FX Vũ Phan Long, OFM
WHĐ (30.1.2021) – Năm 2015, sau cuộc thăm viếng Hội Thánh Việt Nam, khi trả lời ký giả Roberto Piermarini, trưởng các ban tin tức của Đài Vatican, ĐHY Fernando Filoni, Tổng Trưởng Bộ Phúc âm hóa các dân tộc, đã có nhận định như sau: “Giáo Hội địa phương không những đón tiếp tôi rất tốt đẹp nhưng còn vượt quá tất cả những mong đợi của tôi. Dĩ nhiên với các Giám Mục tôi đã có một cuộc gặp gỡ rất huynh đệ, cuộc gặp gỡ rất đẹp với các linh mục, các nữ tu, các chủng sinh. Tại Việt Nam chúng ta có một Hội Thánh thật phong phú về ơn gọi – cả nam lẫn nữ – và tôi thấy các linh mục làm việc tốt đẹp và dấn thân trong rất nhiều hoạt động, một số hoạt động ấy tôi có dịp viếng thăm trong các giáo phận khác nhau…”[1].
Đây không phải là lần đầu tiên, một vị chức sắc cao cấp đến thăm Giáo Hội Việt Nam có ấn tượng tốt đẹp như thế, mà phải nói là tất cả các vị khách khi có dịp đến thăm viếng chính thức đều nói lên những nhận định tương tự về Hội Thánh Việt Nam: một Hội Thánh năng động, trẻ trung, phong phú về ơn gọi… Bạn hữu ở các nước ngoài, nhất là bên Tây phương, khi được xem những hình ảnh và nghe biết các con số các ơn gọi trẻ tại đất nước chúng ta, đều thán phục và bày tỏ sự… thèm thuồng! Bởi vì tại các xứ sở của họ, các ơn gọi rất hiếm và ơn gọi trẻ thì lại càng quá hiếm. Thế rồi khi biết là con số ứng sinh mỗi năm đăng ký xin thi vào khá đông, mà đôi khi các nhà dòng loại bỏ hơn một nửa số ứng sinh, thì họ tiếc lắm, cho là phí phạm. Cũng chính vì Hội Thánh Việt Nam có dồi dào ơn gọi, nên khi đọc những lời Đức giáo hoàng Phanxicô nói với tu sĩ trẻ trong Tông thư gửi tất cả các người đang sống đời thánh hiến, dường như anh chị em tu sĩ cảm thấy như là đơn giản, như là đương nhiên, không hề mang tính thách đố:
“Hỡi những người trẻ, cha muốn nói riêng với các con. Các con là hiện tại vì các con đang sống tích cực trong lòng các Tu Hội của các con, cống hiến một sự đóng góp nhất định với sự chọn lựa tươi mới và quảng đại của các con. Đồng thời các con là tương lai vì chẳng bao lâu nữa các con sẽ được mời gọi cầm tay lái của việc linh hoạt, huấn luyện, phục vụ, sứ mạng. Năm này phải nhìn thấy các con đứng ra đối thoại với thế hệ đi trước các con. Trong tình hiệp thông huynh đệ, các con có thể làm cho mình thêm phong phú nhờ kinh nghiệm và sự khôn ngoan của họ, đồng thời các con có thể đề nghị lại cho họ tính lý tưởng mà họ đã biết thuở họ mới bắt đầu, cống hiến sức bật và sự tươi mới của niềm hăng hái của các con, như vậy tất cả sẽ cùng nhau thảo ra những cách thức mới để sống Tin Mừng và đáp lại cách luôn luôn tương xứng những đòi hỏi của việc làm chứng và loan báo Tin Mừng.
Cha hài lòng khi biết rằng các con đã có dịp gặp gỡ giữa các người trẻ thuộc các Tu Hội khác nhau. Ước gì sự gặp gỡ trở thành con đường quen thuộc của hiệp thông, của sự nâng đỡ nhau, của hiệp nhất”[2].
Đọc các lời trên của Vị Cha chung, chúng tôi hiểu thuật ngữ “tu sĩ trẻ” là những anh chị em vừa ra trường, đã khấn trọn đời, sắp phải gánh vác cả một di sản và để lại những dấu ấn quan trọng cho đời sống tu trì của Tu Hội mình lẫn các Tu Hội khác, và cho đời sống của Hội Thánh nữa; và chúng tôi dùng thuật ngữ này theo nghĩa đó. Các lời trên đây chất chứa kỳ vọng của Đức giáo hoàng về tu sĩ trẻ. Các lời ấy, tuy không chứa từ ngữ “thách đố”, vẫn chứa đầy những thách đố, và nếu chúng ta đặt các lời ấy vào trong hoàn cảnh của thế giới và Hội Thánh toàn cầu, thì các thách đố lại càng hiện rõ hơn.
Bởi vì, trở lại với những buổi trò chuyện với các bạn hữu xa gần về ơn gọi tu trì tại quê hương chúng ta, sau những tiếng tắc lưỡi thán phục hay xuýt xoa nuối tiếc, các bạn bày tỏ các ưu tư bằng những câu hỏi: Đông quá như thế thì huấn luyện thế nào, đồng hành làm sao? Có đủ thì giờ gặp gỡ và đối thoại với từng cá nhân ứng sinh để làm rõ được các động lực không? Có tránh được chuyện đi tu như là một cơ hội để thăng tiến bản thân không? Cộng đoàn huấn luyện mà đa số thành viên lại là người thụ huấn, thì bầu khí là như thế nào? Tâm lý của người châu Á góp phần tích cực hay tiêu cực vào công việc huấn luyện? Chúng tôi còn liên tưởng đến một tình trạng khác nữa: dường như rất nhiều người huấn luyện không chỉ làm công việc huấn luyện, mà còn kiêm nhiệm nhiều công tác khác, tức không đầu tư lòng trí hoàn toàn vào việc huấn luyện!
Đã có những lúc chúng tôi trả lời: Nào là chúng tôi đã cố gắng lập một ban huấn luyện làm việc đều tay, với các thành viên có tinh thần cao; nào là những người đứng đầu ban huấn luyện (giám sư, phụ tá giám sư, linh hướng) phải chia nhau mà đồng hành kỹ lưỡng với các ứng sinh theo nhịp độ đều đặn; nào là phải có những anh em có đời sống tu trì nghiêm túc làm nòng cốt cho nhà huấn luyện; nào là người Việt huấn luyện người Việt thì cũng dễ bắt được ý nhau hơn… Nhưng chúng tôi cũng cảm nhận được là các bạn không được thuyết phục lắm, vì họ chỉ có một hai ứng sinh với một cộng đoàn huấn luyện thực thụ và một giám sư… chỉ ăn để làm công việc huấn luyện, mà còn không yên tâm!
