Những bài suy niệm Tam Nhật Thánh

Thứ Năm

 

Ga 13,1-15

 Ai trong chúng ta cũng đã nhìn thấy bức ảnh “Bữa Tiệc Ly”, nhưng nguồn gốc lai lịch thì ít ai biết. Bức ảnh “Bữa Tiệc Ly” do ông Leonard de Vinci vẽ. Ông là một họa sĩ đai tài của nước Ý. Ông là một trong những họa sĩ đã vẽ những họa phẩm tôn giáo nổi tiếng của Giáo Hội.

Bức ảnh Tiệc Ly ông Vinci phải vẽ nhiều năm mới hòan thành. Để vẽ Chúa Giêsu ngồi ăn tiệc với các môn đệ, ông phải đi tìm một người có khuôn mặt tương xứng với khuôn mặt thánh thiện hiền từ của Chúa. Ông ra ngòai đi tìm. Ong vào các nhà thờ và ông gặp được một người thanh niên. Người thanh niên có khuôn mặt thánh thiện và hiền lành gần giống của Chúa.

Ảnh Chúa họa sĩ Vinci đã vẽ xong, các tông đồ khác dần dần cũng xong, chỉ còn ông Giuđa ông chưa vẽ được. Để vẽ ông Giuđa, ông cũng phải ra đường tìm người làm mẫu. Ông vào các quán nhậu, các vũ trường, các nơi tội lỗi, và ông đã tìm được một người  có khuôn mặt thật xấu xí, thật dữ tợn, thật đểu cáng, để làm mẫu cho ông vẽ ông Giuđa. Khi vẽ gần xong ông Giuđa, người làm mẫu lên tiếng nói với họa sĩ : “Trước đây tôi đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ rồi !” Họa sĩ  Vinci ngạc nhiên hỏi : “Thật không ?”. Người làm mẫu qủa quyết : “Thật mà ! Tôi đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ Chúa Giêsu” (William Barclay, The Gospel of John, vol.I, p.227-228).

 

***

 

BTM thánh lễ hôm nay nói về Bữa Tiệc Ly, bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với  12  tông đồ. Trong bữa ăn này, Chúa Giêsu đã nói về việc ông Giuđa bán Chúa. Bữa Tiệc Ly đã được họa sĩ Leonardo da Vinci, người Italia, vẽ thành bức tranh rất nổi tiếng.

Bức tranh “Bữa Tiệc Ly” hầu như ai  cũng biết. Tấm ảnh thường được vẽ lại hay được trưng bày trên bàn thờ, có khi được treo trong phòng ăn của gia đình.

Họa sĩ Leonardo vẽ bức tranh trong vòng 7 năm. Khó khăn nhất là đi tìm người mẫu để vẽ Chúa Giêsu và ông Giuđa.

Họa sĩ phải  đi đây đi đó, phải lựa chọn giữa cả ngàn thanh niên, mới tìm được người làm mẫu cho họa sĩ vẽ Chúa Giêsu. Đó là một thanh niên, khuôn mặt của chàng toát lên sự hiền lành, thánh thiện.  Qua người thanh niên, họa sĩ đã vẽ Chúa Giêsu suốt 6 tháng mới xong. Tiếp tới là 11 tông đồ. Họa sĩ mất gần 5 năm mới vẽ xong 11 tông đồ.

Sang năm thứ bảy, họa sĩ  bắt đầu vẽ ông Giuđa. Tìm người mẫu vẽ ông Giuđa cũng khó khăn, không khác gì tìm người mẫu vẽ Chúa Giêsu. Ông được giới thiệu một người tù đang bị giam trong trong nhà tù ở Rôma. Từ thành phố Milanô ông đến thủ đô Rôma. Vào nhà tù, ông nhìn khuôn mặt người thanh niên, ông đồng ý ngay. Khuôn mặt tóat lên đầy đủ những nét mà ông cần, để vẽ khuôn mặt Giuđa. Đó là một khuôn mặt hám lợi, lừa lọc, đạo đức giả, tàn ác. Ông được phép đặc biệt của nhà nước Rôma đem về làm người mẫu. Ông mất cả năm mới vẽ xong ông Giuđa.

Bút vẽ hạ xuống bàn, Họa sĩ Leonardo da Vinci nói với các người lính bảo vệ :

–  Các anh hãy đem anh này về nhà tù lại.

Lính bảo vệ lôi anh đi.

Anh xin được đến từ biệt họa sĩ . Anh quì xuống dưới chân họa sĩ khóc nói :

–  Thưa ngài Leonardo da Vinci, hãy nhìn con đi. Ngài không nhận ra con sao ?

