Luận đề về giáo hội địa phương

Suy Tư THẦN HỌC TRONG BỐI CẢNH CHÂu Á [1]

MỤC LỤC

A. Nhập đề

B. Luận đề về Giáo Hội Địa Phương (GHĐP)

I. Giải nghĩa các từ ngữ

1- Tin Mừng

2- Văn hóa

3- Giáo Hội Địa Phương

4- Ghi chú mở đầu các luận đề

 II. Nền tảng Kinh Thánh                                 

 Luận  đề 1-4

 III. Việc hình thành, cuộc sống và sứ mệnh  của GHĐP

1- Công tác hội nhập văn hóa và GHĐP – Luận đề  5-11

2- Hướng tới một nền thần học về GHĐP – Luận đề 12-14

3- Các Hội Đồng Giám Mục – Luận đề 15

 C. Kết luận

 

 A. NHẬP ĐỀ

 

 1.  Người ta bảo rằng những đổi thay đã xẩy  ra tại Á Châu trong khoảng 50 năm vừa qua, thì cả  về chiều rộng lẫn chiều sâu, quan trọng hơn hẳn những  bước phát triển của 500 năm lịch sử trước đây. Nhận  định như vậy, dù có lẽ là hơi quá đáng, nhưng không  phải là không trung thực nói lên điểm nòng cốt  của sự thật.

 

2.Những đổi thay to lớn ấy cũng chỉ là một phần  của những thăng trầm lịch sử hiện đang xảy  đến trong thời đại chúng ta. Riêng tại Á Châu, chúng  tôi đã phải trải qua nhiều năm trời hỗn  loạn trong thời Thế chiến thứ hai, rồi tiếp đến là  giai đoạn kết thúc thời thực dân: các “nước mới”  đã thành hình, và cái gọi là “ý thức về  Thế Giới Thứ Ba” đã lộ diện nổi bật; sau đó, đã  có hai “thập niên mở mang phát triển” —1960-1980 — với các làn sóng khổ đau và hy vọng đối nghịch  nhau, làm cho hai thực trạng này càng sôi động  thêm. Hiện nay, chứng cớ ngày càng hiển nhiên cho  thấy rằng “thế giới mới của Á Châu” đang hình  thành, như một khu vực mỗi ngày một quan trọng  hơn của địa cầu và của một gia đình nhân loại ngày  càng tùy thuộc vào lẫn nhau hơn. Có một nghi  vấn làm cho người ta phải tự hỏi đi hỏi  lại, đó là: Có phải Á Châu đã thực sự trở  thành sân khấu cho cuộc diễn xuất một chương mới của  lịch sử nhân loại rồi hay không?

 

3.Chắc hẳn là một khi “dưới chân đất đã động”,  thì sớm muộn gì Hội Thánh Đức Kitô tại Á châu, và  các Giáo Hội Địa Phương đang cùng nhau làm nên Dân  Chúa tại phần đất này của thế giới, cũng sẽ  không khỏi cảm thấy “nền móng chuyển rung”  ngay từ giữa lòng cuộc sống của chính mình.  Nếu tại Á Châu, một “thế giới mới” đang thực  sự ló dạng, thì các trào lưu, cả hỗn loạn náo  động lẫn mang đầy hứa hẹn, hiện đang tuôn chảy vào  giữa thời đại mới này, tất cũng sẽ dâng  lên tràn ngập ở giữa đời sống của các  cộng đồng kitô tại Á Châu. Và dĩ nhiên là các  luồng tư tưởng ấy sẽ chất vấn Tin Mừng và  Hội Thánh, được gặp thấy qua dạng thức mà chúng ta đã  học biết. Đối với chúng tôi, suy tư kitô giáo và việc  nghiên cứu thần học phải nẩy sinh lên từ chốn này,  vì chính tại đây chúng tôi gặp được lịch sử “đang lên”  của các dân tộc chúng tôi.

 

4.Các Giám mục Á châu đã có dịp hội họp với nhau  nhiều lân, kể từ khi chừng 200 vị đã gặp gỡ  với Đức Phaôlô VI, vào tháng 12 năm 1970, tại Manila,  trong dịp Đức Giáo Hoàng thăm Á Châu lần đầu tiên.  Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu (Federation of  Asian Bishops Conferences: FABC) cũng đã được thành  lập trong thời đó. Cuộc họp đầu tiên tại Đài Bắc  (1974) và các cuộc họp khác, cùng hàng loạt các  khóa hội thảo và đơn vị nghiên cứu, đã từ  từ nắn đúc nên một bầu khí cộng đồng cho những suy  tư và những mối quan tâm chung. Các cuộc hội họp này  đã giữ vai trò giống như những buổi “bắt  mạch” có định kỳ nhằm phát hiện những quan hệ  liên đới giữa các biến chuyển đổi thay của lịch sử  và cuộc sống của Hội Thánh tại các Giáo Hội Địa  Phương rải rác trong khắp vùng này.

 

5.Suốt trong hành trình lịch sử với những đổi thay  to lớn, và ngay cả giữa những biến động đột  ngột, mối quan tâm của những người kitô và  các Giáo Hội Địa Phương cũng vẫn không ngừng quy  hướng về với sứ mệnh của Hội Thánh. Các mối quan tâm  khác (đối với cộng đoàn và tinh thần hợp tác, đối  với thừa tác vụ, đối với hoạt động xã hội và  chính trị, đối với công tác đối thoại, việc phát triển và  nổ lực giải phóng, đối với việc đào tạo và việc  trao quyền cho giáo dân, v.v.) đều phải rút ra từ chính  sứ mệnh ấy, lý tồn tại và bối cảnh sinh hoạt của  mình. Đúng thế, vì theo một ý nghĩa rất sâu sắc, Hội Thánh  chính là sứ mệnh: Hội Thánh tiếp tục gánh vác sứ mệnh  của Thiên Chúa trong Đức Kitô ở giữa lòng  lịch sử nhân loại, và làm nhiệm tích của Đức  Kitô cũng như của tác vụ cứu chuộc Ngài đã  mang lại trong thế giới. Thái độ quan tâm như thế đối với  sứ mệnh của mình, khiến Hội Thánh cảm thấy cần phải  suy tư về chính mình. Câu hỏi mà Đức Phaolô VI coi là  chủ yếu đối với Công đồng Vaticanô II, cũng đã  trở thành câu hỏi then chốt đối với Hội Thánh  tại Á Châu: “Này Hội Thánh, Hội Thánh sẽ  nghĩ gì về chính mình?” (Ecclesia, quid dicis de te ipsa ?)

 

Bản tuyên ngôn về việc rao giảng Tin Mừng của  FABC I (cuộc họp đầu tiên của các Giám mục Á châu,  1974) đã phối hợp mọi cố gắng để minh định lại sứ mệnh  của Hội Thánh ở trong một bối cảnh cụ thể, tức  là ở vào tư thế phải ứng đáp “những  khát vọng tìm kiếm tiềm ẩn sâu kín nơi tâm lòng của  những anh chị em chúng ta” đang sống tại Á Châu  ngày nay. Có lẽ điểm chủ yếu của văn kiện  vừa kể, đã được nói lên trong đoạn sau đây:

 

 “Muốn rao giảng Tin Mừng tại Á Châu  hôm nay, thì cần phải làm cho sứ điệp và cuộc  sống của Đức Kitô thực sự “nhập thể” vào  trong tâm trí và đời sống của các dân tộc chúng  ta. Thế nên, ở vào thời điểm này của lịch  sử chúng ta, công tác cần phải lưu tâm đầu tiên trong  sứ mệnh rao giảng Tin Mừng là việc xây dựng một  Giáo Hội Địa Phương thực sự”. (FABC I,9).

 

6. Các Giáo Hội Địa Phương Á Châu nhận ra ngày càng  rõ hơn rằng, muốn củng cố công cuộc truyền giáo cách  cụ thể, muốn dấn thân vào những tác vụ hiện đại,  thì cần phải có những Giáo Hội Địa Phương thực sự  đóng vai thủ xướng và chủ động trong công tác  loan báo Tin Mừng, chứ không còn đơn thuần thụ động  tiếp nhận một nền kitô giáo Tây phương đang thời bành  trướng truyền giáo, tức là không còn tiếp tục một  mực “sao y bản chánh” Giáo Hội Âu Châu với  những hình thái, những tác vụ và những kiểu  mẫu thần học phát nguyên từ môi trường thực tế  của chúng và chịu ảnh hưởng sâu đậm của  những điều kiện lịch sử Âu Châu. Các “Giáo  Hội mới” phải bừng dậy và mạnh mẽ dấn  bước đi vào môi trường sống quanh mình; và trong  tiến trình ấy, các Giáo Hội mới phải thật sự trở  thành Hội Thánh đích thực, ngay tại ở chỗ thời  gian và không gian đang gặp nhau để tạo nên thời điểm  này của lịch sử. Là để cho muôn dân, thì từ  tận trong thực thể xương thịt của mình, Hội Thánh cũng  phải trở thành cho chúng ta, thực sự là Hội  Thánh của mỗi một dân tộc chúng ta. Bằng không, Hội  Thánh chẳng có thể thông dự vào trong những gì đang  nảy sinh ra tại các đất nước chúng ta, nơi các quê hương  chúng ta, trong thế giới mới này của Á Châu.

 

 Nếu đếm số năm, thì sẽ thấy các Giáo Hội Địa Phương tại  Á Châu (ít ra một số lớn) không còn phải là  “trẻ”. Nếu có cái gì mới mẻ trẻ trung nơi  họ, thì đó chính là một ý thức mới, một ước vọng và  một ý muốn mới: muốn trở thành Hội Thánh thực sự.  Nhưng phải là một Hội Thánh sống động ở trong  và cho giây phút lịch sử hiện tại đây, ngay ở  giữa lòng các dân tộc này và trong bối cảnh  của những bước phát triển mau lẹ đang xảy đến  cho cuộc sống cũng như cho các nền văn hoá của họ.  Các cộng đồng địa phương phản ánh cho thấy “những  hoài vọng mới, những ước mơ mới, những sáng tác  mới” đang bừng nở ra chung quanh họ. Họ biết các  điều mới ấy đang hoặc sẽ tiến hành, dù là  với thành công hay thất bại, chậm hay nhanh, cùng với  hay không biết đến Phúc Âm, và dù có Hội Thánh  tham dự hay không. Đối với họ, đây là giờ phút của  triệu tập và của thách đố; và đó cũng là  cái kairos đối với hết thảy chúng ta.

 

7. Toàn bộ các cộng đồng kitô tại Á Châu này  chưa chiếm tới 2% của dân số trong vùng. Trừ Phi  Luật Tân ra, là nước có 83% tín hữu công giáo và  89% tín hữu kitô trong số 60 triệu dân, tại các nước khác,  người kitô chỉ là những thiểu số rất nhỏ.  Ở Á Châu, Hội Thánh thật sự là một đoàn  chiên nhỏ, pusillus grex, một thiểu số hết sức nhỏ  bé ở giữa một biển người mênh mông bát ngát  theo những tín ngưỡng khác hoặc thuộc nhiều truyền  thống tôn giáo khác. Bởi đó, các Giám mục và các  người lãnh đạo mục vụ, các nhà thần học hoặc  các quan sát viên ở Á Châu, đã nhiều lần nhận định cho rằng trong thời hậu thuộc địa, Hội Thánh tại đây  đã lâm vào một tình trạng hầu như không thể hiểu  nổi đối với các giáo hữu Tây phương, và như thế là  bởi một số lý do lịch sử.

 

8. Ngoài thực trạng đa dạng tôn giáo này, và dính  liền với thực trạng này, khắp nơi còn có rất nhiều  nền văn hóa khác nhau. Các cộng đồng kitô thường bị coi  là ngoại lai, vì người ta cầm họ như là những  tổ chức du nhập từ các nước ngoài vào, cũng  như bởi vì họ có tín ngưỡng tôn giáo, và nhiều  khi cả văn hóa nữa, khác với các cộng đồng sống  chung quanh. Nhiều chánh phủ coi họ như là những  lãnh vực ngoại lai, với những ý thức hệ Tây phương,  với những thủ lãnh vâng theo chỉ thị của các  thế lực nước ngoài, và với lối sống mô phỏng  theo kiểu mẫu Tây phương. Đồng bào của họ thường  nghĩ rằng các kitô hữu không quan tâm gì nhiều đến các  phong trào dân tộc và những lo âu của nước  nhà mình. Có thực tâm hay không thì đó là một chuyện  khác; nhưng sự việc là nhiều khi họ cũng tố cáo đồng  bào kitô là không chịu chia sẻ những nguyện  vọng của các chính nghĩa quốc gia và các nhóm ái quốc,  cũng như không biết ưu tư cho đủ đối với các nhu cầu  và các khổ đau, đối với tình trạng bị áp bức và bóc  lột của quần chúng không kitô, bởi vì họ vẫn  còn liên hệ với những ai còn đang cố tiếp tục  kéo dài cuộc bóc lột bằng hình thức đô hộ kinh tế.