Những chia sẻ của chúng tôi trong bài này là những ưu tư phát xuất từ những câu hỏi của bạn bè khắp nơi, và cũng là những câu trả lời dựa vào những nhận xét cá nhân, những trao đổi với các vị hữu trách của các Tu Hội và dựa vào ánh sáng của Huấn quyền, đặc biệt của Đức giáo hoàng Phanxicô. Cách nào đó, tôi được thúc đẩy làm như các bề trên thượng cấp đã làm ở Rôma ngày 29-11-2013: các vị chia sẻ cho nhau về công việc linh hoạt của mình nhờ được giáo huấn và gương sống của Đức giáo hoàng gợi hứng[3]. Dù sao, chúng tôi ý thức đây là một bài khảo sát còn phiến diện.
Trước tiên chúng tôi xin tìm hiểu khái quát về thời đại chúng ta, để thấy các khó khăn, các thách đố và các khủng hoảng. Tất cả chúng ta sẽ tìm những lời đáp trả, để mong nhận ra những cơ may cho tu sĩ trẻ.
1.- Những khó khăn, những thách đố, những khủng hoảng
Trong Tông thư cho Năm Đời sống thánh hiến, Đức giáo hoàng Phanxicô đã có nhận định tổng quát: “Chúng ta biết những khó khăn mà những hình thức khác nhau của đời sống thánh hiến đang vấp phải: sự giảm số ơn gọi và sự già nua, nhất là trong thế giới phương Tây, những vấn đề kinh tế theo sau cuộc khủng hoảng tài chánh của thế giới, những thách đố của tính quốc tế và việc toàn cầu hóa, những âm mưu của chủ nghĩa tương đối, sự gạt ra bên lề xóa vị trí trong xã hội…”[4]. Các nhận định tổng quát này vẫn rất gợi ý cho công việc khảo sát của chúng ta. Ngoài ra, chúng tôi cũng dựa vào Bản Dự Thảo giúp chuẩn bị Tổng Tu Nghị 2015, trong đó các chuyên viên của Dòng Anh em hèn mọn đã phân tích thời đại này và gọi là “Thời đại của khủng hoảng…”[5], rồi liệt kê ra nhiều thứ khủng hoảng: khủng hoảng do nền kinh tế toàn cầu; khủng hoảng về văn hóa-luân lý; khủng hoảng về cơ cấu và định chế; khủng hoảng về con người; khủng hoảng về sự đa dạng; khủng hoảng về căn tính.
Như vậy, có những khó khăn ở bình diện toàn cầu do nền kinh tế toàn cầu hóa, cuộc khủng hoảng tài chánh của thế giới, chủ nghĩa tương đối, các vấn đề luân lý mới, cơ cấu và định chế, sự giảm số ơn gọi và sự già nua… Do chỗ đất nước và bà con chúng ta có khả năng hòa nhập rất nhanh vào nhịp tiến của thế giới trong các lãnh vực xã hội (xin đơn cử một ví dụ thuộc lãnh vực thông tin văn hóa: giới trẻ tận dụng rất nhanh những sản phẩm mới của ngành tin học thế giới; dân chúng sớm chuyền tay nhau các phim ảnh thế giới vừa sản xuất…), thiển nghĩ đời sống tu trì của chúng ta cũng không được miễn nhiễm với các khó khăn ấy. Chúng tôi xin dừng lại mà tìm hiểu một vài khó khăn và thách đố đang tác động lên xã hội chúng ta nhiều nhất.
- a)Khủng hoảng về luân lý
Đã quá quen chỉ lo cho sự an toàn của bản thân mình, hoặc do không được phép lo cho người khác (?), dần dà bà con chúng ta coi tất cả những gì không phải là “chuyện” của mình thì không dính dáng đến mình. Chúng ta đã biết quá nhiều câu chuyện đau lòng do tình trạng “vô cảm” [6].
Thêm vào đó, chủ nghĩa tiêu thụ và nền kinh tế thị trường lại yểm trợ xu hướng tìm thú vui riêng, sự thư thái nhàn hạ riêng, bất kể người khác đang sống thế nào. Đức giáo hoàng Phanxicô đã nhận xét: “Khi đời sống nội tâm tự khép kín trên những hứng thú riêng tư, sẽ không còn chỗ cho người khác, người nghèo không tìm được lối vào; người ta không còn nghe được tiếng Thiên Chúa, không còn được hưởng niềm vui êm ái từ tình yêu của Người, không còn hứng thú làm việc thiện”[7]. “Chúng ta gần như bất lực không cảm nhận được tiếng kêu đau khổ của kẻ khác, chúng ta không còn khóc được nữa trước bi kịch của người khác, không còn chú tâm đến họ, hình như có một trách nhiệm nào đó, nhưng không dính dáng gì đến chúng ta”[8].
Nền kinh tế thị trường, trong đó tất cả mọi sự được coi như là hàng hóa để tiêu thụ, đưa ra thương mãi, cũng góp phần làm cho người ta chỉ biết lo cho mình. “Để chống đỡ một lối sống không bao gồm những người khác, hoặc để có thể có hứng thú với lý tưởng ích kỷ này, người ta đã triển khai một sự toàn cầu hóa sự dửng dưng… Nền văn hóa của đời sống thoải mái đã bỏ thuốc mê cho chúng ta rồi và chúng ta mất bình tĩnh nếu thị trường đưa ra một thứ gì mà chúng ta chưa mua được, trong khi cuộc sống tang thương thiếu những khả năng để sống, đối với chúng ta cũng chỉ là một cảnh tượng không đánh động gì đến chúng ta”[9].
Hoàn cảnh này thách đố các tu sĩ thế nào? Có thể sống đời sống thánh hiến như là ngôn sứ trong hoàn cảnh này thế nào? Không lẽ hoàn cảnh này cũng đã khiến người tu sĩ có thể từ chối “làm bẩn tay” mà không chút áy náy?
Một tệ đoan vẫn còn đang gây những vết thương lớn trong xã hội và Hội Thánh Việt Nam, đó là “tình trạng thiếu trung thực ở mọi lãnh vực”[10]. Nói dối, chối bỏ sự thật, là chuyện dễ dàng, trở thành như một phản xạ, miễn là không bị phanh phui. Quả thật có khi đây là một sự khôn khéo để tránh bị “gài bẫy” trong một xã hội vàng thau lẫn lộn, dù cũng chẳng tốt đẹp gì. Nhưng khi chuyện đụng chạm đến tư cách, đến lương tâm, thì đáng tiếc. Tình trạng thiếu trung thực được biểu lộ ra trong thái độ cứng cỏi, nhất định không nhận trách nhiệm, bao lâu cấp trên chưa đưa ra được những bằng cớ, thậm chí đổ trách nhiệm cho người khác, cho cơ chế. Y như thể nếu người hữu trách không thuyết phục được rằng bạn có lỗi, thì bạn hoàn toàn không có vướng mắc gì trong lương tâm vậy. Tu sĩ chúng ta có đồng ý được với ý kiến này chăng: “Như vậy theo quan niệm của tôi là bạn chỉ trung thực trong một xã hội mà mọi người đều trung thực. Trung thực trong một xã hội gian trá là lạc hậu và thua thiệt mà thôi. Khẳng định một lần nữa trung thực là đức tính tốt đẹp. Nhưng đừng nên trung thực một cách vô ý thức, mọi lúc mọi nơi”?[11] Thiếu trung thực là một thách đố, nhưng đưa lại cho tu sĩ cơ may nào?