Gần một năm qua, ông ngắm nghía anh cả hàng triệu triệu lần, để vẽ ông Giuđa. Ông chỉ thấy đó là nét mặt đểu giả của một người tù. Ông nói :

–  Không, ta không nhận ra anh là ai. Anh là người tù ở Rôma. Anh phải trở lại nhà tù !

Người tù rú lên :

– Ngài Vinci, ngài hãy nhìn kỹ con đi. Con chính là người mà 6 năm trước đã làm mẫu cho ngài vẽ Chúa Giêsu.

Cả phòng vẽ ngạc nhiên. Khi nhận ra, mọi người đều khóc.

6 năm trước, người thanh niên là người thánh thiện đạo đức, xứng đáng làm người mẫu vẽ Chúa Giêsu. Chỉ 6 năm sau, sống trong tội lỗi anh trở thành một người tù, một người độc ác, để làm mẫu vẽ ông Giuđa !

Ôi tội lỗi ! Tội lỗi đã phá hủy con người từ thân xác đến tâm hồn.

Nhưng, đội ơn Chúa, Chúa đã chết để xóa tội cho chúng con.

(Đinh Tất Quý, Lời Chúa & Cuộc Sống, Mùa Chay & Phục Sinh, trang 151)

 

***

 

Hôm nay Thứ Năm Tuần Thánh. Chính ngày hôm nay, Chúa Giêsu ăn Bữa Tiệc Ly với các tông đồ. Ba sách Tin Mừng Mt, Mc và Lc đều tường thuật Bữa Tiệc Ly này; chỉ trừ có sách TM của thánh Gioan là không. Nhưng thay vào đó, thánh Gioan tường thuật việc Chúa rửa chân.

Rửa chân là công việc của người dưới làm cho người trên, của nô lệ với chủ, của vợ với chồng, của con trai con gái với cha mẹ.

Khi rửa chân, Chúa Giêsu cởi áo ngòai ra, chỉ mặc áo trong, rồi lấy khăn thắt lưng, tức là mặc theo kiểu đầy tớ, kiểu nô lệ. Chúa Giêsu hạ mình làm đầy tớ, làm nô lệ để rửa chân các tông đồ.

Đối với thánh Gioan, rửa chân không chỉ có nghĩa là khiêm nhường, mà còn có nghĩa là phục vụ, phục vụ cho đến chết…..

Trong việc rửa chân, thánh Gioan đã viết về Giuđa : “Ma qủi đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giêsu” (Ga 13,2). Ma qủi tức là tội lỗi. Tội lỗi không thể hạ mình khiêm nhường, không thể phục vụ, không thể yêu đến chết được. Tội lỗi như Giuđa chỉ lừa thầy phản bạn mà thôi.

Còn khi đến rửa chân cho thánh Phêrô, thánh Phêrô xin rửa cả chân, cả tay, cả đầu nữa, thì Chúa Giêsu nói : “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa, tòan thân người ấy đã sạch” (Ga 13,10). Theo phong tục người Do Thái, trước khi đi ăn tiệc, người ta tắm. Tới nhà đãi tiệc chỉ việc rửa chân thôi. Tắm mà Chúa nói ở đây có nghĩa là phép rửa tội. Một khi tội lỗi đã được tầy sạch thì người đó sẽ có lòng khiêm nhường, có tinh thần phục vụ và yêu thương cho đến chết.

Hóa ra cũng một người, khi thánh thiện thì gống Chúa Giêsu, khi tội lỗi thì giống Giuđa.

 

*** 

 

 

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

 

 

Xh 12,1-14

1Cr 11,23-26

Ga 13,1-15

 Sách Tin Mừng thánh Gioan không tường thuật lại việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Thánh Gioan theo một lịch khác với các sách Tin Mừng Nhất lãm. Ngài đặt lễ Vượt Qua vào chiều thứ sáu, sau việc Chúa chết. Bữa tiệc cuối cùng Chúa dùng với các môn đệ, theo Nhất lãm, là bữa tiệc Vượt Qua; song theo thánh Gioan chỉ là bữa tiệc chia ly, dầu bầu khí là lễ Vượt Qua.

Thánh Gioan kể lại câu chuyện không có trong các sách Tin Mừng khác : đó là việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Lời dẫn đầu thực là quan trọng : thánh Gioan dùng làm lời dẫn nhập cho cả chương cuối của tập sách. Thánh Gioan viết vắn tắt một vài lời : “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian, mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Đó là lời loan báo tử nạn.

Giọng điệu long trọng suốt cả những dòng chữ sau đó, vì thánh sử muốn làm nổi bật sự đối chọi giữa sự cao cả của Chúa Kitô khi trở về với Chúa Cha để trở thành Chúa của mọi sự và cử chỉ hạ mình lạ thường mà Chúa sắp thực hiện.