 

10. Khác với các cộng đồng kitô Tây phương, Hội Thánh ở  Á Châu và các Giáo Hội Địa Phương tại đây không có  những “thời đại kitô” để mà nhìn lại. Đối  với đa số các Giáo Hội Á Châu, “Truyền thống”  thường chỉ là lịch sử xa lạ của Hội Thánh tại  các lục địa và của các dân tộc khác, ít hoặc không  dính dự gì với kinh nghiệm và lịch sử của mình cũng  như của dân tộc mình cả.

 

11. Chính vì đang đứng ở giữa tình cảnh vừa phác  họa trên đây, nên chúng tôi cảm thấy cần phải dốc  toàn tâm toàn lực vào việc suy tư thần học về  Giáo Hội Địa Phương tại Á Châu hiện nay. Ngoài một  vài nét phác họa khái quát về các “Giáo Hội trẻ”  (ecclesiae novellae ) đọc thấy ở trong sắc lệnh Ad  Gentes (chương 3), Công đồng Vaticanô II đã không khai  triển rộng về đề tài này, bởi lẽ thời  ấy — ít nhất là trong thập kỷ 1960, — hình như  đó không phải là mối băn khoăn cấp thiết đối với  các Giáo Hội Địa Phương Tây phương.

 

12.    Tuy nhiên, đối với chúng tôi, những “Giáo Hội  trẻ” tại Á Châu, việc cần phải suy tư về lĩnh  vực thần học này cho sâu xa hơn, là một công tác  cấp thiết. Từ nhiều năm nay, cả các Giám mục lẫn  các nhà thần học đều đã ý thức được rằng vấn đề  này là một trong những mối quan tâm bách thiết  nhất cần phải làm cho các cộng đồng kitô chúng tôi  thấu hiểu. Chỉ những ai không sống đụng chạm với những  khát vọng, trông chờ của các dân tộc và của  cộng đồng chúng tôi, thì mới không nắm được hoặc là  không cảm nhận ra nổi mối quan tâm kia mà thôi: đúng  họ là những “ngoại kiều” sống ở giữa  chúng tôi.

 

13.    Chính FABC (Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu)  đã yêu cầu chúng tôi, là một nhóm các thần học  gia, dành ưu tiên suy tư cho đề tài nghiên cứu này.  Như vậy, đây là đề tài đầu tiên được Uỷ Ban Cố  Vấn Thần Học (Theological Advisory Commission: TAC ) của  FABC bàn đến, cũng ngay trong buổi họp đầu tiên, nhóm  hồi mùa xuân 1986, tại Hồng Kông.

 

14.    Sau gần năm năm (1986-1990), khi việc nghiên cứu đang tiến  hành và ngày càng nắm chắc được điểm chủ  chốt hơn, chúng tôi bắt đầu nhận ra rằng chủ đề “Giáo  Hội Địa Phương” cần phải được coi như là một cố  gắng để thấu hiểu về cách thức một cộng đồng đức tin “tự  hiện thực hóa chính mình” trong tư thế là Hội Thánh.  Hiểu biết Giáo Hội Địa Phương là hiểu biết quá trình phát  sinh Giáo Hội (ecclesiogenesis ) tại một nơi, vào một  lúc, ở trong một nền văn hóa cụ thể.

 

     Chúng tôi cũng ý thức rằng dự án và tiến trình này  là một phương thức khác để tìm hiểu về công tác hội  nhập văn hóa. Thực ra, đối với chúng tôi là những  người đang sống trong các Giáo Hội Địa Phương tại Á  Châu, công tác hội nhập văn hóa đồng nghĩa với nổ lực “tự  hiện thực hóa” của Hội Thánh tại một nơi. Thành  thử, chúng tôi đã đưa điểm nhận định sáng suốt này  vào trong tài liệu nghiên cứu của chúng tôi đây.  Đó là điểm nhận định mà càng tiến tới trong nổ  lực tìm hiểu, thì chúng tôi càng nhận ra rõ hơn, qua  cách nghiên cứu các thực tại lịch sử theo bối cảnh  riêng và theo như kinh nghiệm chúng tôi nắm được. Thực  vậy, suốt năm năm bàn luận, chúng tôi đã cố gắng  đi từ những thực tại cụ thể và kinh nghiệm thực  tế để nghiên cứu, chứ không phải chỉ biết giở trò  múa rối với những ý niệm lý thuyết trên mây.

 

15.  Chúng tôi xin giới thiệu tài liệu này như là  cố gắng đầu tiên của chúng tôi để tiến hành một  cuộc nghiên cứu thần học về “Giáo Hội Địa Phương trong  bối cảnh Á Châu”. Trước hết, xin nói rõ rằng  ở đây chúng tôi không chủ ý nhắm một điều gì ngoài  việc mở ra một cuộc đối thoại với những ai cùng  chia sẻ những quan tâm và khát vọng như chúng tôi.  Thần học về Giáo Hội Địa Phương còn đang ở trong thời  phôi thai, và như thế không những ở Á Châu  thôi, mà còn ở trong Hội Thánh trên khắp thế  giới nữa. Những nhà thần học để tâm suy tư và  viết về đề tài này thì không phải là nhiều,  và nếu chỉ ghi lại những tác phẩm thực sự đáng kể,  thì thư mục về chủ đề này cũng không có là  mấy. Nhiều Giám mục Á Châu đã yêu cầu chúng tôi  khởi công cho tiến trình học hỏi và bàn luận  này. Các luận đề sau đây là những hoa trái đầu  mùa của công việc chúng tôi. Chúng tôi chỉ hy vọng  là chúng sẽ gióng lên được một lời mời gọi  và thối thúc những người khác đang sống trong các  Giáo Hội Địa Phương Á châu, để họ cũng biết dành  ưu tư cho vấn đề mà tiếp tục công tác chúng tôi đã  bắt đầu, trong cùng một tinh thần như chúng tôi đã  có khi thăm dò về đề tài — nghĩa là chỉ nóng  lòng mong ước làm sao để tìm cho ra sự thật, — nhằm  nói lên niềm hy vọng hỷ hoan vào một tương lai đầy  hứa hẹn cho Hội Thánh tại các đất nước và giữa các  dân tộc của chúng tôi.

 

 B. LUẬN ĐỀ VỀ GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG

 

I. GIẢI NGHĨA CÁC TỪ NGỮ   

 

 Giáo Hội Địa Phương phát tích từ cuộc gặp gỡ giữa  một dân tộc với Tin Mừng. Và đã là một dân  tộc thì thế tất phải sinh sống ở trong một bối cảnh  văn hóa cụ thể. Nếu thế thì trước hết, cần phải giải  nghĩa các từ ngữ căn bản gặp thấy trong cách đặt  vấn đề như vừa nói; đó là các từ ngữ: “Tin  Mừng”, “văn hóa” và “Giáo Hội Địa Phương”.

 

 1. TIN MỪNG   

 Từ ngữ “Tin Mừng” hay “Phúc Âm”  có nghĩa là “tin tốt” (evangelion ). Đây là  từ mà ngôn ngữ của Tân Ước đã mượn từ  Cựu Ước, nhưng với một ý nghĩa đặc biệt mà chính từ  ấy cũng đã hàm ngụ, đó là: loan báo ơn cứu  độ (Is 40, 1f), loan báo ơn giải phóng (Is 61,1f) và  sự việc Nước Thiên Chúa đang đến (Is 52,7).

 

 Tin Mừng về Vương Quốc Sự Sống    

 

 Đức Giêsu đã đến rao giảng Tin Mừng của Thiên  Chúa; Ngài nói: “Thời kỳ đã mãn và  Nước Trời đã đến gần” (Mc 1,14-15). Ngài “được  xức dầu tấn phong để đi loan báo Tin Mừng cho những  kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18tt). Lời loan báo Đức  Giêsu ra đời được nhắc đến như là một tin lành  cứu độ (x. Lc 2,10-11). Vì thế, trong Tân Ước, Phúc Âm  là tin lành về tình trạng giải phóng, về ơn cứu  độ và về Nước Trời. Gioan không dùng danh từ  “Tin Mừng”. Ngài thay thế các từ ngữ  “vương quốc Thiên Chúa” và “cứu độ” bằng  từ “sự sống” (xem Ga 3,16-17). Đức Giêsu nói: “Tôi  đến để cho mọi người được sống và được sống dồi  dào” (Ga 10,10).

 

 Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô

 

 Tin Mừng cũng được đồng nhất hóa với chính Đức Giêsu.  Chính bản thân của sứ giả đã trở nên trung  tâm điểm của Tin Mừng. Phúc Âm là chính Đức  Giêsu (Mc 1,1). Nơi Ngài, Nước của Thiên Chúa đã  tỏ hiện (Mt 12,28). Người nào bỏ mọi sự vì  Đức Giêsu và vì Tin Mừng, thì sẽ được thưởng  gấp trăm lần ngay ở đời này (Mc 10,30).

 

Trong Công Vụ Tông Đồ và các thư Thánh Phaolô, việc đồng  nhất hóa này còn được khai triển rộng hơn. Tin Mừng  trở thành “tin mừng về Đức Giêsu” (Cv 8,35;  17,18), “về Chúa Giêsu” (Cv 11,20; Rm 1,3tt), “về  danh Đức Giêsu Kitô” (Cv 8,12), “về Đức Kitô” (Rm  15,19tt; 2Cr 2,12), và “về vinh quang của Đức Kitô”  (2Cr 4,4). Cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu  trở thành trung tâm điểm của Tin Mừng (1Cr 15,1-5).

 

 Tin Mừng là Lời nói (Ngôn từ) mà  cũng là Chứng từ   

 

 Trong các văn bản của Gioan, việc đồng nhất hóa Tin  Mừng với Đức Giêsu được diễn tả bằng các từ  “Lời” và “Chứng tá”. Kinh nghiệm về  Tin Mừng được miêu tả như là kinh nghiệm về “Lời  sự sống” (1Ga 1,1). Chính Đức Giêsu đã đến để “làm  chứng” cho Sự Thật (Lời) (Ga 18,37); và nếu tín  hữu có được kinh nghiệm về Lời qua hành động công  bố, thì cũng chính là nhờ ở sự việc “làm  chứng” (1Ga 1,2).

 

 Tin Mừng như là Ân sủng, Thần Khí  và Quyền năng

 

 Cộng đồng kitô tiên khởi có kinh nghiệm về Tin Mừng  như là ơn tha thứ và ân lộc ban Thần Khí (Cv 2,38; 3,26;  10,43; 13,38; 17,30). Đó chính là kinh nghiệm về ơn cứu độ,  được mô tả như là tin lành “bình an” do Đức  Giêsu Kitô mang đến (Cv 10,36). Đối với Phaolô, Tin Mừng  là quyền năng cứu độ, tức là quyền năng của  Thiên Chúa để cứu rỗi tất cả những ai có lòng  tin (Rm 1,16), là sức mạnh cứu độ Thiên Chúa đã tung  ra trong thế giới loài người để cứu rỗi mhững  ai có lòng tin. Vì vậy, Tin Mừng được công bố không  những bằng lời nói mà cả với quyền năng và  Thần Khí nữa (1Tx 1,5). Tin Mừng là phổ quát qua  lời mời gọi gửi đến cho hết thảy mọi người  và qua sự việc được áp dụng “cho bất cứ ai có lòng  tin” – cả Do thái lẫn Hy lạp (Rm 1,16).

 

 Tin Mừng như là Mầu nhiệm

 

 Tin Mừng là mầu nhiệm (mysterion ), tức là  kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: giữ kín từ muôn  thuở (1Cr 2,7), và đã được mạc khải và  thể hiện trong và qua Đức Giêsu Kitô (1Cr 2,1-2). Tầm trọng  yếu toàn diện của mầu nhiệm này nằm ở chỗ  nó là một kế hoạch liên quan tới toàn thể vũ  trụ trong thời viên mãn, và nhắm tới tiêu đích  quy tập vạn vật trên trời cũng như dưới đất vào  trong Ngài (Ep 1,9-10). Do đó, Tin Mừng cần phải  được loan báo qua hình thức đối thoại, nghĩa là như một  cuộc gặp gỡ giữa thực trạng biểu hiện của mầu  nhiệm này ở giữa dòng lịch sử qua mạc khải  Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Kitô, và sự hiện  diện của mầu nhiệm ấy ở trong những gì khác mà  vũ trụ vén mở cho thấy.