- b)Khủng hoảng về văn hóa
Cách đây ít lâu, trên Internet có bài nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research) về 10 đặc tính căn bản của người Việt và những nhận xét của Học giả Trần Trọng Kim (1883-1953) về những đặc tính của người Việt trong Việt Nam Sử Lược[12]. Các tác giả đồng ý rằng có một sự lười biếng về trí thức.
Người ta không muốn làm công việc nghiên cứu, phân tích những suy tư, đòi hỏi nhiều công sức và thời gian, mà chỉ muốn cho xong việc với một kết quả “coi được” là bằng lòng: “(Người Việt) yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt)”[13]; tức là chỉ để được “đẹp mặt”và “ấm thân”[14]. Khi đi dạy học, giáo viên thường được yêu cầu cho “đề cương thi”, tức là giới hạn giáo trình để sinh viên có thể học thuộc lòng, thậm chí để chuẩn bị “phao”. Nếu có đề nghị sinh viên tìm đề tài viết nghiên cứu riêng, thì rất hiếm người làm. Điều quan trọng là có điểm tốt, chứ không phải là kiến thức! Các tu sĩ trẻ đã đi ra từ những môi trường như thế có tránh được não trạng này chăng? Công việc học tập của người tu sĩ phải nhấn mạnh rằng mục tiêu của việc học tập không phải chỉ là để được khấn trọn đời, được chịu chức thánh, mà là để đến gần Chân Lý là Thiên Chúa hơn, để hiểu thế giới và đời sống hơn, và để đi tới tâm tình tạ ơn, vì chúng ta biết tất cả những khám phá là ân huệ Thiên Chúa ban. Như thế học vấn giải thoát con người chúng ta khỏi những ranh giới chật hẹp của kinh nghiệm riêng và những thành kiến riêng để đến với những không gian mênh mông của Chân Lý[15]. Học vấn sẽ giải thoát chúng ta khỏi chủ trương bảo thủ do sợ suy tư và là chủ trương cung cấp một thứ an toàn giả tạo do một niềm tin mập mờ.
Nhưng học tập nghiên cứu là một việc làm rất đòi hỏi bởi vì phải chuyên cần (liên tục) và chấp nhận vất vả, phải có phương pháp và kỷ luật cao, còn bao hàm một sự đầu tư trí tuệ lâu dài và sâu sắc. Dù sao, thiển nghĩ nếu không có những yếu tố vừa kể, việc đào tạo trí tuệ cho các tu sĩ hôm nay sẽ không bao giờ là một việc đào tạo tương ứng với những đòi hỏi của thời đại, và công việc tìm tòi nghiên cứu của chúng ta sẽ không bao giờ có tính khoa học.
Ngoài ra tu sĩ còn cần quan tâm đặc biệt đến yếu tố then chốt này: sự thánh thiện. Chỉ khi nào kiến thức được liên kết với đời sống thánh thiện, kiến thức mới là một phương tiện giúp gặp được sự khôn ngoan. Thánh Bonaventura, trong tác phẩm Itinerarium, đã tạo ra một thuật ngữ, sursum actio, một hành động nâng chúng ta lên cao, khi nói về cầu nguyện, để cho thấy đường đi của chúng ta, những người học tập nghiên cứu Kitô hữu[16]. Việc học tập nghiên cứu chỉ có ích khi được diễn tả ra trong đời sống. Chính đời sống chứng thực cho việc học tập nghiên cứu. Có thể nói rằng kiến thức, nhất là kiến thức loài người, không thể là mục tiêu tự nó, và chính việc học vấn cũng trở thành phản giá trị nếu nó khiến chúng ta đặt nhu cầu của Thiên Chúa sang một bên, hoặc nếu nó là một phương thức để đào thoát khỏi thân phận hèn mọn, hoặc thân phận những kẻ hành khất đi ăn xin ý nghĩa và Chân Lý.
Dường như do lười biếng về trí thức, các nhà giảng thuyết trẻ tìm những bài giảng soạn sẵn rồi làm công việc copy các đoạn và paste thành một bài mới: hiện tượng này thường được gọi vui là “mì ăn liền”. Việc giảng lễ không bao giờ là như thế. Với Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng (ss. 135-159), Đức giáo hoàng đương kim khẳng định Lời Chúa phải có một tiếng vang nơi chính vị giảng thuyết, rồi gợi ra những áp dụng cụ thể cho cộng đoàn mà vị giảng thuyết sẽ chia sẻ Lời Chúa cho. “Bài giảng là tiêu chuẩn để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của một mục tử với dân mình”[17]. “Hội Thánh là mẹ và giảng cho dân như một người mẹ nói chuyện với con mình, biết rằng đứa con tin rằng tất cả những gì mẹ dạy là vì muốn điểu tốt cho mình vì nó biết rằng mẹ yêu thương mình… Ngay cả trong những trường hợp bài giảng có vẻ một chút thiếu hấp dẫn, nếu người nghe cảm nhận được tinh thần mẫu tử và Hội Thánh này, thì vẫn luôn luôn có kết quả, như những lời khuyên nhàm chán của một bà mẹ mang lại kết quả với thời gian trong lòng con cái”[18].
- c)Khủng hoảng về con người
Nền văn hóa hiện đại đang phát triển một ý thức mạnh mẽ về sự tự trị, tự do và chủ thể tính của cá nhân đưa tới chủ nghĩa cá nhân phi lý và tạo một sự căng thẳng xung đột giữa định chế và cá nhân: “Ngày nay, chúng ta có thể nhận thấy nơi nhiều vị đang làm mục vụ, cả những người đã được thánh hiến, một sự quan tâm quá đáng về những không gian tự do và thư giãn cá nhân, khiến họ thực hiện trách nhiệm của mình như một thứ phụ thuộc đơn giản trong cuộc đời, làm như các trách nhiệm này không phải là thành phần của căn tính của họ. Đồng thời, đời sống tinh thần lẫn lộn với những thời gian tôn giáo đưa đến một thứ an ủi nào đó, nhưng không giúp tăng trưởng việc gặp gỡ kẻ người, sự dấn thân trong thế giới, lòng nhiệt thành với việc truyền giáo. Do đó, người ta dễ gặp nơi những nhà truyền giáo, dù các ngài có cầu nguyện, một dấu ấn của chủ nghĩa cá nhân, một cuộc khủng hoảng căn tính và một sự chết dần lòng nhiệt thành”[19].