Cử chỉ có một không hai có tính cách tiên tri, vì các ngôn sứ dùng những cử chỉ mắt thấy tai nghe để diễn tả sứ điệp. Theo cách biểu tượng, Chúa Giêsu sắp sửa bày tỏ ý nghĩa Người ban khi chết. Người ta hiểu rằng tác gỉa sách Tin Mừng thứ tư lưu giữ cử chỉ này, một cử chỉ giầu dấu hiệu.

Một trật tự mới : Một trong ý nghĩa đầu tiên Chúa Giêsu ban khi chết là ý nghĩa của một tạo dựng mới. Sự hy sinh của Người sắp khai mở một sáng tạo mới, thiết lập một trật tự mới, ở đó các giá trị bị đảo lộn, các thứ bậc mang một ý nghĩa khác : không bị bãi bỏ (“Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì qủa thật, Thầy là Thầy, là Chúa”- Ga 13,13), nhưng sắp đặt lại để phục vụ : ý nghĩa của bác ái. Thế giới mới sẽ là thế giới của Tình yêu, của tình yêu nhau, của những cử chỉ thường tình nâng đỡ nhau (sau khi đã làm gương, Chúa Giêsu đã cắt nghĩa).

Trong cuộc tạo dựng một nhân loại mới mà Chúa Giêsu sắp tái tạo bằng sự hy sinh, người ta khám phá ra, như khởi đầu, sự hiện diện của Satan; Satan đã xâm chiếm tâm hồn của Giuđa (13,2). Trong cảnh rửa chân, có một hậu cảnh bi thương mà thánh sử đã không ghi lại. Có lẽ, chiều hôm đó, ông Giuđa đã tách mình ra khỏi một ông thầy đã có khả năng hạ mình xuống thấp như thế.

Dấu hiệu của một đầy tớ : “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng” (13,4). Người đã mặc trang phục của một nô lệ.

Việc này như muốn căn dặn hàng lãnh đạo tôn giáo rằng người ta thường né tránh cảnh nô lệ của Israel thuở ban đầu, một công việc nặng nhọc và hèn hạ như “cởi giầy hay rửa chân cho ông chủ “ (Lv 25,39-40).

Chúa Giêsu là Thiên Chúa, “Người đến từ Thiên Chúa và trở về với Thiên Chúa”, bằng lòng hoàn thành công việc của một tên thấp hơn cả nô lệ : “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,27).

Chúa Giêsu hiện diện như một đầy tớ. Phải chăng là để cho các môn đệ nhớ đến những bản văn của Isaia và về số phận thương đau của người Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa ? Phải chăng để các môn đệ hiểu rằng việc hạ mình này là khởi đầu của những việc hạ mình khác ?

Cõi lòng trong sạch : Trong một đất nước mà thường người ta đi chân không hay đi dép, thì dấu hiệu của việc đón tiếp thân tình đối với vị khách đến nhà là cho một nô lệ rửa chân cho ông, để ông không còn bụi bặm bám trên đường đi.

Chúa Giêsu làm công việc này giữa bữa tiệc. Qua đó cho thấy rằng Người muốn trao ban một ý nghĩa khác khi rửa những dơ bẩn phần xác. Người nói rõ ràng với thánh Phêrô : “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13,8). Người rửa chân để cõi lòng được trong sạch, một sự trong sạch mà con người chỉ có thể nhận được bởi chính Chúa, lòng trong sạch đến từ Thiên Chúa, Thiên Chúa có sáng kiến trước. Sự trong sạch này là hoa qủa của việc Chúa hy sinh. Người mang lại sự trong sạch cho loài người, khi Người lấy máu mình rửa tội lỗi của nhân loại. Về sau thánh Phêrô mới hiểu. Đó là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn trao ban cho các môn đệ khi Người chết.

Dấu hiệu của việc sai đi : Với các môn đệ của mình, những người lo toan tìm chỗ nhất và muốn biết ai là người lớn nhất trong họ, thì Chúa Giêsu đã ban cho các ông bài học khiêm hạ này.

Nhưng đồng thời, khi tự hạ trước mặt các ông, Chúa Giêsu còn muốn làm cho các ông cảm nhận được phẩm giá của các ông, làm cho các ông hiểu được nhiệm vụ cao cả đang chờ đợi nơi các ông : Chúa Giêsu rửa chân cho những người sắp trở thành những người đem Lời của Người, những người sắp đi đó đây để gieo vãi Tin Mừng : các ông là những sứ giả của Người.

Làm sao không nhớ đến bản văn của ngôn sứ Isaia, nơi  từ “Tin Mừng” xuất hiện lần đầu tiên : “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xion rằng : ‘Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị’” (52,7).