 

 Hội Thánh: Hiện thân của Tin Mừng   

 

 Tin Mừng ấy, — hoặc là quyền năng của Thiên  Chúa để cứu rỗi, là Nước Thiên Chúa, hay là sự  sống viên mãn, — đã hoạt động nơi Đức Giêsu nhờ  Thần Khí: khởi đầu từ thời Ngài công khai rao  giảng , với các phép lạ là những dấu chỉ của  Tin Mừng này (Mt 12,28); rồi tiếp đó, đã hoạt  động một cách quyết liệt qua cuộc tử nạn và phục  sinh của Ngài. Sinh thời, Đức Kitô là hiện  thân của Tin Mừng tỏ lộ một cách cụ thể trong  lời rao giảng, lối sống và thái dộ dấn thân của  Ngài. Qua cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài,  Đức Giêsu Kitô đã trở thành Thần Khí đầy sức  sống và ban sự sống (1Cr 15,45). Như vậy, Tin Mừng mà  Đức Kitô là hiện thân, đã trở thành một sức  mạnh hiện diện ở giữa tất cả những ai tin  vào các giá trị như chân lý, tự do và công bằng;  các giá trị này làm chứng về sự hiện diện của  Nước Trời ở giữa loài người. Chính Tin Mừng  ấy, chính quyền lực cứu rỗi ấy của Thiên, đang được  thể hiện ở trong Hội Thánh, tức là ở trong cộng  đồng các tín hữu, nhờ Thần Khí của Đức Kitô (Thiên  Chúa). Như thế, Hội Thánh ngày nay đang giữ vai trò  làm hiện thân cho Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô  giữa lịch sử loài người. Do đó, Hội Thánh là  “môi trường” để làm công tác loan báo Tin Mừng  (Phúc âm hóa).

 

 2. VĂN HÓA   

 

 Có hàng trăm cách để định nghĩa văn hóa. Dù vậy,  không một định nghĩa nào đã thành công trong việc  đưa ra một ý niệm đầy đủ bao gồm toàn bộ thực tại  phức tạp của cái thường được gọi là văn hóa.  Cho nên, Công đồng chung Vaticanô II đã chọn phương thức  mô tả hơn là cố định nghĩa văn hóa cho chính xác (xem Gaudium et Spes , 53). Trong văn kiện về Giáo Hội Địa Phương  này, chúng tôi không theo một định nghĩa nhất định nào  về văn hóa cả, song sẽ hiểu văn hóa theo cách mô  tả của Vaticanô II, và theo hiện tình khảo cứu  của khoa nhân chủng học. Và chúng tôi sẽ nhìn  văn hóa từ bốn góc cạnh như sẽ trình bày dưới  đây. Nếu được phối hợp lại, thì những cách nhìn này  sẽ giúp chúng ta có được một ý niệm khái quát về cái  thường được gọi là văn hóa.

 

 Văn hóa như là việc bồi dưỡng tinh thần  nhân loại  

 

 Trong các ngôn ngữ gốc Latinh, từ văn hóa (cultura/culture )  phát nguyên bởi từ cultura , có nghĩa là trồng  trọt, như thấy trong trường hợp các chữ “ agriculture”  (nông nghiệp), “ horticulture ” (kỹ thuật làm  vườn),v.v… Quan niệm cổ điển coi văn hóa như là tiến  trình nội tâm của việc con người trau giồi hoặc uốn  nắn trí tuệ cùng các năng lực tâm linh khác; và vì  thế, văn hóa được coi như là một cái gì trực tiếp liên  hệ với đời sống tri thức, với nghệ thuật, văn học, và  các khoa nhân văn, vv… Dĩ nhiên, theo quan niệm này, văn  hóa chỉ được áp dụng cho những cá nhân, những từng  lớp hoặc dân tộc ưu tú và có học thức, khác hẳn với  dân chúng vô học, bán khai, lạc hậu. Hơn nữa, một cách  nào đó, văn hóa còn bao hàm cả tính chất phổ  quát và trường tồn. Những cá nhân và những  nhóm cần phải khép mình vào trong các kiểu mẫu  và mô hình được coi là có văn hóa. Quan niệm cổ điển  này đã xuất hiện tại Âu Châu trong thời Phục  hưng và thế kỷ “Ánh sáng” (tk 18), và  đã giữ được ưu thế rất lâu, nghĩa là cho đến thời  gian gần đây. Đó cũng là quan niệm về văn hóa đã  từng đi sát cánh với công cuộc truyền giáo trong thời  thuộc địa. Rao giảng Tin Mừng cũng bao hàm công  cuộc mang văn hóa tới cho các dân tộc và các quốc gia,  và chính sứ mệnh kitô cũng đã được coi như là  “sứ mệnh văn minh hóa”.

 

 Quan niệm văn hóa theo kinh nghiệm  

 

 Văn hóa không phải là đặc quyền của một ít cá  nhân hoặc dân tộc. Không có dân tộc nào mà không  có văn hóa. Nói tới văn hóa tức là nói tới các truyền  thống, tập quán, phong tục và tổ chức của một dân  tộc. Các khoa nhân chủng học và xã hội học đã  nêu bật sự kiện này: văn hóa là một thực tại phát  sinh từ kinh nghiệm, và không chỉ liên hệ tới tâm  trí và các tiến trình bên trong của trí tuệ mà  thôi, nhưng còn liên quan tới cả các tiến trình bên  ngoài ở giữa cuộc sống xã của một dân  tộc nữa. Theo ý nghĩa này, văn hóa là “toàn  bộ tổng hợp ấy, bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,  đạo đức, pháp luật, tục lệ cùng bất cứ khả năng  và thói quen nào mà con người thu thập được  trong tư cách là thành phần của một xã hội”.  Lối nhìn văn hóa như thế là một lối nhìn rộng mở  để đón mọi hình thức khác biệt và đa dạng. Toàn thể  nhân loại có thể được coi như là một đại gia đình của  các dân tộc, trong đó mỗi dân nước giữ nguyên phong  tục, truyền thống, tín ngưỡng, công trình mỹ thuật,  v.v… riêng của mình.

 

 Chiều kích tượng trưng của văn hóa

 

     Văn hóa bao hàm không những các truyền thống, những  cách cư xử, v.v., mà còn cả những biểu  tượng, ý niệm, giá trị, ngôn ngữ, ý nghĩa nữa. Những  phong tục, truyền thống và tổ chức của một dân tộc  hàm ngụ hoặc tiêu biểu cho các giá trị, tư tưởng và  quan niệm của dân tộc ấy. Nhờ thế, việc giao tiếp  hoặc thấu hiểu nhau mới có thể trở thành sâu đậm  thiết cốt hơn giữa nội bộ những nhóm hoặc những  dân tộc có cùng một văn hóa chung. Về phương diện này,  văn hóa “biểu thị một thứ mô dạng được truyền lưu theo  dòng lịch sử và được coi là mực thước cho ý  nghĩa tiềm ẩn ở nơi các biểu tượng, và đồng thời  cũng biểu thị một hệ thống quan niệm diễn đạt theo  hình thức tượng trưng, thừa kế từ các thế hệ trước,  nhờ đó con người có thể trao đổi, lưu truyền và  mở rộng kiến thức cùng thái độ của mình đối với  cuộc sống”.

 

     Theo ý nghĩa này, văn hóa gắn bó rất mật thiết với tôn  giáo. Đặc biệt tại Á châu là nơi các hình thức và  các biểu hiện của văn hóa đều mang viễn ảnh,  quan niệm, cả đến những giá trị cùng biểu tượng  nữa, của tôn giáo, và lấy đó làm căn bản  cũng như làm nguyên lý hợp thức cho sự có mặt của  mình.

 

 Quan niệm xã hội như là một thực tại văn  hóa

 

     Có thể coi chính xã hội như là một hệ thống văn hóa.  Vì cách tổ chức và quản trị của một xã hội,  cách phát triển kinh tế, cách thức các phần tử xã  hội trao đổi với nhau, v.v., thường là những gì  xuất phát từ đặc tính văn hóa và thiên tư của  một dân tộc. Vì vậy, tách biệt đà phát triển kinh tế  và công tác cai quản chính trị ra khỏi nền văn  hóa của dân tộc, thì sẽ gây ra những hậu quả  tác hại trầm trọng, như lịch sử và kinh nghiệm đã  chứng tỏ cho thấy, nhất là trong Thế giới thứ ba hiện  nay. Có một sự thật đã được minh chứng, đó là: bao  lâu văn hóa chưa đổi thay, thì không thể có một thay đổi  hữu hiệu và lâu bền trong một xã hội được. Chính  vì vậy, những thời gian gần đây, văn hóa đã trở  thành vấn đề chính yếu trong mọi lãnh vực cuộc sống  xã hội.

 

Dĩ nhiên là bốn cách nhìn và bốn phương thức tìm hiểu  về văn hóa trình bày trên đây, bổ túc cho lẫn nhau.  Có thể kết luận rằng, rốt cuộc, văn hóa chỉ là cách  sống cụ thể của con người ở giữa một dân  tộc, một nhóm hoặc một quốc gia nhất định. Trong khi đó, bản  sắc loài người (humanum ) lại tiềm ẩn dưới  mọi hình thức văn hóa, làm mối dây nối kết để mọi nền  văn hóa có thể gặp gỡ lẫn nhau. Và bất cứ nền  văn hóa cá biệt nào cũng đều biểu lộ sắc thái phong  phú của bản sắc loài người trong một cách  kiểu có một không hai.

 

 3. GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG   

 

 Công đồng Vaticanô II đã không dùng cùng một thứ  từ ngữ nhất định khi đề cập đến những hình thái  địa phương của Hội Thánh. Thành ngữ “Giáo Hội  cá biệt” (Particular Church ) được dùng đến 24  lần — 12 lần ám chỉ đến các giáo phận, còn các lần  khác thì để chỉ những nhóm các Giáo Hội thuộc cùng  một tổ chức, chẳng hạn như là thuộc cùng một loại  lễ chế (xem HN14; ĐP 2-4,10,16, 17,19). Từ  ngữ “Giáo Hội Địa Phương” (Local Church ) được  dùng 8 lần để chỉ hoặc là giáo phận, hay là các  nhóm Giáo Hội, và cả đến giáo xứ nữa. Số 14  trong Sắc Lệnh về Hiệp Nhất dùng các từ “cá  biệt” và “địa phương” như là những từ  đồng nghĩa, để chỉ những nhóm các Giáo Hội Đông phương,  đặc biệt là các Giáo Hội Thượng phụ. 

 

 Trong Bộ Giáo luật mới, “ ecclesia particularis ” luôn luôn có nghĩa là giáo phận. Cả từ ngữ  ecclesia localis (“Giáo hội Địa Phương”) lẫn ecclesia universalis (“Giáo Hội Hoàn Vũ” đã  không có mặt trong bộ Giáo luật; văn kiện này thường  dùng hoặc là cách nói “toàn thể Hội Thánh”  (thỉnh thoảng chỉ nói là “Hội Thánh”) hoặc là  danh xưng “Giáo Hội cá biệt”.[2] Bộ Giáo luật cũng phân biệt “Giáo Hội Latinh” với các Giáo Hội khác, được gọi là “các Giáo Hội  lễ chế có luật riêng” (ecclesiae sui juris ); có  người đề nghị nên dịch thành ngữ này ra “Giáo  Hội tự trị”. Còn “lễ chế” thì bộ Giáo luật  định nghĩa là “di sản phụng vụ, thần học, tu đức  và pháp chế, với những nét khác biệt về văn hóa  và hoàn cảnh lịch sử của một dân tộc;  di sản ấy được diễn đạt theo cách thức sống đạo riêng  của mỗi Giáo hội với quy luật riêng của mình”  (Schema Codicis Juris Canonici Orientalis , 1988, Cn. 27,2).   

