoousios(đồng bản tính)  với chúng ta. Nhưng điều mà công đồng đã trực tiếp  quan tâm đến trước hết, chính là lo làm sao để đem  lại hòa khí trong Giáo hội bằng cách tìm cho ra một công  thức khả dĩ dung hợp được những chủ trương chính  đáng của cả hai hình thái Kitô học, tức là Kitô  học “Lời-Xác Phàm” [Alêxanđria] và Kitô  học “Lời-Con Người,” [Antiôkia], mà vẫn  tránh được các lập trường cực đoan cả của phe  Nhất tính thuyết lẫn của phe Nestôriô. Những lời  khẳng định (bằng chữ nghiêng dưới đây) trong công  thức tuyên tín của Canxêđôn rõ ràng là ngược  hẳn với hình thái Kitô học Thần Khí mà Haight chủ  trương; công đồng viết:

 

“Theo sát gót các thánh Giáo Phụ, chúng tôi  tất cả đều đồng tâm nhất trí dạy rằng [phải] tuyên  xưng đức tin vào một Người Con duy nhất là chính  Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Chúng tôi tuyên xưng rằng  Ngài là hoàn chỉnh trong thiên tính cũng như  trong nhân tính của mình, là Thiên Chúa thật và  là con người thật cấu thành do linh hồn lý tính  cùng thể xác, đồng bản tính với Đức Chúa Cha trong  thiên tính của mình, còn trong nhân tính, thì đồng bản  tính với chúng ta, và giống chúng ta về mọi mặt, ngoại  trừ tội lỗi (Dt 4,15). Chúng tôi tuyên xưng rằng  theo thiên tính, Ngài sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước  muôn đời , và trong thời sau hết này, vì chúng  ta và để cứu rỗi chúng ta, Ngài đã sinh ra  theo nhân tính, bởi Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.  Chúng tôi tuyên xưng rằng chính cùng một Đức Kitô  ấy, Con Một và là Đức Chúa, phải được nhìn nhận  là hiện hữu trong hai bản tính không trộn lẫn  với nhau hoặc đổi thay [lời khẳng định chống lại chủ  trương cực đoan của phái Kitô học “Lời-Xác Phàm” =nhất  tính thuyết], không phân chia hoặc phân rẽ [lời  khẳng định chống lại các khuynh hướng cực đoan trong phái Kitô  học “Lời-Con Người” =Nestôriô]; và rằng sự việc  chúng kết hợp thành một không mảy may triệt tiêu  đi sự khác biệt giữa hai bản tính, nhưng trái lại,  mỗi bản tính vẫn duy trì nguyên vẹn đặc tính cá  biệt của mình, cũng như chúng kết hợp làm một  với nhau trong cùng một bản ngã (person) duy nhất  và trong cùng một ngôi vị (hypostasis) duy nhất . Chúng  tôi tuyên xưng rằng Ngài không bị phân tách hoặc phân  chia ra làm hai ngôi vị, song chỉ có chính một Người  Con Một duy nhất ấy mà thôi, tức là Thiên Chúa Ngôi  Lời, là Đức Chúa Giêsu Kitô . Đó là điều mà  ngay từ đầu, các tiên tri đã dạy về Ngài; đó  là điều mà chính Đức Kitô đã đích thân dạy cho  chúng ta biết; và đó cũng là điều mà qua bản  tuyên tín, các Giáo Phụ đã truyền đạt lại cho chúng ta.”[4]

 

Canxêđôn không nghĩ là đã dạy một điều gì khác ngoài  giáo huấn của Ephêsô, nhưng chỉ muốn giải thích Ephêsô  cho rõ hơn, bởi vì phe nhất tính thuyết đã đề ra  những lối giải thích theo kiểu riêng của họ. Cả  Canxêđôn nữa cũng đã gọi Đức Maria bằng tước  hiệu theotókos (Mẹ Thiên Chúa), một tước hiệu không  thể có được nếu không có sự việc chuyển thông đặc tính  (communicatio idiomatum ) giữa hai bản tính trong  Đức Giêsu — đó là một phép ngữ học mà Tân  Ước cũng thường dùng đến. Đã đành là  giáo huấn của Canxêđôn chịu ảnh hưởng của  hoàn cảnh lịch sử thời đó, và công thức  “hai bản tính, một ngôi vị” còn có thể được  cải thiện cho hoàn hảo hơn. Tuy nhiên, theo tôi  nghĩ thì không được đi tìm việc cải thiện ấy với một thái  độ thiếu kiên định, buông rơi, không chịu nắm vững và  nhìn nhận những gì công đồng đã chủ tâm truyền  dạy một cách minh nhiên, trong và qua công thức trên đây.