Thánh Phaolô, trong thư Rôma, khi nhắc lại vấn đề loan truyền Tin Mừng, đã lấy lại kiểu nói của ngôn sứ (10,15).

 

 

Dấu hiệu của lễ Vượt Qua : Cuối cùng việc rửa chân được đặt trong bầu khí Vượt Qua. Dĩ nhiên, trong sách Tin Mừng thứ tư, bữa tiệc ly không được trình bày như là lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, bầu khí của chiều hôm ấy rõ ràng là lễ Vượt Qua. Ngay từ đầu thánh sử đã viết : “Trước lễ Vượt Qua” (13,1), trong khi giờ đã đến với Chúa Giêsu “giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” (13,1). “Vượt Qua” có nghĩa là sự vượt qua. Đó chính là “Lễ Vượt Qua”của Chúa mà Chúa Giêsu cử hành.

 

Đàng khác, ý nghĩa của câu chuyện này có tính cách mặc khải ; trong bữa tiệc, chủ gia đình làm những cử chỉ gợi nhớ cho người đồng bàn về những gì họ hỏi và trả lời để cắt nghĩa. Việc này đặc biệt nhắc lại diễn tiến của Lễ Vượt Qua của người Do thái.

Song sâu xa hơn, bối cảnh đằng sau là Phép Thánh Thể : mặc dầu không nhắc lại việc thiết lập, nhưng cử chỉ của Chúa Giêsu nói lên ý nghĩa thâm sâu của bí tích là bí tích của một Tình Yêu năng động, là qùa tặng cho con người. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu vừa là gương mẫu vừa là nguồn mạch.

 

 

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

 

Is 52,13-53,12

Dt 4,14;5,9

 

Ga 18,1-19,42

 

 Bài tường thuật thương khó theo thánh Gioan khác với các sách Phúc Am Nhất Lãm. Đây là những khác biệt :

Thánh Gioan không tường thuật cảnh lo buồn ở vườn Cây Dầu. Trước đó một chút, thánh sử đã nhắc đến một biến cố Chúa Giêsu xao xuyến khi thấy những người Hi Lạp đến gặp mình, mà đã được đọc trong chúa nhật thứ V Mùa Chay tuần trước.

 Chúa Giêsu tự nộp mình (18,1-3) : ông Giuđa, kẻ phản bội đi dầu toán lính. Chúa Giêsu tiến ra đứng trước mặt họ, chẳng đợi cái hôn chỉ điểm của Giuđa. Trước đó chẳng ai có thể bắt được Người : những người nhiệt thành muốn tôn Người làm vua (Ga 6,15), các thượng tế và Pharisêu sai lính đến bắt vào dịp lễ Lều (7,36.44-45), những người Pharisêu khi nghe Chúa ở trong Đền thờ (8,20), những người Do thái muốn ném đá (8,39; 11,39). Chỉ vì “Giờ của Người chưa đến”. Nay giờ đã đến. Chúa Giêsu chấp nhận, như trong nghi thức thánh hiến Đền thờ nhắc lại : “Người tự do đi vào cuộc thương khó”.

Chính tôi (4-6): – Các ngươi tìm ai ?  – Tìm Giêsu Nadarét. – Chính tôi !  Kiểu nói “tôi”, “tôi là” mà Chúa Giêsu dùng, thường có một thuộc từ đi theo, để nói lên tính siêu việt của bản thân và sứ vụ của Người. “Chính tôi là đường, là sự thật và là sự sống”, “chính tôi là mục tử nhân lành”, “chính tôi là cây nho đích thực”… Đôi khi Chúa Giêsu còn dùng kiểu nói tuyệt đối : “Trước khi có ông Abraham, tôi hằng hữu” (Ga 8,38). Đó là kiểu nói Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê (Xh 3,14). Chúa Giêsu không thay thế Chúa Cha, nhưng là tham gia vào thiên tính của Chúa Cha : “Cha tôi và tôi là một” (10,30). Khi nghe Danh Thiên Chúa, các kẻ thù lùi ra và ngã xuống đất. Kẻ chiến bại lại là kẻ chiến thắng.

Chúa cứu sống các môn đệ (7-9) : Chúa Giêsu tự nộp mình. Người chỉ muốn một mình người thôi. “Hãy để những kẻ này ra đi”. Người không dùng từ “môn đệ” để chúng khỏi bắt các ông. Người chỉ giơ tay, chúng phải vâng nghe. Chúa Giêsu là Đấng cứu thoát.