 

Dùng từ ngữ một cách thiếu thống nhất như vậy  có thể gây ra một số khó khăn. Có những thần học gia  đề nghị là nên đơn thuần đi theo cách nói của Giáo  luật; họ gọi giáo phận “Giáo Hội cá biệt”, và  dùng từ ngữ ” Giáo Hội địa phương” để chỉ  các hình thức cụ thể khác của Giáo Hội. Có người  khác lại chủ trương rằng các nhà thần học không cần  gì mà phải chịu ràng buộc bởi cách dùng  từ mới của Giáo luật, như là “Giáo Hội cá  biệt” chẳng hạn, và họ đồng ý dùng thành  ngữ “Giáo Hội địa phương”, rồi khi cần thì nói rõ  là danh từ ấy dùng để chỉ một giáo phận, một  giáo xứ, một cộng đồng kitô nhỏ, hoặc là một nhóm  các địa phận.

 

     Phía đằng sau việc lựa chọn các từ ngữ này, còn  có cả một vấn đề thần học quan trọng: những điều  kiện xã hội và văn hóa sẽ ảnh hưởng cho  tới mức nào vào trong việc thần học định nghĩa một  hình thức địa phương của Hội Thánh? Dựa theo đường lối  của cha Henri de Lubac và Bộ giáo luật mới, Ủy  Ban Thần học Quốc tế chủ trương rằng tiêu chí (criterion ) để xác định bản sắc của một Giáo Hội cá biệt (tức  là một giáo phận), là một tiêu chí “thần học  tự bản chất nó” (essentially theological ); còn  tiêu chí để định nghĩa một Giáo Hội địa phương (tức là  một tổ chức các Giáo hội cá biệt), chỉ mang tính chất “chủ  yếu là văn hóa xã hội” mà thôi (xem H.de Lubac, L’unique Eglise du Christ , Paris, Centurion 1985, 33)

 

     Liên quan đến ý kiến trên đây, có hai điểm đòi phải  giữ thái độ dè dặt. Thứ nhất: cách đặt hai từ  ngữ “thần học” và “xã hội/văn hóa”  ngang nhau trên cán cân so sánh, có thể làm cho hiểu rằng  bản sắc xã hội/văn hóa chẳng có một ý nghĩa nào  trong bình diện thần học cả; điều này sẽ gây ảnh  hưởng trầm trọng đến khoa giáo hội học, và có thể  cần phải được đặt lại vấn đề. Thứ hai: nếu thường  xuyên dùng từ ngữ “Giáo Hội cá biệt” để  chỉ một giáo phận nhằm phân biệt với “Giáo Hội Hoàn  Vũ”, thì có thể gây ra cảm tưởng cho rằng công  giáo tính của Giáo Hội cá biệt nằm đâu xa ở phía  ngoài. Cũng vậy, từ ngữ “Giáo Hội Hoàn  Vũ” dùng để phân biệt với “Giáo Hội cá biệt”,  có thể gây ra hiểu lầm về phổ quát tính của Giáo Hội  Hoàn Vũ, vì sẽ bị coi như là một tổ chức siêu  quốc gia hay quốc tế.

 

     Vì những lý do như thế nên chúng tôi đã quyết định  dùng một cách thường xuyên thành ngữ “ Giáo  Hội Địa Phương ” (Local Church ) trong văn kiện này;  nếu cần, thì chúng tôi sẽ chỉ rõ đối với các trường  hợp ứng dụng cụ thể khác.

 

     Để chỉ những gì thường được gọi là “lễ  chế” (Rites ), chúng tôi sẽ theo cách nói của  các Hội đồng Giám mục Ấn độ, cũng như của các  thần học gia các ngài, mà dùng từ ngữ  “ các Giáo Hội Cá Thể ” (Individual Churches ).

 

 LỜI CHÚ DẪN CÁC LUẬN ĐỀ

 

     Để việc nghiên cứu văn kiện này được dễ dàng,  xin nói thêm một vài lời về phương thức tiến hành,  về cách tổ chức và thứ tự của các luận đề sau đây.

 

     Đầu tiên là những viễn ảnh căn bản của  Kinh Thánh về Giáo Hội Địa Phương (luận đề 1-4): có thể coi  đó là nền móng của văn kiện.

 

     Tiếp đó là những luận đề có tính cách kinh nghiệm  và hiện sinh. Như vậy, tài liệu này không bắt  đầu với việc định nghĩa Giáo Hội Địa Phương, rồi sau đó đem  áp dụng định nghĩa ấy cho các Giáo Hội ở trong những  môi trường với nhiều đặc nét văn hóa khác nhau của  Á châu; trái lại, chúng tôi cố gắng nghiên cứu thực  trạng của Giáo Hội Địa Phương như là một thực tại  phát sinh từ cuộc gặp gỡ giữa Tin Mừng và  văn hóa của một dân tộc (luận đề 5-9).

 

     Các suy tư về công trình hội nhập văn hóa — một công  trình tiến hành theo mẫu mực của mầu nhiệm Nhập  Thể — sẽ tìm hiểu về cuộc gặp gỡ của Giáo  Hội Địa Phương với toàn bộ bối cảnh của chính nơi  Giáo Hội sinh sống: bối cảnh này tất nhiên phải  bao gồm cả những thực tại xã hội, kinh tế và  chính trị nữa. Dựa theo phương pháp học, các luận đề sẽ  khởi đầu đi từ kinh nghiệm, từ những suy tư  về kinh nghiệm, và sau đó, sẽ cố gắng tìm hiểu cho  biết Giáo Hội Địa Phương là gì.

 

     Trong bước kế tiếp, các luận đề sẽ lấy lại giáo huấn  của Vaticanô II, và thử đưa ra một ý niệm thần  học về bản chất, về các cấu tố và các đặc điểm  cũng như về cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội  Địa Phương (luận đề 10-14).

 

     Trong phần kết thúc tài liệu, sẽ có một luận đề  cuối cùng (số 15) bàn đến một vấn đề quan trọng và  hiện đang làm đề tài cho nhiều cuộc bàn thảo:  đó là vấn đề các Hội Đồng Giám Mục.

     Những suy tư thần học và những luận đề nêu lên  trong văn kiện này không nhằm một đích nào ngoài  chủ đích thuần túy mục vụ: nghĩa là để giúp các thành  phần trong Hội Thánh — các Giám mục, linh mục, tu sĩ và  giáo dân — thấu hiểu cho rõ hơn, cảm nghiệm cho  sâu đậm hơn, làm chứng và truyền thụ cho đắc lực  hơn, mầu nhiệm về Giáo Hội Địa Phương, với toàn bộ thực  tại thiêng liêng cũng như với bản sắc “trần tục”  hết sức cụ thể đâm rễ sâu vào trong môi trường  sống của chính Giáo Hội. Và cũng là để mở  đường cho công tác hiện tại hóa Giáo Hội Địa Phương ngay  tại trong bối cảnh của toàn bộ thực tại cuộc  sống, trong đó Giáo Hội có bổn phận phải rao giảng  Tin Mừng và hoàn tất sứ mệnh của mình ở  giữa lòng lịch sử con người. Vì thế, phần cuối  của văn kiện sẽ đề ra một số hệ luận và những  lời nhắn nhủ có tính cách mục vụ, kỳ vọng rằng  nhờ đó mà các suy tư kia sẽ được thể hiện qua  hành động và lề lối hoạt động.

 

 II. NỀN TẢNG TRONG KINH THÁNH

 

Luận Đề 1

 

 Cho dù có phải nhận dạng các Giáo Hội Địa Phương  trong Tân Ước bằng địa danh, thì điều chủ yếu được nêu  bật chính là sự việc Dân Thiên Chúa đang ở tại một  nơi nhất định. Hội Thánh là công trình hiện tại hóa ngay  ở giữa lòng lịch sử, của mầu nhiệm Thiên  Chúa trong Đức Kitô; là mầu nhiệm được thực hiện ở  nơi mỗi Giáo Hội Địa Phương. Các Giáo Hội Địa Phương trong  Tân Ước thì đa dạng. Hình ảnh “Thân Thể Đức Kitô”  được dùng để chỉ Hội Thánh, cho thấy rõ sự kiện này  là: Hội Thánh Hoàn Vũ là mối hiệp thông giữa  các Giáo Hội Địa Phương.

 

 1.01  Cho dù trong các thư của Phaolô và Sách Công  vụ Tông đồ (1Cr 1,2; Gl 1,2; 1Tx 1,1), các Giáo Hội có phải  được nhận dạng qua một địa danh cụ thể, thì điều chủ yếu  được nêu bật hẳn chính là sự việc Dân Thiên Chúa  đang ở tại một nơi nhất định . Công thức: “gửi  về các Giáo Hội miền Galata”, dùng trong Thư gửi  tín hữu Galata, cho thấy rõ là có thể có nhiều  Giáo Hội cùng ở trong một miền đất nhất định, và  các Giáo Hội trong vùng thường có những mối tương  giao với nhau. Thế nên, không phải là một Hội Thánh  duy nhất được chia ra thành nhiều Giáo Hội, và ngược  lại, cũng không phải là tổng số các Giáo Hội  đã làm nên Hội Thánh.

 

1.02   Tân Ước tỏ ra không mấy tán đồng cách phân biệt  thông thường giữa “Hội Thánh Hoàn Vũ”  được coi như là “Hội Thánh của Thiên Chúa”,  và các Giáo Hội Địa Phương được hiểu là như những  cộng đoàn địa phương (tức như là những phần tử  hoặc bộ phận) làm thành phần của Hội Thánh Thiên  Chúa. Thành ngữ “Hội Thánh của Thiên Chúa”  có thể được dùng để chỉ một (1Cr 1,2; 10,35;15,9) hoặc  nhiều cộng đoàn giáo hội (1Cr 11,16; 1Tx 2,14). Thế nên,  văn bản Tân Ước cho phép xác định rằng công trình hiện  tại hóa ngay ở giữa lòng lịch sử, của mầu  nhiệm Thiên Chúa trong Đức Kitô, đã được thực hiện ở  nơi mỗi Giáo Hội Địa Phương.

 

1.03   Trong thời Tân Ước, ý niệm về Giáo Hội Địa Phương  mang tính cách loại suy hơn là đơn nghĩa, và có thể  chỉ một cuộc tập họp dân chúng địa phương, một cơ sở thị  thành, hoặc là các Giáo Hội trong vùng, hay là  các Giáo Hội họp tại nhà riêng, v.v… Cũng vì thế  mà các Giáo Hội Địa Phương trong thời Tân Ước mang  những hình thái đa dạng đến độ cần phải nghiên cứu  từng sách một trong Tân Ước thì mới có thể biết được  Giáo Hội có mặt ở trong đó là thuộc mẫu Giáo  Hội nào.

 

1.04   Hội Thánh là Thân Thể Đức Kitô (Cl 1,24; Ep 1,22).  Đức Kitô và Hội Thánh cũng được đặt kề cạnh nhau  trong những lần được nhắc tới (Ep 3,21; 5,22). Như vậy,  trong một ý nghĩa nào đó, Đức Kitô và Hội Thánh được  coi như là một. Là chi thể của Thân Thể Đức Kitô,  các kitô hữu sống trong một mối liên hệ đối với nhau  (1Cr 12,12-27), và mối liên hệ ấy nằm ở nơi Đức Kitô.  Cho nên, đó không phải chỉ là một thứ tình đoàn  kết thuần túy nhân loại mà thôi, song là một mối  hiệp thông nẩy sinh từ sự việc được sáp nhập vào  trong Đức Kitô nhờ đức tin và phép rửa (Gl 3,26-28).

 

1.05   Trong hình ảnh”Thân Thể Đức Kitô”, có thể nhận  ra được cách thức minh họa về mối liên hệ giữa Hội Thánh  Hoàn Vũ và các Giáo Hội Địa Phương. Đức Kitô được  coi như đồng nhất hóa với mỗi Giáo Hội Địa Phương; vì thế,  mỗi Giáo Hội Địa Phương là Thân Thể Đức Kitô. Khủng  bố Giáo Hội tại Giuđêa, tại Galilêa và Samaria là  Saolô cũng đã khủng bố chính Đức Kitô (Cv 9,1-6).  Mầu nhiệm Đức Kitô đã được thực hiện ở nơi mỗi  Giáo Hội Địa Phương thế nào, thì mầu nhiệm Hội Thánh cũng  được thực hiện như vậy. Mỗi Giáo Hội Địa Phương là  Hội Thánh một cách toàn diện (wholly the Church ),  nhưng không phải là Hội Thánh toàn thể (not  the whole Church ). Hễ càng hiệp thông với Thần Khí  của Đức Giêsu, càng biết đâm rễ sâu vào trong  Tin Mừng cũng như trong đời sống chung nơi Thân Thể  duy nhất của Đức Kitô, và hễ càng biết mở  lòng giao hảo với các Giáo Hội Địa Phương khác trong  cùng một Lời và một Thần Khí, thì một Giáo Hội  Địa Phương càng tiến xa trong công trình thực hiện mầu nhiệm  Hội Thánh. Như vậy, nhờ chính các thực tại đã làm  cho mình nên Hội Thánh và hiệp thông, mà Giáo Hội  Địa Phương mang được tính chất hoàn vũ. Còn đằng  khác, có ở trong và nhờ các Giáo Hội Địa Phương,  thì Hội Thánh Hoàn Vũ mới mang được tính chất hoàn  vũ. Hội Thánh Hoàn Vũ không có được một cuộc  hiện hữu cụ thể nào cả ngoài các Giáo Hội  Địa Phương. Do đó, Hội Thánh Hoàn Vũ chính là niềm  hiệp thông của các Giáo Hội Địa Phương.