 

Ở đây, còn có một điểm quan trọng khác nữa,  đó là Giáo hội học Thần khí. Những gì đức tin  Hội Thánh hằng tin nhận và tuyên xưng ra một cách coi  như là phổ quát nhất trí, suốt trong nhiều thế kỷ,  thì đó chính là những gì Thánh Linh chỉ dạy cho Hội  Thánh tuyên xưng. Cần phải cẩn trọng trong việc áp dụng  nguyên tắc này, bởi vì, có thể là những nước  sơn văn hóa hào nhoáng bên ngoài sẽ được coi như  là một thái độ tuyên xưng đức tin, dù chẳng phải  là thế; chẳng hạn như là quan niệm trọng nam hơn nữ,  gặp thấy nơi các Giáo Phụ. Tuy nhiên, việc Hội Thánh đồng  tâm nhất trí tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, như hai công đồng Nixêa và Canxêđôn đã tuyên dạy, thì  không thể hủy bỏ đi được, và cũng không thể  giải thích làm cho điểm cốt tủy ấy mất hết ý  nghĩa đi được.

 

4. Tôi cũng đồng ý rằng Kitô học phải trình bày  làm sao cho dễ hiểu và cho có mạch lạc; nhưng thế  nào đi nữa thì cũng cần phải phân biệt, như  chính thánh Phaolô đã làm, giữa sự khôn ngoan của  thế gian và sự điên rồ của Thiên Chúa (1Cr 3,19).  Một lần nữa, xin nói lại cho rõ là đó là  một việc làm lắm lúc tế nhị và phức tạp khó khăn.

 

Tôi nghĩ rằng lập trường của Haight có mạch lạc và  nhất quán trong nội cục đề cương của nó, nhưng lại không  ăn khớp với kinh nghiệm của đại đa số các kitô hữu,  không phù hợp với giáo huấn của Tân Ước, cũng  như không trung thành với các công đồng của Giáo hội  và với Đại Truyền Thống nói chung. 

5. Một nền Kitô học hiện đại có bổn phận phải ứng đáp  thích đáng cho hiện trạng và các vấn đề chúng ta đang  gặp phải. Dù không thể minh giải cho hết được  tất cả những điều vừa nói, thì tôi cũng nhận  ra được ít nhất là ba điều kiện quan trọng đặt ra cho Kitô  học và cho thần học nói chung: (1) cần phải nhìn nhận  ảnh hưởng của điều kiện lịch sử; (2) trong nỗ  lực tìm hiểu về đức tin, không thể chỉ đơn thuần dựa theo  cách biểu đạt thần thoại hay ẩn dụ được; và (3) cần  phải lấy thái độ tích cực mà nhìn nhận và đánh  giá thực trạng đa dạng tôn giáo của thời đại này.

 

Haight nhận xét đúng khi nói rằng ngày nay, việc nhìn nhận  hiện trạng đa dạng tôn giáo trong thế giới là một thách  đố đặc biệt đặt ra cho Kitô học. Điều đó làm cho Haight  kết luận rằng không những cần phải chấp nhận Thiên  Chúa như là Thần Khí đang hoạt động nơi các tôn giáo lớn  khác (87) — như Vaticanô II xem ra đã khẳng định trong  phần đầu của tuyên ngôn Nostra Aetate ,  [5] và như Đức Gioan Phaolô II đã  phát biểu một cách rõ ràng hơn nữa, trong thông  điệp Redemptoris missio [6] — mà còn cần phải chấp nhận  nữa là “có thể có nhưng nhân vật cứu độ khác  ngang cương vị [với Đức Giêsu]”(85). Điểm nhận định này  làm như hủy hoại đến tận gốc rễ sứ mạng của  Giáo hội, được biểu thị rõ qua Mt 28,19-20: “Vậy anh  em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ  nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh, dạy bảo  họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”

 

Theo kinh nghiệm kitô, Đức Giêsu là Chúa, Đấng làm  trung gian cho hoạt động cứu độ của Thiên Chúa, là  hiện thân lòng Thiên Chúa yêu thương, là quyền năng  và là khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện ra trong  thế giới. Thiên Chúa đã chiếm hữu cuộc sống con người  cụ thể này làm của riêng mình đến độ trong và  qua cuộc sống ấy, Ngài hành động thực sự và một  cách chung quyết, nhằm mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu cho toàn  thể nhân loại.

 

Tuy nhiên, cũng cần phải công nhận rằng hành động  cứu độ của Thiên Chúa thu hút con người đến với Ngài  qua một cuộc đời sống trong tình yêu xả kỷ vị tha,  vẫn hằng tiếp tục diễn ra khắp nơi trong nhân loại,  và ở đâu cũng có những người đáp ứng  lại hành động hối thúc ấy với những mức độ trung  thành nhiều ít khác nhau. Hơn nữa, cũng phải  nhìn nhận rằng Thiên Chúa khôn ngoan nhân hậu có thể tuyển  chọn cách đặc biệt, một số cá nhân để làm khí cụ đem  ánh sáng và sức trợ giúp của Ngài đến cho những  người khác. Những cá nhân này là những  vị thủ lãnh tôn giáo gặp thấy tại khắp nơi và  trong mọi thời. Đó không phải là những đặc  quyền dành riêng cho người kitô, và không nhất  thiết người kitô là những người sẽ đáp  ứng lòng mong muốn của Thiên Chúa bằng một cuộc sống  trung thành hơn những người khác.