Tai bị chém (10-11) : Trong một cử chỉ thiếu khôn ngoan, có ý bảo vệ thầy mình, thánh Phêrô đã tuốt gươm chém tai đầy tớ của thượng tế. Cả bốn sách Tin Mừng đều kể câu chuyện này, nhưng chỉ có thánh Gioan cho biết thánh Phêrô là tác giả của hành động này và cho biết tên người đầy tớ là Malcus. Người ta nghĩ người đầy tớ này không phải là một người vô danh tiểu tốt, song là một đại diện đặc biệt của thượng tế có nhiệm vụ chỉ huy cuộc vây bắt này. Thánh Phêrô đã không lầm mà đi tìm một tên lính. Tai phải bị chém biểu thị một vết thương ô nhục. Chúa Giêsu đã can thiệp bằng cách nói với thánh Phêrô một lời, thay vì nói ở vườn Cây Dầu thì thánh Gioan đặt ở lúc này : “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống” (18,11). Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu rằng tất cả mọi chống cự đều vô ích, vì đó là ý của Chúa Cha mà Người phải chu toàn.

Chúa Giêsu bị trói (12) : theo thánh Gioan, Chúa Giêsu bị trói ngay lúc bị bắt. Còn theo thánh Matthêu và Maccô thì khi giải cho Philatô mới bị trói. Thánh Luca thì không nói gì.

Chúa Giêsu bị điệu đến Khan-na (13-23) : chỉ có thánh Gioan kể lại việc này. Ông Khanna là cựu thượng tế và là bố vợ của Caipha. Ông là thượng tế từ năm 6-15. Một trong những con trai của ông kế vị, nhưng chẳng được bao lâu (15-18). Tiếp đến là ông Caipha, con rể của ông, làm thượng tế cho tới năm 37. Rồi đến 4 con trai khác và một con trai của người cháu. Vì gia đình trị, nên ông có nhiều nhân chứng. Ông vừa có quyền về tôn giáo, vừa về chính trị và giàu có. Vua Hêrôđê Cả đã ghen tương về ảnh hưởng của các tư tế. Ông đã cho ám sát và gây nhiều tội ác với các gia đình tư tế.

Dường như Caipha ra lệnh điệu Chúa Giêsu đến nhà bố vợ của mình trước hết, để tỏ ý trọng vọng và vì uy tín của Khanna.

Chúa Giêsu bị tra hỏi về giáo thuyết. Chúa Giêsu đã kêu gọi những chứng nhân đích thực, những người có thể biến cuộc tranh luận này thành một vụ án thật sự, chứ không chỉ là một cuộc tranh luận đùa cợt của những con người tò mò. Chúa Giêsu kêu gọi “những người đã tụ tập ở các hội đường hay Đền thờ đã nghe Người, mọi người đã nghe sứ điệp của Người, làm nhân chứng cho Lịch sử.

Phải chăng Phúc Âm thứ tư hoàn toàn là một biến cố trong đó Chúa Giêsu phải đối mặt với những con người phải nhận mình là theo hay chống lại Người.

Chúa Giêsu trước tòa án Philatô (24-40) : thánh Gioan đã không tường thuật lại cuộc hội họp ở Thượng Hội Đồng, song ngài đã kể dài vụ án ở toà án Philatô. Với những yếu tố trình bày, thánh nhân đã làm nổi bật hoàn cảnh bi đát và nghịch lý. Hai quyền lực đối mặt nhau : một bên là Philatô, tức là Đế quốc Rôma, bên kia là Chúa Giêsu đến tữ trời cao và không có Người Philatô chẳng là gì; và hai công lý : công lý lưỡng lự và bất công của quan toàn quyền Rôma và công lý của Chúa Giêsu đọc được lương tâm con người và xét đoán cả vị quan tòa : “Kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (11).

Sau cùng là sự thật và dối trá đối mặt nhau. Chúa Giêsu nhận mình là phát ngôn viên của sự thật, là người mặc khải sự thật. Người tuyên bố nhiều lần : người là sự thật, sự thật đến từ Thiên Chúa.

Ở bên ngoài, những người Do thái tố cáo Người bằng cả sức mạnh của gian dối : “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan” (30), “Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xêda. Ai xưng mình là vua thì chống lại Xêda” (19,12).

Sự dối trá lên tới tột điểm : “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xêda” (19,15). Nhưng trong lòng họ thì khác. Họ chỉ nuôi hy vọng : có một người trong họ nổi dậy giải thoát khỏi ách Rôma. Nếu Chúa Giêsu là một người phản loạn, một người cách mạng, thì không đời nào họ nộp Người cho Philatô !

Nhưng trước khi xảy ra cuộc tranh luận, thánh sử đã cho thấy sự giả dối của họ : “Họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được” (18,28); trong khi đó Chúa Giêsu vào nhà của người không cắt bì đã bị ô uế. Như vậy người Do thái ác độc thì lại cho mình là vô tội !