 

 Luận đề 2

 

 Vì loan truyền Tin Mừng là bản sắc sâu thẳm  nhất của Hội Thánh, thế nên, nhân tố quyết định trọng  yếu nhất làm phát sinh nên Giáo Hội Địa Phương, là  việc loan báo Lời (biến cố Đức Kitô). Là động lực  trong công tác loan báo Lời, Thần Khí giữ vai nguyên  lý của hiệp nhất cũng như của dị biệt, và  do đó, làm cho Hội Thánh có khả năng đón nhận mọi  hình thái văn hóa vào trong mối hiệp nhất của mình  mà không mảy may xóa bỏ các dị biệt của chúng,  và đồng thời có khả năng giữ cho tính chất  hoàn vũ của mình được luôn luôn cụ thể.

 

 2.01  Ngay từ lời mở đầu của sách Công vụ Tông  đồ (Cv 1,6-8), như một thần học gia chuyên về Hội Thánh, thánh  Luca đã phác ra những nét đại cương cho đường hướng  thần học của ngài. Trong đó, chúng ta thấy thời  đại của Hội Thánh được miêu tả như là thời  gian nằm giữa thời Đức Kitô và thời Chung cục.  Tiêu đích của thời đại ấy là làm chứng về  Đức Kitô cho đến tận chân mây cuối trời của thế  giới; đó là sứ mệnh của cộng đoàn các môn đồ  do các tông đồ dẫn dắt và được sức mạnh của  Thánh Thần yểm trợ cho trong khi làm chứng. Vì vậy, Hội  Thánh là một cộng đoàn môn đồ làm chứng cho Chúa  Phục Sinh và cho Tin Mừng của Ngài. Bởi  thế, tiến trình loan truyền Tin Mừng là lý do hiện  hữu của Hội Thánh. “Loan truyền Tin Mừng”  thật sự là ân sủng, là ơn gọi riêng và là  bản sắc sâu thẳm nhất của Hội Thánh. Hội Thánh có  hiện hữu, thì chính là để loan truyền Tin Mừng”  (vangelii Nuntiandi14 ).

 

2.02   Trong tất cả các Phúc Âm, mệnh lệnh đi truyền  giáo được gắn liền với các trình thuật kể lại những  lần nhóm Mười Hai gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh (16,14-16;  Mt 28,18-20; Lc 24,47-49; Ga 20,19-23). Như thế, nhân tố quyết  định trọng yếu nhất trong tiến trình thành hình của  một Giáo hội Địa phương, là sự việc được dự phần vào  trong kinh nghiệm của các tông đồ về Đức Kitô, qua trung  gian tác vụ tuyên bố Lời (1Ga 1,1tt). Ngay sau khi được  ban cho đầy Thần Khí, các tông đồ đã tức tốc bắt đầu  tuyên bố Tin Mừng Đức Kitô (Cv 2,4). Những người  đón nhận Lời các ngài công bố cũng chính là  những người đã được rửa tội và làm  nên Giáo Hội Địa Phương tại Giêrusalem (Cv 2,41). Vai trò  số một của các tông đồ là tiếp tục phục vụ cho  Lời (Cv 6,2-4). Hễ có cơ hội thuận tiện là thành  viên nào của Giáo Hội cũng cố nắm lấy để công  bố Lời (Cv 4,34; 8,4). Từ đó, Hội Thánh sống nhờ  Lời và nhận ra bản sắc của mình ở nơi công  tác phục vụ Lời.

 

2.03   Thần Khí là động lực thôi thúc Hội Thánh phục vụ  Lời. Theo Ga 20,21-22, thì lúc phái gửi các tông đồ  đi, Đức Kitô cũng đã ban Thần Khí cho họ. Còn Lc  24,49 thì nhắc lại sự việc Đức Giêsu khuyên dặn các môn  đồ hãy ở lại trong thành (Giêrusalem) cho đến khi  nhận được quyền năng từ trời ban xuống. Cũng vậy,  chính hiện tượng tuôn đổ tràn đầy Thần Khí trong ngày  lễ Ngũ tuần đã đánh dấu biến cố khánh thành  Hội Thánh (Cv 2,1-47). Là phần tử của Hội Thánh,  tất cả những ai đã được sinh ra bởi nước và  Thần Khí (Ga 3,5). Vậy, Thần Khí chính là trụ cột của  Hội Thánh, và là Đấng truyền sức sinh động cho Hội  Thánh.

 

2.04   Kinh nghiệm Hiện xuống đã tiên báo về bản chất  đích thực của Hội Thánh đang lớn lên, trong đó Thần Khí  giữ vai nguyên lý của hiệp nhất và của dị  biệt. Trong Hội Thánh, có thể gặp thấy “người đến  từ mọi dân nước trong thiên hạ” dâng lời tạ ơn  Thiên Chúa vì Tin Mừng mà “mỗi người nghe  được trong tiếng mẹ đẻ của mình” (Cv 2,5-12). Đó  là lời Thần Khí mời gọi mọi người đón nhận  mọi tiếng nói và mọi hình thái văn hóa vào trong  niềm hiệp nhất của Ngài, mà không mảy may  hủy diệt mất đi những đặc nét cá biệt và những  màu sắc khác nhau của chúng. Đó cũng chính là  lời mời gọi hằng vọng lên, cũng như hằng được  đáp ứng suốt theo dòng lịch sử Hội Thánh, và đã  làm nẩy sinh nên không biết bao nhiêu là Giáo Hội  Địa Phương. Như thế nghĩa là Thần Khí hằng ban cho Hội Thánh  một mối hiệp nhất có khả năng hấp thu những khác  biệt mà không tiêu hủy chúng đi, và một tính phổ  quát luôn luôn cụ thể. Do đó, đà phát triển đích thực  của Hội Thánh là một đà sinh trưởng được phối  hợp hài hòa với những lối diễn đạt đức tin  bằng nhiều cách thức cá biệt mà mỗi Giáo Hội Địa  Phương thừa kế được từ các thế hệ tiền bối: đó là  những lối diễn đạt đã từng tỏ ra thích  hợp đối với hoàn cảnh cụ thể cũng như đối với  nhu cầu và nguyện vọng tôn giáo của dân tộc sống  trong địa phương ấy.

 

 Luận đề 3

 

     Trong Hội Thánh, tác vụ loan truyền Lời được thi hành  qua giáo huấn của các tông đồ, qua việc cử hành  Lễ tạ ơn, qua cuộc sống cũng như đời hoạt động  đượm nhuần Thần Khí, và qua việc công bố ơn cứu độ. Và  đó chính là các nhân tố làm nẩy sinh nên và cấu  tạo thành Giáo Hội Địa Phương. Nhưng chỉ khi nào được  những nhóm người cụ thể chấp nhận làm của  mình nhằm đáp lại Lời của Thiên Chúa, thì các nhân  tố ấy mới thực sự có sức làm cho Giáo Hội Địa Phương  nẩy sinh nên được. Thừa tác vụ của các tông đồ là  một cấu tố làm nên Giáo Hội Địa Phương; Giáo Hội này  phải được cấu tạo thế nào để có thể bảo dưỡng  bản chất của chính mình, tức là bản chất của  một cộng đoàn trong đó, hành động cứu độ của  Thiên Chúa mà Đức Kitô là trung tâm, hằng liên tục  hiện diện

 

 3.01    Trong Hội Thánh, tác vụ Lời Chúa được thi hành  chủ yếu theo bốn cách thức như sau: qua giáo huấn của  các tông đồ về Lời, đưa tới kết quả làm phát  sinh ra một cộng đồng tín hữu (Cv 2,41-42); qua Lời vang  vọng trong niềm vui mừng và tán tụng Thiên Chúa, làm  nẩy sinh nên một cộng đoàn cầu nguyện và thờ  phượng (Cv 2,41-42); qua Lời dẫn lối đưa tới cuộc sống  mới trong hoạt động đượm nhuần Thần Khí của Hội Thánh,  để từ đó làm nẩy sinh nên một cộng đoàn biết  sống tinh thần chia sẻ và phục vụ (Cv 2,43-45); và  cuối cùng, qua Lời, tức là Tin Mừng của  Đức Kitô, mà Hội Thánh không ngừng loan báo giữa  lúc thực thi sứ mệnh cứu độ của mình ở trong thế  giới và cho thế giới (Cv 2,47).

 

3.02    Chỉ khi nào nhờ thừa tác vụ tông đồ, nhờ  Lễ tạ ơn và mối hiệp thông yêu thương, nhờ sứ  mệnh cứu độ ở giữa thế giới và cho thế giới,  cũng như nhờ ân sủng và quyền năng của  Thần Khí, có những người đạt tới chỗ cảm nghiệm  được Lời hoặc biến cố Đức Kitô, thì lúc đó một Giáo  Hội Địa Phương mới được khai sinh ra. Chính thế, Giáo Hội Địa  Phương tại Giêrusalem đã sinh ra khi Lời các tông đồ  rao giảng tiếp tục lưu ngụ ở giữa cộng đồng các  tín hữu, nhờ thừa tác vụ các tông đồ, với ân  sủng và quyền năng của Thần Khí (Cv 2,37tt)

 

3.03    Chỉ khi nào được những nhóm người đang sống  ở một nơi và vào một thời rõ rệt, tiếp  đón và chấp nhận làm của mình với tất cả  lòng tin cậy mến cũng như với tinh thần hiệp thông  và ý thức về sứ mệnh của mình, thì các cấu tố ấy  mới thật sự tạo lập nên một Giáo Hội Địa Phương đích thực.  “Vậy những ai đã đón nhận Lời Phêrô rao giảng,  thì đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng  ba ngàn người theo đạo. Họ chuyên cần nghe các tông  đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng  tham dự Lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng”  (Cv 2,41-42). Như vậy, trong quá trình hình thành Hội Thánh,  “nơi chốn” là một nhân tố quyết định của tính  chất hội thánh (ecclesiality ). Bởi vì, có được đón  nhận làm của mình và được giải thích nhằm ứng  đáp những thách đố do nơi chốn và thời đại, do  các nền văn hóa và những hoàn cảnh cụ thể  đưa ra, thì Lời Thiên Chúa mới có đủ điều kiện thiết  thực để làm phát sinh nên Hội Thánh.

 

3.04    Có một số đoạn trong các Phúc Âm cho thấy là  trong thời đó, đã có một thứ trật tự cộng đồng ở  giữa những người tin vào Đức Giêsu. Đức Giêsu  tuyển chọn nhóm Mười Hai. Ngài tách riêng họ ra để  khai mở cho họ hiểu về mầu nhiệm chịu khổ, chịu chết và  sống lại của Người (Mt 20,17). Ngài dạy cho họ  biết về cách lấy thái độ phục vụ với tinh thần khiêm hạ  và yêu thương mà thi hành trách vụ lãnh đạo  (Mt 20,20-28). Họ được tham dự vào bữa Tiệc Tạ ơn và  được ban cho quyền tái diễn mầu nhiệm này. Ga 21,15-17  ghi lại sự kiện Phêrô được ủy thác cho việc chăm nom  đàn chiên của Đức Giêsu.

3.05    Dù thừa tác vụ tông đồ là một trong những  nhân tố cấu tạo Hội Thánh, thì Tân Ước cũng giới thiệu  cho thấy cả một loạt những cơ cấu khác nhau trong Hội  Thánh. Giáo Hội Giêrusalem có cơ cấu tập đoàn quy tụ  chung quanh các tông đồ (Cv 2,42-43). Trong Cv 11,30, thì thấy  là chính các niên trưởng làm đại diện cho quyền  lãnh đạo trong Giáo hội Giêrusalem; trong khi đó, Cv  15,2,4-6 thì cho thấy rằng cả niên trưởng lẫn tông  đồ đều có quyền lãnh đạo. Tại Antiôkhia, các ngôn sứ  và các giáo sư giữ quyền lãnh đạo. Tại Ephêsô,  các niên trưởng lãnh đạo Giáo hội (Cv 20,17); họ cũng  được gọi là giám mục (Cv 20,28). Các Thư Mục vụ cho thấy  có ba loại chức vụ: giám mục, niên trưởng và phó  tế.