Ngoài ra, các bạn nước ngoài có ấn tượng người Việt “nói vậy mà không phải vậy”. Trong những lần đi thăm các Tỉnh Dòng ngoại quốc, đã có những khi chúng tôi được các bề trên nhờ gặp một tu sĩ gốc Việt trong Tỉnh Dòng họ, để xem thực sự người ấy muốn gì, bởi vì bề trên không hiểu được người bề dưới của mình, không biết người ấy thật sự muốn gì. Người ấy không biết diễn tả bằng ngôn ngữ chính xác thì cũng có, nhưng rất thường là do người tu sĩ không dám diễn tả thẳng thắn (“nói hết ý”) những tâm tư của mình với người đồng hành, nên trở thành người khó hiểu.
- d)Khủng hoảng về căn tính
Nói chung, tuy ở đất nước chúng ta, các Tu Hội không bị giảm sút về con số nhân sự do ít ơn gọi và lão hóa, nhưng vẫn không tránh được một thứ khủng hoảng nào đó về căn tính. Khó khăn này do kiểu sống trưởng giả, sự gia tăng chủ nghĩa cá nhân, như Đức giáo hoàng đã nhận định ở trên: “Nơi những vị làm mục vụ, còn có một chủ nghĩa tương đối nguy hiểm hơn chủ nghĩa tương đối về mặt tín lý nhiều. […]. Chủ nghĩa tương đối thực tiễn này hệ tại việc hành động y như thể không có Thiên Chúa, quyết định y như thể không có người nghèo, mơ tưởng y như thể không có tha nhân, và làm việc y như thể không có những người vẫn chưa được đón nhận lời rao giảng. Cần nhấn mạnh rằng ngay cả người dường như có những xác tín vững chắc về tín lý và thiêng liêng, cũng thường rơi vào một lối sống chỉ gắn bó với những thứ bảo đảm về kinh tế, hoặc với các vùng đưa lại quyền hành và vinh quang loài người mà họ tìm cho có bằng bất cứ cách nào, thay vì dâng hiến đời mình cho tha nhân trong sứ vụ”[20].
Trong tình cảnh đó, điều mà người ta thấy nổi bật trong cuộc sống người tu sĩ, là cái “tôi” của họ. Họ lao vào hoạt động đến quá sức mình và dần dà đánh mất chiều kích thiêng liêng. Sứ vụ hay công tác tông đồ được hiểu và sống chỉ như là công việc, tức là một điều thêm vào, chứ không phải là một “chứng từ”. Người tu sĩ trở thành thành viên “đi nước đôi”… Các phương tiện truyền thông quá tiện lợi tạo điều kiện cho thế gian đi vào trong nội vi, trong từng phòng của các tu sĩ (qua Internet, và những phương tiện truyền thông khác như Facebook, Skype…). Gặp gỡ với anh chị em trong cộng đoàn ít dần và chẳng đặng đừng. Tình trạng này sẽ càng nên trầm trọng khi mà đời sống thiêng liêng không còn sức sống, chỉ còn ở bề mặt. Tu sĩ sẽ không chịu được những luật lệ và lời khấn. Khi đọc những phân tích của Đức giáo hoàng về tình trạng náo nhiệt phi lý trong mục vụ, càng thấy ngài tinh tế: “Vấn đề không phải bao giờ cũng là hoạt động quá tải, nhưng chính là những hoạt động được sống tồi tệ, không có động lực, không có một linh đạo để thấm nhuần hoạt động và làm cho hoạt động nên đáng mong ước. Từ đó phát xuất những bổn phận làm mệt rã rời và đôi khi làm ngã bệnh. Đó không phải là một sự mệt mỏi thanh thản, nhưng căng thẳng, nặng nhọc, không thỏa mãn, và chung cuộc không ai chấp nhận. Sự lười biếng trong mục vụ có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. […]. Ngày nay, việc nóng lòng muốn có kết quả ngay khiến cho những người làm mục vụ không dễ dàng chấp nhận cảm thức về một chuyện ngang trái nào đó, về một thất bại bề ngoài, một lời chỉ trích, một thập giá”[21].
Quả thật, có những khó khăn, những thách đố, những khủng hoảng. Nhưng tình trạng không chỉ có tính cách tiêu cực: các chuyên viên Dòng Anh Em Hèn Mọn, khi đề cập đến các khủng hoảng, đã đặt tên gọi đầy đủ cho tiêu đề của phần phân tích về các khủng hoảng là “Thời đại của khủng hoảng: Cho sự tăng trưởng chứ không phải cho việc chết đi”[22]. Các khó khăn thường cũng là những thách đố, những khủng hoảng, tức là chúng ta hiểu từ ngữ “khủng hoảng” (crisis) theo hai nghĩa: nghĩa tiêu cực, là những yếu tố đưa đến sự suy thoái và tan rã; nghĩa tích cực, là những yếu tố giúp phân biệt để đi đến một chọn lựa khác, đưa tới một sức sống mới, để phát triển và lớn lên. Các Đấng Sáng lập Dòng đã sống được hai ý nghĩa này: các ngài thường là những người đã sống vào các thời buổi khủng hoảng, các ngài ghi nhận các yếu tố tiêu cực của xã hội và Giáo Hội thời mình, nhưng cũng tìm ra con đường mới: do đó, Đức giáo hoàng bảo chúng ta xem các ngài “đã phải đương đầu với những khó khăn nào và đã vượt qua được như thế nào”. Các ngài đã vượt qua được các khủng hoảng, vì các ngài có điểm tựa vững chắc: “Đối với các Đấng Sáng Lập Nam cũng như Nữ, luật sống tuyệt đối là Tin Mừng, mọi quy luật khác chỉ muốn là cách diễn tả Tin Mừng và là phương thế để sống Tin Mừng cho trọn vẹn. Lý tưởng của các Đấng Sáng Lập là Đức Kitô, là gắn bó trọn vẹn với Đức Kitô, đến mức có thể nói như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1,21), các lời khấn chỉ có nghĩa khi thể hiện lòng yêu mến say mê này”[23]. Vậy để có thể sống và dấn thân được như Đức giáo hoàng kỳ vọng, chính tu sĩ phải tìm trở về với điều cốt yếu, liên tục “xuất phát lại” từ Đức Kitô.
2.-Tu sĩ trẻ là hiện tại của các Tu Hội
Riêng với các tu sĩ trẻ, Đức giáo hoàng nói: Các tu sĩ trẻ là “hiện tại” của Tu Hội, vì đang “đóng góp vào cộng đoàn với sự tươi mới và quảng đại”.