 Suốt thảm kịch, Chúa vẫn luôn bình tĩnh. Trái lại, Philatô là con mồi của lo lắng, mất bình tĩnh. Thánh sử kể 3 lần quan tổng trấn đi ra đi vào : 3 lần đi ra hỏi ý kiến của Thượng Hội Đồng và dân chúng và 3 lần đi vào tra hỏi để biết tông tích nhiệm mầu của Chúa Giêsu.

Vấn đề chính của cuộc tranh luận, theo các sách Tin Mừng, là vấn đề chính trị : Chúa Giêu có phải là vua không ? Philatô không thể kết án Chúa, nếu câu trả lời không tích cực. Chúa Giêsu giải nghĩa : “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (18,36). Một vương quốc như thế không thể giống chút gì đế quốc Rôma. Philatô đã an tâm, song đám đông quấy động không nghe theo và đòi kết án Chúa Giêsu và tha Baraba.

Đánh đòn (19,1-13) : theo thánh Gioan, Philatô cho đánh đòn Chúa Giêsu, để có kết qủa khuyên can và làm cho người Do thái thương hại, Đánh đòn, đội mạo gai, mặc áo đỏ, lính tráng nhạo báng không phải diễn ra sau khi đã bị kết án như trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, song khi còn đang bị xét xử. Đó là một trong những nét khác biệt nổi bật.

Lý do làm vua là lý do đầu tiên của cuộc tranh luận, khiến đưa đến cảnh một ông vua bị nhạo báng bằng việc đội mạo gai làm cho máu chảy xuống mặt, và bằng việc mặc áo đỏ là dấu hiệu của chiến thắng.

Ông Philatô nói : “Đây là người” (19,5). Thánh Gioan là sử gia của việc nhập thể. Ngài không ngần ngại nêu ra cảnh rất hiện thực này, vì nó làm chứng Thiên Chúa làm người chấp nhận sự hạ mình tột độ. Nhưng bằng con đường đau thương, Con Người đạt tới vinh quang.

Tuy nhiên, các lãnh đạo hàng tư tế (thánh Gioan nêu họ ra một lần nữa) không sẵn lòng thương hại : “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá !” (19,6). Và vì lý do muốn làm vua đã không đủ làm lay động quan tổng trấn, người Do thái đưa ra một sự tố cáo khác : “Chúng tôi có Lề Luật, và chiếu theo Lề Luật thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa” (19,7). Lần này ông Philatô dao động. Ông bị dao động về một sự sợ hãi tôn giáo. Ông hỏi Chúa Giêsu : “Ông từ đâu mà đến” ? Chúa Giêsu đã không trả lời. Ông Philatô “từ đó tìm cách tha Người” (19,12).

Ông tổng trấn cố gắng đưa ra một sáng kiến khác để khuyên can. Ông đưa Chúa Giêsu “ngồi trên tòa, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Hípri là Gáp-ba-tha” (19,13). Ông nói : “Đây là vua các ngươi” (19,14). Ông chỉ nhận được những tiếng hô lớn : “Đem đi ! Đem nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá” (19,15). Và cả một lời đe dọa khích động đến Hoàng đế, khiến ông Philatô phải nhượng bộ, vì sợ bị tâu về Rôma và bị kết án là yếu đuối.

Ngày áp lễ Vượt Qua (19,14-24) : Đó là thứ sáu, ngày áp lễ Vượt Qua, quãng giữa trưa. Một chỉ dẫn thật qúi hóa. Trong sách Tin Mừng thánh Gioan, lễ Vượt Qua chính thức bắt đầu vào ngay chiều Chúa Giêsu chết (ngày được bắt đầu khi hoàng hôn).

Quãng giữa trưa Chúa Giêsu lên đồi Canvê. Người tắt thở vào 3 giờ, giờ các con chiên Vượt Qua bị giết nơi Đền Thờ. Ngài là Con chiên bị sát tế của lễ Vượt Qua mới.

Đóng đinh : Trong bản văn đóng đinh và Chúa Giêsu chết có ba điểm chỉ có nơi thánh Gioan :

–       Chi tiết về chiếc áo dài không đường khâu (23)

–       Những lời Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ (25-27)

     –    Lưỡi đòng đâm (31-37)

Ao dài không đường khâu : theo Luật, các áo của tử tội được phân phát cho các đao phủ. Có 4 đao phủ. Chúng chia làm 4 phần. “Họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới” (19,23).

Thánh Gioan đã đề cập đến sự kiện này, vì hình dáng của chiếc áo dài không có đường khâu là một việc bắt buộc phải làm trong phụng vụ đối với một thượng tế. Ông phải mang áo dài không đường khâu, khi cử hành lễ Xá tội cho toàn dân. Ngoài thư Do thái, đây là đoạn văn duy nhất trong Tân Ước nối kết Chúa Giêsu với chức thượng tế của Cựu Ước.