 

Tuy nhiên, Thiên Chúa hằng gióng lên một lời kêu mời  đặc biệt gửi đến cho thế gian qua sứ mạng của Con  Ngài, là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu không phải  đơn thuần là một tiên tri, một bậc thầy có tầm thấu  hiểu về mầu nhiệm Thiên Chúa sắc bén và sâu rộng hơn,  mà là chính hiện thân của Thiên Chúa tự mạc khải;  không ai có thể trổi vượt hơn Ngài được về mặt sung mãn,  cường độ và quyền năng cứu độ. Có liên kết với  con người Đức Giêsu và với sự nghiệp của Ngài,  thì mọi ân huệ khác Thiên Chúa ban, mới đạt được đến mức  thành tựu toàn vẹn. Đó chính là điều nói lên  lý do hiện hữu của hoạt động truyền giáo của  Giáo Hội, và cùng lúc cho thấy là cần phải  biết tôn trọng những gì Thiên Chúa thực hiện qua những  cách thức và đường lối khác.

 

6. Sau hết, tôi cũng đồng ý với điều kiện cuối cùng  của Haight: Kitô học phải có khả năng kích cảm  và tăng cường đời sống kitô. Xin thú thật tôi  không tin là Kitô học Thần Khí tự nó có thể làm  điều đó mà không nhờ đến Kitô học Con Thiên Chúa.  Ít ra đối với tôi, nếu chỉ chiêm ngắm một Đức Giêsu đơn  thuần là người không thôi cho dù trong con  người ấy, Thần Khí có hoạt động đến một mức độ tràn  đầy thì tôi sẽ cảm thấy buồn vô hạn và  mất mát vô cùng: bởi vì, nếu vậy, thì có nghĩa là  Thiên Chúa chưa yêu thương chúng ta đủ để làm một  người đồng chủng với chúng ta, và để chết cho chúng ta. Nhưng, Haight cho là một Đức Giêsu như ông miêu  tả, thì dễ cho chúng ta noi theo, bắt chước hơn. 

Kinh Thánh cả Cựu lẫn Tân Ước đều khích lệ cho chúng  ta noi gương bắt chước Thiên Chúa: “Hãy là thánh,  vì Ta là Thánh, Ta, Yavê Thiên Chúa của các ngươi!”  (Lv 19,2). “Hãy nên trọn lành như Cha các ngươi ở  trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Vì đã  trở thành một người đồng chủng với chúng ta,  nên Con Thiên Chúa đã vén mở cho chúng ta hiểu về  ý nghĩa của các lời kia, và vì đã thông chia  cho chúng ta Thần Khí của mình, nên Con Thiên Chúa cũng  làm cho chúng ta có được khả năng để noi theo gương  Ngài.

 

Đối với tôi, tính chất liên tục (continuity) chính là  qui tắc căn bản của đức tin công giáo: không phải  là liên tục trong những ngôn từ hay là trong  những công thức biểu đạt, mà là trong tư tưởng  và trong chủ định. Lúc khai mạc công đồng Vaticanô  II, Đức Gioan XXIII đã đưa ra một nhận định về cách thức  phân biệt giữa bản chất của đức tin cổ truyền  và các công thức biểu đức tin ấy; và từ đó lề  lối phân biệt như thế đã trở thành kinh điển.  Tôi xác tín rằng chính Thánh Linh Thiên Chúa làm cho đức  tin có được tính chất liên tục như thế. Và đây là  một đặc tính khác mà một nền thần học thực sự công  giáo phải có: tính chất bao hàm toàn  diện (comprehensiveness), tức là một lập trường đón  nhận cả/lẫn , thay vì chủ trương lựa chọn hoặc là/hay là . Tôi hoàn toàn chấp nhận  Kitô học Thần Khí, nghĩa là nhìn nhận rằng Thánh Linh,  với sức năng toàn vẹn của thiên tính, đã hoạt  động trong Đức Giêsu; nhưng đồng thời, tôi cũng chấp  nhận Kitô học Ngôi Lời. Và rốt cuộc, đối với tôi, điểm cốt tủy — điểm mà tôi không nghĩ là chỉ  có tính cách tự do đối với các lập trường thần học,  song là một tín điều — nằm trọn ở chỗ Đức  Giêsu Kitô chính là Con của Thiên Chúa, Con hằng hữu  đã làm người — và dù có biểu đạt bằng  một thứ ngôn từ nào đi nữa, thì chân lý vẫn  là thế.

 

 John H. Wright, S.J.[1]

 

[Người dịch: Felipe Gómez Ngô Minh, HTTH SỐ 7, NĂM THỨ BA (1993)]