Nói như vậy có nghĩa là các tu sĩ trẻ đang biểu lộ một đời sống đầy ý nghĩa, mang tính ngôn sứ, theo Tin Mừng trong thời đại chúng ta. Như vậy, chúng ta phải “nhìn lại quá khứ với lòng biết ơn”[24] cả ở điểm này nữa: các anh chị em trẻ đang sống tích cực hôm nay là nhờ đã được đào tạo bởi các thành viên tốt lành trong quá khứ. Còn hôm nay nếu họ muốn là “hiện tại” của Tu Hội, chắc chắn họ phải là “hiện tại” của Đức Giêsu, theo nghĩa là Công đồng Vatican II chờ đợi tu sĩ luôn luôn “bắt chước cách chính xác hơn và diễn lại liên tục trong Giáo Hội kiếp sống của Con Thiên Chúa ở trần gian”[25]; họ phải có “đam mê”[26], những con người say mê Thiên Chúa (một trong nhiều câu hỏi để kiểm chứng: “Đức Giêsu có thật sự là tình yêu thứ nhất và duy nhất, như chúng ta đã kiên định khi tuyên các lời khấn của chúng ta không?”) và say mê con người (một trong nhiều câu hỏi trắc nghiệm: “Chúng ta có mang cùng một nỗi đam mê (= như các Đấng Sáng Lập) đối với đồng loại, gần gũi họ để chung chia những niềm vui và những nỗi đau, khả dĩ thực sự hiểu được những nhu cầu và có thể cống hiến sự đóng góp của chúng ta để đáp ứng không ?”).
Nhất là tu sĩ trẻ phải say mê sống chiều kích ngôn sứ. Đức giáo hoàng Phanxicô tóm gọn “chiều kích ngôn sứ” của đời thánh hiến như sau: “Vị ngôn sứ nhận được từ Thiên Chúa khả năng quan sát lịch sử trong đó đang sống và giải thích các biến cố: vị ngôn sứ giống như một người lính gác canh thức ban đêm và biết khi nào bình minh đến (x. Is 21,11-12). Ngôn sứ biết Thiên Chúa và biết những người nam người nữ là anh chị em mình. Ngôn sứ có khả năng phân định và cả khả năng tố giác sự dữ của tội lỗi và các bất công, bởi vì ngôn sứ tự do, không phải trả lời cho các ông chủ nào khác ngoài Thiên Chúa, không có những quan tâm nào khác ngoài các mối bận tâm của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ thường đứng về phía người nghèo và người không phương thế tự vệ, bởi vì biết rằng chính Thiên Chúa cũng đứng về phía họ”[27].
Như một người lính canh, người tu sĩ đứng “trên cao” vì ở trong Thiên Chúa, chỉ mang những bận tâm của Thiên Chúa về thế giới, cũng vì thế, “nhìn xa” để ghi nhận những hiện tượng ở tận chân trời, và “nhạy cảm” với tất cả những tín hiệu của hoàn cảnh chung quanh, để kịp thời cảnh báo cho những người ở thấp hơn.
Chính vì sứ mạng không nhẹ nhàng, ngôn sứ dễ tìm cách tránh né. Đức giáo hoàng nhắc đến Êlia, Giôna và Giêrêmia. Chúng tôi đặc biệt nghĩ đến kinh nghiệm Giêrêmia. Khi được Thiên Chúa kêu gọi đi thi hành sứ mạng ngôn sứ, Giêrêmia đã tránh né, vì thấy mình còn quá trẻ. Thiên Chúa đã bảo đảm bằng sự hiện diện của Người. Nhưng rồi chẳng bao giờ vị ngôn sứ thấy mình được an toàn cả. Bởi vì ngài phải thức tỉnh cả vua quan, các tư tế, các ngôn sứ khác, các kinh sư, dân chúng, nghĩa là mọi tầng lớp trong xã hội. Chẳng ai chịu nổi những lời cảnh báo “chói tai” của ngài, kể cả gia đình ngài, nên liên tục tìm cách tiêu diệt ngài. Thân phận ngôn sứ là như thế: phải nói lên những điều không ai muốn nghe, chứ không chỉ báo không đúng lúc, và “chấp nhận thương đau”. Con người ngày nay đang bị “mê” dù vẫn thức, nên sự hiện diện thường trực của tu sĩ phải “đánh thức” họ, tức là nhắc họ để ý những sai lạc, những mê lầm. Tu sĩ phải “làm việc” thường trực, phải là “tiếng người hô” liên tục, chứ không phải chỉ thỉnh thoảng như giật mình ló mặt ra kêu réo lên vài tiếng, rồi lại rút êm. Bởi vì nếu trong lịch sử dân Chúa, đã có những ngôn sứ công chức, những ngôn sứ tập đoàn, những ngôn sứ tuyên ngôn theo “đơn đặt hàng” để làm vui lòng chính quyền, những ngôn sứ làm việc “theo giờ” để ăn lương, thì hôm nay không phải là không có những tu sĩ chỉ là tu sĩ với bộ áo dòng, để hưởng lợi lộc! Người ta vẫn nói “bộ áo không làm nên thầy tu”, nhưng chúng ta muốn thấy gì dưới bộ áo dòng nếu không phải là một thầy tu? Nhưng cũng có thể có mọi sự dưới bộ áo dòng trừ ông thầy tu! Tu sĩ-ngôn sứ chính danh không áo dòng vẫn toát ra tính chính danh. Điều quan trọng là tu sĩ đang trả lời cho những ông chủ nào ngoài Thiên Chúa? Lâu nay, Đức giáo hoàng quan tâm tố giác mọi hình thái nô lệ. Trong Kinh Chiều ngày Cuối năm dương lịch 2014, ngài cũng nhắc đến vấn đề nhức buốt này. Tôi, tu sĩ, tôi có thực sự tự do chăng?[28]
“Là một môn đệ có nghĩa là lúc nào cũng sẵn sàng để mang tình yêu của Chúa Giêsu đến cho người khác và điều này có thể xảy ra đột xuất, ở bất cứ đâu, trên đường phố, nơi quảng trường, trong lúc làm việc, trong một cuộc hành trình”[29].
Như thế, tu sĩ trẻ cần biết rõ trung tâm điểm của linh đạo của mình và hội nhập văn hóa linh đạo, tức sống đời tu của mình đúng theo thời đại, nơi chốn và con người: “Linh đạo không ở trong một chai nước cất. Nó phải được sống với năng lực, cũng như đọc lại theo nhãn quan văn hóa”[30]. Đời sống tu trì mang tính ngôn sứ, nếu không thì không tồn tại: “Vấn đề quan trọng là trở nên những ngôn sứ, chứ không đóng vai một ngôn sứ[…]. Tu sĩ là những người nam và nữ làm sáng tỏ tương lai […]. Tu sĩ phải không bao giờ từ bỏ tính ngôn sứ […]. Một linh đạo đích thực phải là men: tính ngôn sứ loan báo tinh thần của Tin Mừng”[31]. Tông huấn Đời sống thánh hiến đã làm rõ khía cạnh này[32]. Đối với vị ngôn sứ, đời sống không tĩnh lặng, nhưng luôn luôn năng động và phóng chiếu ra bên ngoài hướng tới tương lai của Thiên Chúa. Ngôn sứ biết cách giữ sự hài hòa giữa định chế và sứ điệp Lời Chúa.