Chúa Giêsu và Đức Mẹ (19,25-27) : Trước khi tắt thở, Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ : “Thưa Bà, đây là con của Bà” (26). Những từ lạ tai. Như ở Cana, Chúa Giêsu nói với mẹ Người : “Bà…”. Rồi quay về phía môn đệ nói : “Đây là mẹ anh”(27).

Chúa Giêsu trao phó mẹ Người cho thánh Gioan. Ý định của Chúa Giêsu vượt qúa các nhân vật : hướng về Giáo hội. Nếu Người nói với mẹ Người : “” như ở Cana, chính vì Người nhắc lại ơn gọi vượt qúa tình mẫu tử của Đức Maria. Thánh Gioan là môn đệ duy nhất trung thành cho đến cùng : ông là tín hữu, là Giáo hội. Chính nơi tình mẹ thiêng liêng bao la mà Đức Maria được trao phó. Vì vậy, Chúa Giêsu bắt đầu trao cho mẹ mình một nhiệm vụ. Chỉ trong tình thảo hiếu, Người mới trao mẹ Người cho thánh Gioan.  Phải chăng Giáo hội coi Đức Maria là mẹ của mình ?

Lưỡi đòng đâm thâu (19,28-42) : thánh Gioan long trọng làm chứng : ngài đã thấy nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thâu. Tác giả đã không chú tâm đến phương diện vật lý, cho bằng ý nghĩa thần học. Qùa tặng cuối cùng là một sứ điệp.

Nước biểu tượng sự sống. Máu cũng vậy. Theo quan niệm thời đó, máu là chỗ của nguyên lý sự sống. Như vậy, Chúa Giêsu chết để ban sự sống. Sự sống thần linh trào ra qua các bí tích, nhất là bí tích rửa tội và Thánh Thể. Chắc chắn thánh Gioan đã nghĩ đến biểu tượng sâu xa này. Trong thư thứ nhất, thánh Gioan đã ghi “ba nhân chứng” : máu, nước và Thánh Thần. Đàng khác, nước cũng là biểu tượng của Thánh Thần và của sự sống thần linh.

Các lính tráng đã đâm lưỡi đòng vào cạnh sườn của Chúa Kitô, để xác minh là Chúa đã chết. Chúng đã không đập gẫy xương của Chúa. Thánh Gioan nhắc lại bản văn Kinh Thánh áp dụng cho con chiên của lễ Vượt Qua : “Chúng cũng không làm gẫy một xương nào của chiên Vượt Qua” (Ds 9,12).

Chúa Giêsu chính là chiên Vượt Qua. Chúa ở trong qùa tặng Thánh Thể. Thánh Thể khởi đầu cho việc hiến tế.

 

THỨ BẢY TUẦN THÁNH

 

 Trong năm, chỉ có Thứ bảy Tuần Thánh mới là ngày không cử hành phụng vụ. Giáo hội chiêm ngắm sự chết của Chúa. Giáo hội không cử hành bí tích Thánh Thể, vì bí tích nói lên sự hiện diện của Chúa.

Đức Maria là gương mẫu cho sự yên lặng của Giáo hội, gương mẫu vừa của khổ đau vừa của hy vọng. Từ thế kỷ thứ X, để thánh hiến một sự sùng kính bình dân từ lâu đời, Giáo hội đã dâng ngày thứ bảy cho Đức Mẹ.

Từ thế kỷ thứ XIII, Giáo hội đã trung thành giữ ngày Thứ bảy Tuần Thánh không có phụng vụ. Vọng phục sinh chỉ cử hành vào đêm thứ bảy rạng chúa nhật. Lễ rửa tội cho tân tòng được xen vào lễ vọng. Họ là những người bắt đầu một đời sống mới vào lúc cử hành việc Chúa Kitô phục sinh.

Có thời lễ Vọng được cử hành vào sáng thứ bảy. Đến năm 1954, Đức Piô XII đã đem trở lại chỗ cũ và lấy lại ý nghĩa của ngày lễ.

Những bài đọc trong lễ Vọng với chủ đề lớn, sâu đậm Thánh Kinh : đó là mối liên hệ giữa tạo thành và tha thứ. Chỉ một mình Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, đã tạo dựng nên con người tốt đẹp mới có thể tái tạo con người. Bằng sự tha thứ, Người đã tái sinh con người. Mầu nhiệm Phục sinh cho chúng biết con đường Thiên Chúa đã chọn để tái sinh con người : đó là sự chết và sống lại của Chúa Kitô. Tín hữu đi vào mầu nhiệm cứu rỗi này qua bí tích Thánh Tẩy.