   Vì thế, thừa tác vụ tông đồ trong Hội Thánh có thể mang  nhiều hình thức cấu trúc thể chế khác nhau. Dù sao thì  các cơ cấu ấy cũng cần phải có đủ khả năng  để bảo toàn thực chất và bản thể của  Giáo Hội Địa Phương là Hội Thánh của Thiên Chúa, trong  đó, hoạt động cứu độ trường kỳ mà Thiên Chúa  đã hoàn tất trong Đức Kitô, vẫn mãi hiện diện  và tác động hữu hiệu nhờ Thần Khí.

 

 Luận đề 4

 

     Hội Thánh là đoàn ngũ các tín hữu Thiên  Chúa đã dùng Tin Mừng mà triệu tập: họ là  những người đã được rửa tội trong Đức Kitô  Giêsu, và sống theo Thần Khí. Đức Kitô là đầu dân  riêng này của Thiên Chúa theo Giao Ước mới. Một khi  đã được tập hợp dưới quyền lãnh đạo của những  người kế nhiệm các tông đồ, thì chính nhờ bởi  việc thực hiện ngay nơi bản thân mình, mầu nhiệm của  ý định Thiên Chúa muốn liên kết toàn thể nhân loại và  toàn bộ vũ trụ ở trong Đức Kitô, mà Hội Thánh  trở thành bí tích phổ quát của Nước Thiên Chúa

 

 4.01    Ekklesia là một từ Hy lạp dịch ra từ  chữ Qahal của ngôn ngữ Hy pri, và đó  là danh xưng được dùng để chỉ cộng đồng Ítraen,  là dân tộc đã từng được Yahvê giải phóng  khỏi ách nô lệ và dẫn đưa vào trong sa mạc  để phụng thờ Ngài. Trong Tân Ước, danh xưng này  chỉ về Hội Thánh trong tư thế là cộng đồng các tín hữu  đã được Thiên Chúa dùng Tin Mừng của Đức Giêsu  Kitô mà triệu tập để mạc khải và thực hiện kế  hoạch cứu độ của Ngài ở trong thế giới (xem Ep  1,19; Rm 16,25tt; Ep 5,32).

 

4.02 Phản ứng chống lại khuynh hướng đề cao quá độ chiều  kích thể chế của Hội Thánh, Công đồng chung Vaticanô II  đã phục hồi lại chỗ đứng trọng yếu ở trong giáo  hội học cho các nhân tố siêu việt, là những nhân  tố giúp cho thấy rõ được rằng Hội Thánh mang một bản  chất đặc thù hoàn toàn khác hẳn với bất cứ một  kiểu mẫu xã hội nhân loại nào khác. Sở dĩ  có đoàn ngũ những người như thế, là vì  Thiên Chúa đã kêu gọi họ qua Lời Đức Kitô và  ân sủng của Thần Khí. Chính nhờ chịu phép rửa  trong cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô (Rm  6,3-4) để trở thành Thân Thể trong đó họ đã được  dìm vào qua phép rửa, “bất chấp họ là người  Do thái hay là người Hy lạp, người nô lệ hay người  tự do” (1Cr 12,13), mà những người, nam cũng  như nữ, đã được gia nhập cộng đồng ấy. Và đó  chính là cộng đồng đang sống nhờ việc tưởng niệm  Đức Giêsu Nadarét theo truyền thống các tông đồ, và đang  tuyên xưng cùng tán dương Ngài là Chúa tể và  là Đấng Cứu Độ trong mối hiệp thông có các người  kế vị các tông đồ đứng đầu, cũng như đang hy vọng trông chờ Ngài trở lại trong vinh quang. Việc tụ họp  để cử hành Lễ Tạ ơn nói lên mẫu mực đời  sống bên trong của cộng đồng: một đời sống thông  dự vào trong mầu nhiệm Đức Kitô, cũng như cho thấy  công đồng ấy thật là Dân Thiên Chúa và là niềm  hiệp thông trong Thần Khí: đó chính là Hội Thánh phát  sinh bởi Thiên Chúa Ba Ngôi (Ecclesia de Trinitate ).

 

4.03    Đức Kitô và Hội Thánh thì đồng tâm nhất trí với  nhau. Công trình hòa giải và ban bình an của  Đức Kitô đang tiến hành và thành tựu qua hoạt  động của Hội Thánh (Cl 1,15-23). Hội Thánh là một  thực tại đang tiếp tục lớn lên, lớn lên để trở thành  Đức Kitô: Ngài là Đầu của Thân Thể là Hội  Thánh (Ep 4,15-16). Thánh Phaolô đã dùng hình ảnh  Thân Thể mà Đầu là chính Đức Kitô (1Cr 12; Rm 12,4-5).  Các tín hữu là “những người đã được  hiến thánh nhờ kết hợp với Đức Giêsu Kitô, nghĩa là  được kêu gọi nên thánh cùng với tất cả những  ai, ở bất cứ nơi nào, kêu cầu danh Đức Giêsu Kitô,  Chúa chúng ta” (1Cr 1,2). Họ cũng được mô tả như  là “những người được Thiên Chúa tuyển chọn,  hiến thánh và yêu thương” (Cl 3,12). Hội Thánh còn  được giới thiệu như là “đền thờ của Thiên  Chúa”, nơi Thần Trí cư ngụ (1Cr 3,16-17). Hội Thánh cũng  là “gia thuộc (người nhà) của Thiên Chúa  được xây dựng trên nền móng là các tông đồ và các  ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức  Kitô Giêsu (Ep 2,20).

 

4.04    Được tập hợp dưới quyền lãnh đạo của mhững  người kế nhiệm các tông đồ, Hội Thánh trở thành  bí tích phổ quát, làm biểu tượng và dụng cụ của  Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một mầu nhiệm mang  tính chất vừa cánh chung, nhưng cũng vừa hiện diện  trong mọi thời. Cánh chung vì báo trước sự việc vương quyền  Thiên Chúa sẽ tỏ rạng một cách hoàn toàn  dứt khoát trong ngày tận thế. Những dụ ngôn nói về  Nước Trời đã ám chỉ đến sự việc này (Mt 13,1-32).  Nhưng đàng khác, Nước Thiên Chúa đã thực sự xuất  hiện kể từ khi Đức Giêsu đến trong thế gian (Lc 17,20-21;  Mt 11,4tt); Nước Thiên Chúa được đồng nhất hóa với chính Đức  Giêsu Kitô (Ga 3,3-5; Mt 19,29; Lc 18,29).

 

4.05    Phép Thánh Tẩy chính là con đường khai tâm dẫn  lối đến với lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, và đến  với Nước Thiên Chúa. Vì vậy, một cách nào đó, Hội Thánh  có thể được đồng nhất hóa với Nước Trời. Tuy nhiên,  mầu nhiệm Nước Thiên Chúa thì quảng mạc hơn tầm triển  khai của Hội Thánh. Hội Thánh là bí tích của Nước  Trời, tức là biểu hiệu có sứ mạng làm cho Nước  Thiên Chúa hiện diện một cách nhiệm mầu như là dấu chỉ  và như là công cụ cứu độ thích ứng cho thời gian  kể từ lúc Đức Kitô Chúa phục sinh cho tới ngày Ngài  trở lại.

 

4.06    Nước Thiên Chúa mà Hội Thánh là hiện thân thì  tự bản chất, thuộc lãnh vực thiêng liêng, và  không nuôi một yêu sách trần tục hay là chính trị nào  hết (Ga 18,36-37). Đức Giêsu là một nhà lãnh đạo  tinh thần và là “hiến chương” của nước Trời.  Bài giảng trên núi trước tiên là một lời  mời gọi hãy trở nên hoàn hảo trong tình  thương đặc thù của con cái Thiên Chúa, theo mẫu  gương của Cha ở trên Trời (Mt 5,43-48). Để vào  được Nước Thiên Chúa thì có một điều kiện thiêng liêng là:  “cần phải hoán cải và trở nên giống trẻ  thơ” (Mt 18,3), “cần phải được sinh ra bởi (nước  và) Thần khí” (Ga 3,5). Vì thế, Nước Thiên Chúa là  của những kẻ có tâm hồn nghèo khó (Mt 5,3).

 

4.07    Nhưng không phải vì bản chất của Nước Thiên  Chúa là thiêng liêng mà Hội Thánh nhất thiết phải  là vô hình, hoặc chẳng cần đếm xỉa gì đến các thực tại  con người trên trần thế này. Trái lại, quyền năng  Nước Thiên Chúa đang hoạt động ở trong Hội Thánh là  một mãnh lức cách mạng có sức tác động đến mọi lãnh  vực sinh hoạt của con người sống trên mặt đất. Những  ẩn dụ nói về “thành trì xây trên núi” và  về “ánh sáng thế gian” (Mt 5,14-16), chỉ rõ về một  Hội Thánh hữu hình, và có hiện hữu thì chính là  để mưu ích cho thế gian.

 

4.08    Là đầu của Hội Thánh, Đức Kitô cũng là  hình ảnh của Thiên Chúa vô hình và là trưởng  tử của mọi loài thọ tạo; chính nhờ Ngài  và cho Ngài mà muôn vật được tạo dựng (Cl 1,15-18).  Mầu nhiệm Đức Kitô là mầu nhiệm của ý định và  của kế hoạch Thiên Chúa, đã biểu hiện cho chúng ta  trong một cách thức hết sức khôn ngoan và sáng suốt (Ep  1,9). Đó là kế hoạch đã được vạch ra cho thời  viên mãn, nhằm quy tập muôn vật trên trời dưới đất  lại ở trong Ngài (Ep 1,10).

 

4.09    Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đang thành tựu  ở giữa lịch sử của mọi dân tộc trên mặt đất,  và đang tiến dần đến thời viên mãn, tức làeskhaton . Đó là điều Phaolô miêu tả một cách  tài tình khi nói là: “muôn loài thọ tạo những  ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh  quang của con cái Người” (Rm 8,19) và “ngày  được giải thoát, để không còn phải lệ thuộc vào  cảnh hư nát, mà là được cùng với con cái Thiên  Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,21). Vì  thế, chỉ khi nào biết lưu ý đến các chiều kích nhân loại  học và vũ trụ học của nó, thì mới có thể thấu  hiểu thực thể lịch sử của Hội Thánh, tức là công  trình hiện thực hóa mầu nhiệm Đức Kitô, một cách đúng đắn  được.

 

 III. VIỆC PHÁT SINH, CUỘC SỐNG VÀ SỨ  MỆNH CỦA GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG

 

 Luần đề 5

 

    Giáo Hội Địa Phương là một Giáo Hội hình thành  và được xây dựng qua cuộc gặp gỡ sâu đậm — có  sức làm cho cả hai bên nên phong phú thêm — giữa  Tin Mừng và một dân tộc có văn hóa cùng truyền  thống riêng. Theo cách nói thông thường của thần học  và Huấn quyền, thì điều đó được gọi là công cuộc  hội nhập văn hóa (inculturation). Công cuộc hội nhập văn  hóa này không phải chỉ đơn thuần là việc dùng  phương cách của văn hóa địa phương để biểu đạt Tin Mừng  và đức tin kitô mà thôi, nhưng còn bao gồm cả  việc tiếp xúc qua kinh nghiệm và am hiểu các thực tại  ấy, cũng như việc tiếp nhận chúng làm của mình  qua trung gian các tài năng văn hóa của một dân tộc  nữa. Kết quả là: một đàng, Giáo Hội địa phương  sẽ mang hình thái ghi đậm những nét đặc thù của  văn hóa địa phương; và đàng khác, văn hóa sẽ được  phúc âm hóa nhờ đời sống và hoạt động làm  chứng của Giáo Hội Địa Phương.