Ngoài ra, nếu là “hiện tại” của Tu Hội, người tu sĩ luôn xác tín đời sống cộng đoàn là một quà tặng do Thiên Chúa ban. Huấn thị Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn[33] vẫn còn đủ tính hiện đại: “Trước khi là một tổ chức của con người, cộng đoàn tu trì đã là một hồng ân của Chúa Thánh Thần. Chính là do tình yêu Thiên Chúa, được đổ tràn đầy tâm hồn chúng ta nhờ Thần Khí, cộng đoàn tu trì khởi đầu và được xây dựng thành một gia đình thực sự, trong đó mọi người quy tụ lại với nhau nhân danh Chúa [DT 15a]. Vì thế, không thể hiểu cộng đoàn tu trì trừ phi chúng ta bắt đầu từ bản chất của cộng đoàn như một ân huệ trên cao ban xuống, như một mầu nhiệm, bắt nguồn từ chính trọng tâm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chí thánh và là Đấng thánh hóa, Đấng hằng mong muốn cộng đoàn tu trì trở nên thành phần của mầu nhiệm Hội Thánh nhằm phục vụ đời sống con người”[34].
“Tình huynh đệ không có niềm vui là tình huynh đệ đang chết đi; sớm muộn, các thành viên sẽ bị cám dỗ đi tìm ở bất cứ nơi đâu khác điều mà họ không tìm thấy trong cộng đoàn của mình. Một tình huynh đệ đầy niềm vui là ân huệ từ trên ban cho anh em chị em, là những người biết cầu xin và biết chấp nhận nhau, phó thác cho đời sống huynh đệ, tin tưởng vào hành động của Chúa Thánh Linh… Chứng từ niềm vui đó là sự lôi cuốn mãnh liệt vào đời sống tu trì, là nguồn phát sinh những ơn gọi mới, và khích lệ bền đỗ”[35].
3.- Tu sĩ trẻ cũng là tương lai của các Tu Hội
“Đồng thời các con là tương lai (của Tu Hội)”.
Nếu là “hiện tại của các Tu Hội” do chỗ họ là “hiện tại” của Đức Giêsu, các tu sĩ trẻ cũng sẽ là “tương lai của các Tu Hội”, do chỗ họ cũng là “tương lai” của Đức Giêsu, vì họ vẫn tiếp tục bắt chước cách chính xác hơn và diễn lại liên tục trong Giáo Hội kiếp sống của Con Thiên Chúa ở trần gian”[36]. Họ vẫn tiếp tục sống đời ngôn sứ trong niềm vui. Họ là dấu chỉ về niềm hy vọng, nơi “Thánh Thần đang thúc đẩy chúng ta hướng về”. Đức giáo hoàng Phanxicô cụ thể hóa “tương lai này” bằng cách liệt kê ra một số công việc: “chẳng bao lâu nữa, các con sẽ bắt tay vào việc linh hoạt, huấn luyện, phục vụ, sứ mạng, đối thoại với thế hệ đi trước, cùng nhau thảo ra những cách thức mới để sống Tin Mừng, gặp gỡ giữa các người trẻ thuộc các Tu Hội khác nhau”[37]. Các công việc được Đức giáo hoàng kể ra rất nhanh, “linh hoạt, huấn luyện, phục vụ, sứ mạng”, thật ra là những lãnh vực to lớn và phức tạp, đòi hỏi người tu sĩ trẻ dấn thân vào với tất cả nghị lực và say mê, thì mới cáng đáng nổi. Đây là những đề mục của “thường huấn, mà chúng tôi sẽ nói sau.
Nếu vậy, “ngay từ đầu, nhất thiết phải chuẩn bị để mình không phải chỉ là ‘khách hàng’ của cộng đoàn, nhưng trên hết, phải là những người xây dựng cộng đoàn; những người có trách nhiệm đối với sự thăng tiến của anh chị em; những người cởi mở và có khả năng lãnh nhận hồng ân của người khác; những người có thể giúp đỡ và được giúp đỡ; những người có thể thay thế và có thể được thay thế”[38]. Người trẻ đã được huấn luyện để từng bước nối tiếp và thay thế các đàn anh đàn chị. Đây là một điểm tế nhị: Công việc “thay thế” chỉ thật sự mang tính xây dựng khi “người thay thế” và “người được thay thế” chấp nhận sòng phẳng những “quy luật chơi” cách chân thành và huynh đệ. Tuy nhiên, điều rất quan trọng là tu sĩ trẻ biết đối thoại.
4.- Tu sĩ trẻ phải biết đối thoại
“Năm này phải nhìn thấy các con đứng ra đối thoại với thế hệ đi trước các con”.
Đức giáo hoàng mong muốn ngay trong Năm Đời sống thánh hiến này, tu sĩ trẻ biết đối thoại với thế hệ đàn anh đàn chị đi trước để “làm cho mình thêm phong phú nhờ kinh nghiệm và sự khôn ngoan của họ, đồng thời anh chị em có thể đề nghị lại cho họ tính lý tưởng mà họ đã biết thuở họ mới bắt đầu, cống hiến sức bật và sự tươi mới của niềm hăng hái của anh chị em, như vậy tất cả sẽ cùng nhau thảo ra những cách thức mới để sống Tin Mừng và đáp lại cách luôn luôn tương xứng những đòi hỏi của việc làm chứng và loan báo Tin Mừng”. Đối thoại với một mục tiêu như thế không phải là một cuộc trò chuyện sau “trà dư tửu hậu”, trong giờ giải trí, mà là một cuộc cùng nhau đi tìm chân lý và trau dồi linh đạo, là “thường huấn”. Tu sĩ trẻ cũng phải biết gặp gỡ những người trẻ của các Tu Hội khác để sống “sự hiệp thông, sự nâng đỡ nhau, sự hợp nhất”[39]. Đối thoại với những con người khác chúng ta, lắng nghe thế giới cách thực tế, làm cho căn tính được xây dựng và nên phong phú, tức phải thoát khỏi khuynh hướng quy chiếu về mình, mà Đức giáo hoàng lên án khắp nơi[40].
Tuy nhiên, có hiệp thông mới có thể đối thoại, nếu chỉ sống chủ nghĩa cá nhân thì sẽ thất bại. Trong các cộng đoàn, dường như ngày càng khó đối thoại liên vị, mà chỉ có sự tìm kiếm cá nhân với thái độ kiêu ngạo và sự hãnh tiến cá nhân, nên từ đó các lời khấn khiết tịnh và vâng phục bị đe dọa. Đôi khi không do anh chị em chủ động tìm kiếm sự tự trị, nhưng do công việc bề trên giao mà rồi không được nâng đỡ, đồng hành, quan tâm, để giúp những người ấy tiếp tục sống cảm thức thuộc-về đối với cộng đoàn. Đôi khi có những tị hiềm khiến cho tương quan bề trên – bề dưới trở nên khó khăn, đưa đến những đào thoát. Trong thực tế, cộng đoàn đúng nghĩa là thành quả của nỗ lực liên tục của mỗi thành viên hằng ngày để sống sự hiệp thông và quan tâm tế nhị đến nhau. Trong Tông thư, Đức giáo hoàng dùng từ “hiệp thông” 15 lần. Các tu sĩ là “«chuyên gia về hiệp thông», «những chứng nhân và những người kiến tạo «dự phóng hiệp thông»”, “những con người của hiệp thông”…[41]. Chúng ta không thể quên đây cũng đã là điểm nhấn của Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô (đặc biệt xem mục “Linh đạo hiệp thông”, s. 28)[42].