Vì thế các bản văn được chọn đọc trước hết nhắc đến việc tạo dựng, rồi đến vài chặng đường hay là những hình ảnh tiên báo lịch sử cứu rỗi.

 

 

ĐÊM VỌNG PS.B

 

Mc 16,1-8

12-4-2009

 Trong một ngôi nhà thờ ở Tây Ban Nha có một cây Thánh Giá được rất nhiều người tôn kính. Đó là tượng Chịu Nạn Tha Tội : tay trái Chúa bị đóng đinh, còn tay phải của Chúa thì thòng xuống.

Truyền thuyết kể rằng : Có một người tội lỗi tìm đến cha sở. Tuy ông đã xưng mọi tội lỗi với lòng sám hối, nhưng cha sở lưỡng lự không biết có nên tha cho ông không, vì thấy ông phạm đi phạm lại cái tội ấy. Cha nghiêm giọng nói :

   – Tôi ban bí tích giải tội cho ông, nhưng lần sau ông phải sửa chữa.

   Ông hứa sẽ cố gắng sửa mình.

Nhưng vì yếu đuối ông lại sa ngã. Ông đã hứa sửa mình, nay ông lại sa ngã. Ông phải hết sức cố gắng bỏ qua nỗi sợ hãi không dám đến xưng tội.

Ông đến tòa giải tội năn nỉ :

– Con thực lòng ăn năn, xin cha tha cho con một lần nữa.

Cha sở quát :

– Đừng đùa giỡn với Chúa. Tôi không ban bi tích giải tội cho ông nữa đâu. Ông về ngay đi.

Bỗng, cha nghe tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ xuống, và ban phép giải tội cho người tín hữu. Rồi Chúa nói với vị linh mục :

– Chính Cha đổ máu ra cứu chuộc ông ấy, chứ không phải là con.

 Suốt Mùa Chay, đúng hơn suốt cả năm, cả đời, từ ngày này sang ngày khác, từ năm này sang năm khác, chúng ta tôn thờ Chúa chịu đóng đinh, tôn thờ Chúa giơ tay tha tội, mong Chúa ban bí tích giải tội. Giả như Chúa không tha tội, thì không biết chúng ta sẽ ra sao ? Chúng ta trở nên thánh hay ma quỉ, trở nên người hay ma quái ?

Cám ơn Chúa, chúng ta có một vị Chúa yêu thương chúng ta. Suốt Mùa Chay, chúng ta nhắc đi nhắc lại lời này : “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32). Chúa cũng nói : “Ta không vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để sống” (Ed 33,11). Qua miệng ngôn sứ Gio-en, Chúa nói : “Vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương” (Ge 2,13).

 BTM thánh lễ đêm nay, thánh Mc kể rằng : “Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng” (Mc 16,5).

Các sách TM khác không kể chi tiêt quí giá này.

Sách TM thánh Mt thì kể là thiên thần : “Bỗng đất rung chuyển dữ dội; thiên sứ của Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên, diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết” (Mt 28,2).

Sách TM thánh Luca không kể thiên thần, mà kể là hai người đàn ông : “Khi bước vào, hai bà không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả. Họ còn đang hoang mang, thì bỗng hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ” (Lc 24,4).

Còn sách TM thánh Gioan thì bảo là hai thiên sứ : “Bà Maria đứng ở ngoài gần bên mộ mà khoc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên sứ mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài Đức Giêsu” (Ga 20,11-12).

 Tại sao thánh Mc lại kể hai bà ra mộ gặp “một  chàng thanh niên” ?

Phải chăng chàng thanh niên đó là chính Mc ?

Trong vườn Cây Dầu, thánh Mc đã hèn nhát bỏ Chúa, chạy trốn. Chính thánh Mc kể : “Các môn đệ bỏ người mà chạy trốn hết. Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người mình khoác vỏn vẹn tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng” (Mc 14,50-52).

Hèn nhát đến nỗi trút cả tấm áo mà trốn chạy trần truồng. Nhưng Chúa không chấp. Chúa tha thứ hết. Chúa biến kẻ tội lỗi thành người sạch tội. Chúa biến kẻ nhát đảm thành người can đảm. Thánh Mc đã diển tả sự biến đổi lạ thường này bằng một hình ảnh : người thanh niên tội lỗi trốn chạy trần truồng nay trở thành người mặc áo trắng thánh thiện ngồi bên phải Chúa  (John R.Donahue SJ; Daniel J.Harrington SJ, The Gospel of MARK, trang 458)

Niềm vui phục sinh là niềm vui tha thứ. Tha thứ thật là lớn lao. Còn niềm vui nào bằng tội lỗi được xóa bỏ, chết được sống !

 

 

Lm. Giuse Nguyễn Trung Thành