 

 5.01    Hội nhập văn hóa là điều thiết yếu đối với việc  tự hiện thực hóa (self-realization ) và phát triển  của các Giáo Hội. Vì thế, trong khắp thế giới, đặc biệt  là trong các nước đang mở mang, hiện đang có nhiều  nổ lực nhằm thực hiện những cuộc thử nghiệm trong  công tác bản xứ hóa (to contextualize ) đời sống  và sứ mạng của Giáo Hội bằng cách đem đức tin và  văn hóa địa phương xích lại gần nhau hơn. Thật vậy, trong Đại  Hội lần đầu của FABC, các Giám mục Á Châu đã  miêu tả Giáo Hội Địa Phương như là “một Giáo Hội  nhập thể thực sự vào giữa lòng của một dân  tộc, là một Giáo Hội bản xứ và đã thành  công trong nổ lực hội nhập văn hóa. Cụ thể mà nói,  thì đó là một Giáo Hội hằng không ngừng lấy thái  độ khiêm hạ và yêu mến mà đối thoại với các truyền  thống, với các nền văn hóa cũng như với các tôn giáo,  và, tắt một lời, với hết thảy mọi thực tại cuộc  sống của người dân ở nơi Giáo Hội đang đâm rễ  sâu, và đang hân hoan tiếp nhận lịch sử cùng nhịp  sống của họ làm của mình” (số 12). Đối với  các Giáo Hội Á Châu, công tác hội nhập văn hóa là  một công tác có tính cách vừa thách đố vừa gấp rút  xét vì quá trình kéo dài nhiều thế kỷ ghẻ lạnh  đối với văn hóa địa phương suốt trong dòng lịch sử  truyền giáo thời thuộc địa, cũng như xét vì bối cảnh  thức tỉnh văn hóa hiện đang bừng dậy tại nhiều dân tộc  Á Châu.

 

5.02    Nổ lực hội nhập hóa có thể rút được nhiều cảm  hứng từ những mẫu thái độ hành động của  hai cha Mattêo Ricci ở Trung Hoa và Roberto de Nobili ở  Ấn độ, cho dù trong thời đó, tầm hiểu biết của  hai vị về mối quan hệ giữa Tin Mừng và văn hóa  có còn hạn hẹp. Hai nhà truyền giáo vĩ đại này  tại Á châu, đã chủ yếu áp dụng phương pháp thích  nghi để cố gắng dùng ngôn ngữ cũng như những  ý niệm rút ra từ văn hóa của một dân tộc, mà  truyền đạt Tin Mừng và các chân lý mặc khải.  Công cuộc hội nhập văn hóa còn tiến sâu hơn việc thích  nghi bội phần, vì nó gồm hàm cả việc gặp gỡ giữa văn với Tin Mừng; và có một tầm bao quát  rộng hơn, vì nó xác định rõ tiến trình hình thành và  phát triển của Giáo Hội ở giữa lòng một dân  tộc.

 

5.03   Ngày nay, các nổ lực nhắm tới việc xây dựng những  Giáo Hội Địa Phương đích thực qua công trình hội nhập văn hóa,  đều lần bước theo nhãn quan, tinh thần và các kỹ  thuật Công đồng Vaticanô II đã đề ra, đặc biệt là  qua các văn kiện Lumen Gentium (GH), Gaudium  et Spes và Ad Gentes (TG). Hiến  Chế về Giáo Hội (GH) nhìn mối quan hệ của Hội Thánh  với các nền văn hóa và các truyền thống theo nhãn  quan của mối hiệp nhất giữa toàn thể nhân loại  (mà Hội Thánh là bí tích/dấu chỉ), và của tính  chất hoàn vũ nơi Hội Thánh, trong đó, hết thảy  mọi phần tử cá biệt với những đặc nét văn hóa,  di sản và tài năng khác nhau, đều hiệp thông với  nhau (GH 13). Còn trong Hiến Chế mục vụ (MV),  thay vì giữ quan niệm hẹp hòi về văn hóa, coi đó đơn  thuần như là một nổ lực trau dồi trí lực qua đường  lối giáo dục và việc học tập các khoa nhân văn, v.v.,  để đối chiếu với người không học hành, không văn  minh và “dân bán khai” (Naturvoelker ), thì Công  đồng đã dựa theo các chiều kích lịch sử, xã hội  và nhân chủng học mà miêu tả văn hóa. Các  chiều kích này giữ một vai hết sức trọng yếu trong  việc tìm hiểu về mối tương quan giữa Giáo Hội Địa Phương  và các nền văn hóa. Và cuối cùng, qua Sắc Lệnh  về Truyền Giáo (TG), Công đồng quan niệm các Giáo Hội  Địa Phương như là những thực thể đang nảy sinh từ  cuộc gặp gỡ của Lời Chúa với các nền văn hóa  và các truyền thống của các dân tộc, và đồng  thời nhấn mạnh rằng cần phải tiếp tục đẩy mạnh công  cuộc hội nhập văn hoá vào trong các lãnh vực khác  nhau của đời sống và sứ mạng kitô (TG 19-22).  Trong những lần nhóm họp tại Roma, Thượng Hội Đồng Giám  mục Thế giới cũng đã chú trọng nhiều đến chủ  đề “hội nhập văn hóa”, đặc biệt là trong lần  họp để bàn về sứ mạng rao giảng Tin Mừng, và  qua Tông Huấn Evangelii nuntiandi ban hành tiếp sau  đó. Qua các cuộc viếng thăm mục vụ của ngài, nhất  là khi đi Á Châu và Phi Châu, và qua các bài  nói chuyện nhân dịp đó, Đ.G.H. Gioan Phaolô II cũng đã  nêu bật tầm thiết yếu của công tác hội nhập văn hoá  tại các Giáo Hội Địa Phương, cũng như của công trình  phúc âm hóa các nền văn hóa.

 

5.04    Chỉ khi nào Tin Mừng gặp gỡ được với văn hóa  của một dân tộc, thì lúc đó Giáo Hội Địa Phương mới thực  sự được khai sinh và thiết lập.Gặp gỡ nói lên  tính chất hai chiều và qua lại . Những truyền thống,  biểu tượng, cơ chế, phong tục, thái độ, v.v. khác nhau của  một dân tộc thì phát nguyên từ tâm hồn, từ tinh thần  của chính dân tộc ấy. Tin Mừng gặp gỡ với văn  hóa không phải đơn thuần bằng cách đón nhận những  hình thức và biểu tượng bề ngoài không thôi của  một dân tộc, nhưng là bằng cách tiến sâu vào trong  tinh thần và tâm hồn mà các hình thức và các  biểu tượng ấy diễn đạt và biểu thị. Khi văn hóa và  Tin Mừng đối thoại và gặp gỡ với nhau tận trong  “thâm cung tâm hồn” của một dân tộc, thì lúc đó  Giáo Hội Địa Phương đích thực có thể nẩy sinh lên. Một cuộc  gặp gỡ như thế cũng là một cơ hội làm quen  với vũ trụ quan của một dân tộc, tức là với  nguồn cội của các hình thái văn hóa. Cũng chính nhờ  vũ trụ quan ấy mà các phần bộ khác nhau trong một  nền văn hóa được liên kết lại với nhau một cách có cơ cấu  để làm nên một toàn bộ. Vũ trụ quan biểu hiện  ở trong cách thức tổ chức địa phương, ở trong các thể  chế, các cơ cấu, v.v. của một nhóm văn hóa.

 

5.05    Quan niệm mối tương quan giữa Tin Mừng và văn  hóa như là một cuộc gặp gỡ , là cùng  lúc nói lên sự việc văn hóa có quyền tự trị chính đáng  với bản sắc riêng của mình. Vì trong tư cách là  sản phẩm của trí tuệ con người tác động lên trên  thiên nhiên và sáng tạo ra nhiều dụng cụ, nhiều thể  chế, nhiều mối liên hệ trong xã hội, nhiều lối sống,  v.v… khác nhau, văn hóa thực sự là một thành phần  trong kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa. Ngoài ra,  văn hóa của dân tộc nào cũng nhằm tới một thiên  hướng chung, đó là: góp phần vào trong cuộc sống và  ích chung của gia đình nhân loại duy nhất, mỗi dân nước  theo một cách thức đặc thù. Mỗi văn hóa biểu lộ  theo một cách thức riêng, tính chất phong phú của bản  sắc loài người (huma-num ), và vì thế, cần  phải được tôn trọng và bảo dưỡng.

 

5.06    Từ những gì vừa trình bày trên đây, có  thể thấy rõ được rằng vì bắt nguồn từ kế hoạch Thiên  Chúa sáng tạo con người và thiên nhiên, nên văn hóa  phải được tôn trọng vì chính tiêu đích nội tại của  nó, chứ không phải chỉ được đơn thuần coi như là một  thứ phương tiện cho một cái gì khác. Cũng không được tách  riêng các cấu tố làm nên một nền văn hóa ra khỏi  tổng thể hữu cơ của chúng. Cho nên, công trình hội  nhập văn hóa không thể nào thuần túy là một tiến  trình chỉ biết kén chọn một số nhân tố đặc biệt nào  đó của văn hóa để làm như một trang phục tiêu biểu  khoác lên cho Tin Mừng. Hội nhập văn hoá theo kiểu ấy  chỉ có tính cách hoàn toàn bên ngoài và nông  cạn, vì không biết tôn trọng tâm hồn sâu thẳm bên trong  và tính chất cấu trúc của văn hóa.

 

5.07    Không những mỗi văn hóa mang lại cho chúng ta  một lối ngõ mới để tìm hiểu về con người, mà  còn mở ra nhiều con đường mới để thấu hiểu về  nguồn phong phú khôn lường của Tin Mừng nữa.  Khi Tin Mừng gặp gỡ với truyền thống, thì kinh nghiệm  và văn hóa của một dân tộc sẽ bừng dậy với  những tiềm năng quý giá còn chưa được phát hiện của  mình; nhiều khả năng và ý nghĩa vẫn còn ẩn  khuất cho tới lúc ấy, sẽ lộ diện rõ ra. Chính vì thế,  có một điều hết sức quan trọng cần phải làm, là  dựa theo tiềm năng văn hóa của mỗi dân tộc mà  giải thích Tin Mừng; nhờ vậy, Truyền thống kitô  sẽ được phong phú thêm. Nhìn theo nhãn quan này,  thì Giáo Hội Địa Phương cũng có thể được coi như là  một hình thức đầy mới mẻ và sáng tạo của công  trình tái hiện tại hóa (reactualization ) và tái giải  thích (reinterpretation ) Tin Mừng và đức tin. Cách  tái giải thích này không phải là một bước  cắt đứt dứt khoát với Truyền thống, nhưng là một tiến  trình liên tục tiếp diễn theo cấu trúc của nó, bởi  vì quá khứ sẽ được kinh nghiệm hiện tại của một Giáo  Hội Địa Phương tái thủ đắc (repossessed ) và phục  hoạt (reactivated ) trở lại. Còn Truyền thống  và di sản của quá khứ, thay vì gây cản trở,  thì sẽ trở thành nguồn trợ lực cho đời sống  ngày nay của Giáo Hội Địa Phương, trong đó, Chúa Phục  Sinh và Thần Khí của Ngài đang cư ngụ và hoạt  động.

 

5.08    Chỉ khi nào Tin Mừng và đức tin được cảm  nghiệm và thấu hiểu qua các vốn liếng văn hóa của  một dân tộc, thì lúc đó cuộc gặp gỡ nói trên mới thực  sự trở thành sâu đậm được. Đó không những là  một nguyện vọng, mà còn là một điều thiết yếu  nữa. Bởi vì, hễ đã sinh ra làm người  ở trong một bối cảnh lịch sử và một truyền  thống nhất định, thì con người không thể nào nhận thức  được chân lý, không thể nào hiểu biết và cảm  nghiệm được thực tại cuộc sống —kể cả Tin Mừng  và đức tin— mà không nhờ đến trung gian của  một nền văn hóa cụ thể. Nói cách khác, việc thực sự thấu  hiểu Lời Chúa và thái độ đáp ứng thiết thực bằng  lòng tin chỉ có thể xẩy ra được ở giữa một dân  tộc, qua vốn liếng văn hóa họ có: đó chính là cách thức  biểu hiện của những kinh nghiệm và những truyền  thống riêng họ. Các kinh nghiệm và truyền thống này  là những tiêu chuẩn đối chiếu để dựa theo đó mà  giải thích, tiếp nhận và hấp thu các kinh nghiệm và  các biến cố mới. Nói cách khác, những dữ liệu, tức  là những biến cố và kinh nghiệm mới sẽ được  tổ chức hoặc — nói cho đúng hơn — được tổ chức lại,  được tái cấu trúc theo thiên tư và lề lối tư tưởng  riêng của một nhóm hoặc một dân tộc. Điều này cũng  có thể được áp dụng cho trường hợp gặp gỡ giữa  Tin Mừng với văn hóa của một nhóm, của một quốc  gia hoặc một dân tộc.