Điều Đức giáo hoàng đề nghị cho toàn thể Giáo Hội hoàn toàn đúng cho tu sĩ: xây dựng “một tình huynh đệ huyền nhiệm và chiêm niệm, biết nhìn thấy sự cao cả linh thánh của người thân cận, khám phá ra Thiên Chúa nơi từng con người, biết chịu đựng những khó chịu của cuộc sống chung bằng cách gắn chặt vào tình yêu Thiên Chúa, biết rộng mở tâm hồn cho tình yêu thần linh để tìm hạnh phúc cho người khác như Cha Nhân Lành của chúng ta vẫn làm”[43]. Chúng ta phải “vượt qua sự nghi ngờ, thiếu tin tưởng thường trực, sợ bị xâm lấn và những thái độ tự vệ mà thế giới ngày nay đang áp đặt trên chúng ta…”[44]. Đức giáo hoàng Phanxicô đang đi khắp nơi để cho thấy rằng thế giới có một nhu cầu lớn lao về tình huynh đệ và để thấy rằng có thể sống với nhau trong sự khác biệt: Ngài kính cẩn đối với các tôn giáo bạn, quan tâm ân cần đến từng con người. Ngài viết với một giọng đầy xúc cảm: “Xin Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi một Hội Thánh thế tục nấp dưới những lá cờ thiêng liêng và mục vụ! Tính thế tục ngột ngạt này chỉ được chữa lành khi nếm cảm không khí trong lành của Chúa Thánh Thần, Đấng giải thoát chúng ta khỏi tập trung vào chính mình, ẩn nấp đằng sau một dáng vẻ tôn giáo không có Thiên Chúa”[45].
5.- Vấn đề huấn luyện-thường huấn
Để có thể trung thành với linh đạo của Tu Hội, không thể không nói đến huấn luyện, thường huấn.
Hôm gặp gỡ các bề trên vào cuối năm 2013, khi đề cập đến việc huấn luyện, Đức giáo hoàng đã nói: “Mục tiêu là đào tạo ra những tu sĩ có một trái tim dịu hiền, chứ không chua (acido) như dấm”: khi nói tiếng Ý, ngài dùng chữ “acido”, mà các bản Pháp văn dịch là “aigri; aigre”. Khi áp dụng vào con người, từ “acido” có nghĩa là “có gương mặt khó khăn, tính khí khó chịu, một người khó gần, hễ nói ra là như muốn cắn người khác, mỉa mai chỉ trích cách cay độc”. Chúng tôi lại nhớ đến Diogène, ông tổ của phái Khuyển nho, ông này sống tại cổng thành Athêna, nhưng trong một cái chum vỡ, và chửi bới người qua lại, không coi ai là “người” cả. Một tu sĩ “acido” thì làm khổ người khác quá, mà chính mình cứ nghĩ là mình mới là người tế nhị, khéo léo, lịch sự, chỉ có điều là không ai nhận ra. Tại sao nhận “rượu ngon” mà bây giờ chỉ có “dấm chua”? Đức giáo hoàng đã nói rằng, nếu huấn luyện không đúng cách, thay vì tạo ra được những tu sĩ có trái tim dịu hiền, chúng ta sẽ tạo ra những “piccoli mostri”, những “tiểu quái vật”, “tiểu quỷ”![46] Nói vô phép, những “piccoli mostri” này, khi được trao những trách nhiệm lớn lao hơn, thì sẽ ra sao?
Cách đây khoảng 15-20 năm, thánh Gioan-Phaolô II và Bộ Đặc trách các Dòng Tu và các Tu Đoàn Tông Đồ thường ban những giáo huấn minh nhiên về huấn luyện. Trong những năm gần, các Đấng hữu trách không dạy minh nhiên về huấn luyện và thường huấn bằng các văn kiện lớn nữa. Trong Tông thư, Đức giáo hoàng Phanxicô cũng không dạy minh nhiên về công việc huấn luyện, nhưng các lời giáo huấn của ngài cho các tu sĩ chỉ có ý nghĩa khi có đời sống tu trì chân chính, tức là có một công tác thường huấn liên tục, cộng đoàn sống thường hằng trong bầu khí thường huấn[47]. Nếu các tu sĩ, nhất là các tu sĩ trẻ, cho rằng sau khi khấn trọn đời, mọi công việc huấn luyện đều chấm dứt, thì cũng ngay khi đó, họ bắt đầu đi xuống. Công việc huấn luyện khởi đầu chấm dứt, – thật ra chỉ có thể làm công tác huấn luyện khởi đầu trong một cộng đoàn huấn luyện tốt, tức là trong bầu khí thường huấn -, nhưng thường huấn thì chỉ chấm dứt với cái chết của người tu sĩ. Đây là vấn đề mà lâu nay các Tu Hội đều đưa lên làm mối quan tâm hàng đầu và là điều rất đáng mừng.
Chính thực trạng của tu sĩ yêu cầu thường huấn: “Do các giới hạn của con người, người được thánh hiến không bao giờ có thể coi là đã hoàn tất nơi mình việc cưu mang con người mới, con người mà trong mọi hoàn cảnh sống, đều có những tâm tình của Chúa Giêsu”[48], tức là “không ngừng đảm nhận thái độ của Đức Kitô”[49] “trong tâm hồn, trí khôn, sức lực suốt đời”[50]. “Không giai đoạn nào trong cuộc đời người ta có thể tự coi như đủ tự tin, đủ sốt sắng để không cần những cố gắng cụ thể nhằm bảo đảm sự trung tín bền đỗ, cũng như không có tuổi nào mà người ta có thể coi là mình đã hoàn toàn trưởng thành”[51]. Thế mà bản chất đời sống thánh hiến là: “Phải sẵn sàng luôn” để nêu một chứng từ đúng đắn, để đáp ứng các nhu cầu của Giáo Hội và thế giới.
Hoàn cảnh bên ngoài cũng đòi hỏi thường huấn: Tu sĩ cần học “tháp nhập tốt hơn vào thực tại biến chuyển với một nhịp độ thường điên cuồng”[52]. Lại có những “thời điềm” (dấu chỉ thời đại) giúp nhận ra được những con đường mới Chúa Thánh Thần đang theo mà thúc đẩy chúng ta làm cho đặc sủng nên hiện thực mãi. Thường huấn giúp các tu sĩ nhận định các thời điềm đúng đắn để có thể cộng tác với Chúa Thánh Thần, Đấng đang hoạt động trong thế giới và trong Hội Thánh.
Thường huấn cũng cần có đó như là “một suy tư thần học về đời sống thánh hiến,… một sự huấn luyện không bao giờ kết thúc nhằm “tham gia vào hành động của Chúa Cha, Đấng nhờ Thánh Thần, phát huy trong lòng con người… những tâm tình của Người Con”[53]. Thường huấn giúp chúng ta ý thức về những thay đổi giúp nhận ra những thay đổi này như những thời điềm, một kairos, một thời gian ân sủng, một thời thuận tiện cho cuộc canh tân ơn gọi, để chúng ta dùng mà tái tạo ơn gọi với một sinh lực mới và một sự trung thành hơn. Thường huấn giúp tái định vị và tái tạo thường xuyên chân tính của chúng ta trong bối cảnh mới của lịch sử.
Thách đố lớn nhất mà thường huấn phải đối phó là: vượt quá những chương trình và sinh hoạt cụ thể về thường huấn để tạo ra trong ta một tình trạng luôn luôn sẵn sàng cho huấn luyện.
Muốn thế, hẳn là phải nhấn mạnh trên các điểm như: Mỗi tu sĩ phải đảm nhận trách nhiệm về thường huấn như là một thách đố để tự huấn luyện mình (một dự phóng cá nhân để thường huấn ghép vào chương trình chung của cộng đoàn) và phải sẵn sàng đón nhận sự trợ giúp của các anh chị em có trách nhiệm và không có trách nhiệm trực tiếp đối với mình… Cộng đoàn địa phương phải là nơi ưu tiên cho thường huấn, nên phải là môi trường người ta tin tưởng được, nơi mà mọi người có thể tự do diễn tả những nhu cầu, tư tưởng, tình cảm… Các phụ trách cũng cần được huấn luyện tốt để họ có khả năng cổ võ thường huấn cho anh chị em. Họ phải trông chừng và đảm bảo cho cộng đoàn có một dự phóng thường huấn. Vậy cần quan tâm đến những điểm như: thông tin/truyền thông; những quan hệ liên vị; khả năng giải quyết những xung đột; nâng đỡ những người đang gặp khủng hoảng… Có những lúc “sự gần gũi yêu thương của bề trên rất cần”, chứ không chỉ cần sự có mặt của bề trên hay sự công minh của bề trên trong những điều truyền khiến”[54].
Khi đó chúng ta đạt được kết quả mà các nhà huấn luyện gọi là docibilitas. Docibilitas không chỉ là docilitas, bởi vì docibilitas là sự hiểu biết của trí tuệ kèm theo một số những yếu tố rõ rệt, ngoài sự tiếp nhận “ngoan ngoãn” (docile), vâng phục, mang nét thụ động[55]. Các yếu tố đó là: Cả con người hoàn toàn dấn thân cách chủ động và có trách nhiệm vào trong tiến trình huấn luyện, vì hiểu mình là nhân vật chính; Một thái độ cơ bản tích cực khi đứng trước thực tại: đó là thái độ giao hòa và biết ơn đối với chính lịch sử của mình và tin tưởng đối với người khác; Sự tự do bên trong và ước muốn thông minh là để mình được dạy dỗ bởi bất cứ mảnh chân lý nào và mảnh vẻ đẹp nào ở chung quanh mình, nhờ biết vui hưởng những gì là thật và những gì là đẹp; Khả năng tạo quan hệ với người khác, sống sự tương tác phong phú, vừa chủ động vừa thụ động, với thực tại khách quan, khác biệt với cái “tôi”, đến độ để cho mình được đào luyện bởi thực tại đó.
Những thái độ đó đặt người tu sĩ luôn luôn ở trong tư thế “học cho biết học”, hoặc sống trong tình trạng huấn luyện thường trực xuyên qua trọn cuộc sống. Khi đã qua thời gian huấn luyện khởi đầu, người tu sĩ đã đạt được tình trạng nội tâm thường hằng này để biết tự do học tập trong cuộc sống và nhờ cuộc sống, để chu toàn sứ mạng thật vững chắc và phong phú.
6.- Kết luận
Biết bao khó khăn, biết bao thách đố, biết bao khủng hoảng đang có đó như chờ người tu sĩ đi tới, và chẳng ai có ảo tưởng là đến lúc nào đó sẽ hết những khó khăn. Là môn đệ của Đức Giêsu, người tu sĩ nhớ mãi những lời Thầy chí thánh đã dạy: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13-14), “Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói” (Mt 10,16)… Chính những khó khăn và thách đố đó lại là những cơ may giúp tu sĩ trẻ tăng trưởng lên mãi và tỏa sáng mãi mà chu toàn nhiệm vụ ngôn sứ. Thân phận của người Kitô hữu, người tu sĩ là như thế.
Trong Sứ điệp cho Ngày Giới trẻ thế giới lần thứ 30, Đức giáo hoàng Phanxicô đã kêu gọi những người trẻ sống những điều mà khi đọc, chúng ta hẳn cũng phải giật mình, vì cũng nhận ra được giọng say mê, nồng nhiệt của ngài khi ban Tông thư cho chúng ta: “Trong Đức Kitô, các con gặp được sự hoàn tất trọn vẹn các giấc mơ của các con là sống tốt lành và hạnh phúc”; “Cha yêu cầu các con hãy lội ngược dòng”; “Một lần nữa, cha mời gọi các con gặp Chúa bằng cách thường xuyên đọc Kinh Thánh. Nếu các con không có thói quen đọc Kinh Thánh, hãy bắt đầu bằng các Tin Mừng. Hãy đọc mỗi ngày một đoạn. Hãy để cho Lời Thiên Chúa nói với trái tim các con, soi cho các con bước (x. Tv 119,105)”; “Ngoài ra, cha mời gọi các con nghĩ đến lời kêu gọi đi vào đời sống thánh hiến hay chức linh mục. Thật là đẹp khi thấy những người trẻ đón nhận ơn gọi hiến mình hoàn toàn cho Đức Kitô và việc phục vụ Hội Thánh! Các con hãy tự hỏi với một tâm hồn trong sáng và đừng sợ những gì Thiên Chúa yêu cầu các con! Khởi đi từ lời ‘xin vâng’ của các con với tiếng gọi của Chúa, các con sẽ trở thành những hạt giống mới mang niềm hy vọng trong Hội Thánh và trong xã hội. Các con đừng quên: ý muốn của Thiên Chúa là niềm hạnh phúc của chúng ta!”[56]
Nếu Đức giáo hoàng kêu gọi người trẻ sống cũng với một mức độ cao như thế là vì sứ điệp Tin Mừng chỉ có một và luôn đòi hỏi, đòi hỏi cao độ sự đáp trả của người cao tuổi cũng như người trẻ, nam cũng như nữ, giáo dân cũng như tu sĩ giáo sĩ. Chỉ có điều nếu những người trẻ, hoặc những tầng lớp giáo dân đã được hướng dẫn như thế và họ cố gắng đáp trả, tu sĩ trẻ muốn phục vụ họ sẽ phải sống thế nào?
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 88 (Tháng 5 & 6 năm 2015)