 

5.09    Nếu Tin Mừng và văn hóa gặp gỡ nhau như thế,  thì hình thái cụ thể của Giáo Hội Địa Phương tất cũng  phải khuôn rập theo các điều kiện văn hóa của dân  tộc ở nơi Giáo Hội đâm rễ. Sự việc Giáo Hội Địa  Phương mặc lấy xương thịt của thân mình văn hóa một dân  tộc sẽ làm cho Giáo Hội ấy mang những nét biểu  trưng đặc thù khác biệt với các Giáo Hội khác. Như vậy,  mỗi Giáo Hội Địa Phương sẽ mang ấn tín nền văn hóa  của nơi mình đang nhập thể vào. Thế nên, các nền văn  hóa khác nhau thế nào, thì các Giáo Hội Địa Phương cũng  khác biệt nhau như vậy, cho dù hết thảy mọi Giáo Hội  đều chia sẻ cùng một Tin Mừng, cùng một đức  tin, cùng một lễ tạ ơn, v.v. Như vậy, niềm hiệp thông  hoàn vũ giữa các Giáo Hội cũng chính là  việc thông dự vào trong thực trạng đa dạng của các  nền văn hóa và các truyền thống khác biệt nhau. Trong  bài nói chuyện ngày 21 tháng, 1984, Đ.G.H. Gioan Phaolô  II đã nhận định rằng: “Khó mà diễn đạt chính  mình cho rõ ràng và sâu xa hơn được: Hội Thánh  Hoàn Vũ được giới thiệu như là một mối hiệp thông  giữa các Giáo Hội (cá biệt), và một cách gián tiếp,  như là một cộng đồng các quốc gia, các ngôn ngữ,  các nền văn hóa …” (Documentation Catholique số  1989 (1985) 167-172).

 

5.10    Trong tiến trình Giáo Hội Địa Phương tự hiện thực hóa  chính mình (self-realization ) bằng phương thức hội nhập  văn hóa, cần phải lưu ý đến hai khía cạnh này: thứ  nhất, có mang hình thái cụ thể của một nền văn hóa nào  đó, thì Tin Mừng mới được nhận ra; vì Tin Mừng không  phải là một thực thể trừu tượng, mà là  một thực tại cụ thể, được thể hiện nơi lòng tin mà  một dân tộc đã tiếp nhận và nói lên qua bối cảnh  văn hóa của mình. Vì vậy, trong thực thế, khi một dân  tộc gặp gỡ với Tin Mừng, thì cùng lúc, cũng  gặp gỡ luôn với một nền văn hóa khác đã được thấm  nhuần bởi đức tin. Do đó, có tác giả đã thích  dùng từ “hòa nhập văn hóa”( interculturation ) hơn là từ “hội nhập văn hóa” (inculturation ). Trong văn kiện này, chúng tôi dùng thành ngữ  “hội nhập văn hóa” như là một ý niệm bao hàm  cả sự kiện “các nền văn hóa gặp nhau” nữa.

 

5.11    Điều thứ hai cần lưu ý là không phải bao giờ  Tin Mừng cũng cần gặp cho được một văn hóa thuần  nhất; có thể xẩy ra là Tin Mừng gặp gỡ với những  nhóm thuộc nhiều bộ tộc khác nhau, thuộc nhiều tiếng nói  hoặc văn hóa khác nhau, nhưng lại sống trong cùng một  nơi. Chính thế, tại nhiều nước ở Á châu, chúng ta  thấy có những nhóm thuộc các chủng tộc và văn  hóa khác nhau ở trong cùng một Giáo Hội Địa Phương.  Thực trạng ghép mảnh gồm nhiều ngôn ngữ, văn hóa  và chủng tộc như thế làm cho Giáo Hội Địa Phương  càng trở nên phong phú hơn nhiều. Tiến trình hội nhập  văn hóa có bổn phận phải quan tâm đến thực trạng này,  cũng như cần phải lưu ý đến đà biến hóa và  phát triển của các nhóm ấy, vì họ thực sự là những  thành phần của một miền hoặc một quốc gia. Trong trường  hợp có đụng độ xảy ra giữa các bản sắc chủng  tộc hay văn hóa khác nhau, Giáo Hội Địa Phương có thể đóng  vai trung gian giảng hòa và hợp nhất, bằng cách  cố công làm mối giây hiệp thông giữa những nền  văn hóa và truyền thống khác nhau; nhờ đó, Giáo Hội  sẽ hình thành bản sắc riêng của mình, tức là  bản sắc đặc thù của một Giáo Hội Địa Phương. Trong  những môi trường có nhiều bộ tộc, có nhiều thứ ngôn  ngữ và nhiều ảnh hưởng văn hóa khác nhau cùng  sinh hoạt với nhau, thì tác vụ hội nhập văn hoá cũng  còn bao gồm cả việc cổ vũ xây dựng cho tinh thần  hòa hợp và thông hiệp nữa.

 

5.12    Nếu Giáo Hội Địa Phương là thành quả của  tác động qua lại giữa Tin Mừng và văn hóa, thì  nói rằng văn hóa ảnh hưởng đến hình thái của  Giáo Hội Địa Phương là chưa nói cho đầy đủ: còn  cần phải nói thêm là Tin Mừng cũng ảnh  hưởng đến cả văn hóa nữa. Là Lời Thiên  Chúa, Tin Mừng làm nổi bật và nâng cao văn hóa,  nhưng đồng thời cũng mang lại nhiều thách đố cho một  số giá trị, thể chế, phong tục, lối sống, v.v… của văn  hóa. Các văn hóa cũng mang nặng dấu vết tội lỗi  của loài người, và vì thế có thể tích chứa  những nhân tố phá hoại bản tính loài người  và làm cho con người ra nô lệ. Ngày nay, sứ  mạng phúc âm hoá của Giáo Hội Địa Phương cần phải  nhằm tới công tác cải biến văn hóa từ bên trong,  như men trong bột. Đ.G.H. Phaolô VI đã nhấn mạnh đến tầm  trọng yếu của công cuộc biến cải các nền văn hóa  nhờ Tin Mừng, khi ngài viết như sau trong Tông huấn  Evangelii nuntiandi : “Điều trọng yếu là phải  biết lấy Tin Mư2ng mà biến cải việc khai hóa con người  và các nền văn hóa, không phải là bằng cách  tô sơ một lớp sơn để làm cảnh mà thôi, nhưng là  cố tiến sâu đến tận gốc rễ sống còn của đời  con người. Không còn nghi ngờ gì nữa: hố phân  cách Tin Mừng xa khỏi văn hóa chính là nguyên do  gây ra thảm cảnh của thời đại chúng ta đang  sống, hệt như đã từng thấy trong các thời đại  khác. Vì vậy, cần phải ra sức bằng mọi cách để đảm  bảo cho công tác đưa Tin Mừng vào trong văn hóa  hoặc đúng hơn là vào trong các nền văn hóa được trọn  vẹn. Các nền văn hóa cần phải được phục hưng qua một  cuộc gặp gỡ với Tin Mừng” (EN20).

 

5.13    Phương thức cụ thể được dùng để thực hiện công cuộc  đưa Tin Mừng vào trong các nền văn hóa, chiếm giữ  một tầm trọng yếu rất lớn. Tin Mừng chỉ có thể cải  biến được văn hóa, khi nào có những người tin  và sống theo sự chỉ đạo của Tin Mừng để từ  đó, lấy chính cuộc sống của mình mà làm chứng  cho nó. Ngoài ra, công cuộc phúc âm hóa vừa nói cũng  cần phải tiến hành cẩn trọng để tránh cho khỏi  mọi hình thức huênh hoang đắc thắng, và hơn nữa, cần  phải tiến hành như một công tác phục vụ văn hóa,  với thái độ khiêm nhu và với ý thức rõ rằng cả  Tin Mừng nữa cũng có thể thu nhận được nhiều điều  từ văn hóa để nhờ đó mà thấu hiểu được văn  hóa và tiếp thu nó làm của mình. Công đồng Vaticanô  II đã công nhiên thừa nhận điểm này.

 

 Luận đề 6

 

 Giáo Hội Địa Phương là một Giáo Hội đang sống qua tiến  trình hội nhập văn hoá hằng trường kỳ tiếp diễn  ở giữa lòng lịch sử; bởi vì, một đàng,  Giáo Hội là một cộng đồng đức tin không ngừng lớn  lên, và đàng khác, văn hóa cũng lại luôn luôn  biến hoá đổi thay. Ngày nay, đường lối mà một  Giáo Hội Địa Phương phải theo đuổi để tự hiện thực hóa  chính bản thân mình, là ra sức giải đáp cho thiết  thực những thách đố của các thế lực mới xuất hiện  trong dòng lịch sử; đó cũng chính là những  gì đang khai sinh ra tiến trình hiện đại hóa (modernization),  cũng như đang ảnh hưởng sâu đậm đến mọi lãnh  vực và khía cạnh trong đời sống của một dân tộc.

 

 6.01    Tiếp theo nhận định về sự việc Giáo Hội Địa Phương nẩy  sinh nên từ cuộc gặp gỡ với văn hóa, luận đề này  sẽ đứng từ một quan điểm năng động để thử nhìn  về cuộc gặp gỡ ấy, quan niệm rằng văn hóa là một  thực tại không ngừng biến hóa theo những bước phát  triển trong xã hội. Chúng tôi sẽ đặc biệt lưu ý tới  tiến trình hiện đại hóa, vì đây là một hiện tượng có  ảnh hưởng sâu đậm đến cả văn hóa lẫn xã  hội. Và tất cả những điều đó lại đều có tác  dụng đối với cách thức các Giáo Hội Địa Phương tại Á  châu hiểu về chính mình, cũng như về cuộc sống và  sứ mạng của mình.

 

6.02    Văn hóa là một thực tại không phải là tĩnh  nhưng là động: nó liên tục phát triển, tiến hóa và  biến đổi do những nhân tố từ bên trong cũng như  bên ngoài. Nền văn hóa nào cũng đều có biến  đổi; có khác thì chỉ khác ở chỗ biến đổi ấy có quy  mô và nhanh chóng hay không. Một trong những sức mạnh  đổi thay đáng kể nơi một nền văn hóa, là sự việc gặp  gỡ với các nền văn hóa khác. Khi tiến trình biến đổi  qua việc gặp gỡ như thế không còn có mặt nơi một  nền văn hóa nữa, thì nền văn hóa ấy sẽ bị cô lập  và tàn lụi dần đi, như thường thấy xẩy ra đối  với nhiều nền văn hóa và văn minh trong quá khứ. Nét  xuất sắc nổi bật ở nơi các nền văn hóa trường tồn  tại Á châu không phải biểu hiện đơn thuần ở nơi  tính cách cổ xưa của chúng, nhưng còn ở cả  sự kiện này nữa: trải qua biết bao thiên niên  và thế kỷ, các nền văn hóa ấy đã biết biến  hóa và hấp thu những yếu tố mới để tạo cho mình có  khả năng thích nghi và ứng đáp với những thách  đố và thăng trầm thiên hình vạn trạng xảy đến trong  lịch sử. Tại Á châu cũng như ở bất cứ nơi  nào khác, công cuộc hội nhập văn hóa đòi hỏi  Giáo Hội Địa Phương phải biết lớn lên nhờ biết lắng  nghe, nhận thức và ứng đáp đà diễn biến của  văn hóa. Nếu chỉ coi công tác hội nhập văn hoá như là  một việc cần phải làm một lần cho tất cả, và  quên đi tác động hỗ tương đối với văn hóa không ngừng  diễn biến ấy, thì không thể nào Giáo Hội tránh cho  khỏi bị vong thân và trở thành xa lạ đối với  những hoài bão, những khát vọng và chờ  mong của quần chúng được. Đó là những gì mà  kinh nghiệm của các Giáo Hội tại nhiều nơi trên thế giới  đã để lại làm bài học cho chúng ta.

 

6.03    Có một điều lạ trong văn hóa ngày nay, đó là  sự việc văn hóa biến đổi một cách đại quy mô chưa từng  thấy. Và tốc độ của đà biến đổi này lại  càng tăng thêm gấp bội bởi sức hối thúc của  tiến trình hiện đại hóa với những hậu quả của  riêng nó. Nói đến hiện đại hóa tức là nói đến tiến  trình biến đổi mau lẹ trong xã hội xảy ra do ảnh  hưởng của khoa học tân thời, của kỹ thuật  và kỹ nghệ hóa, của những phương tiện truyền  thông tân kỳ và công tác đô thị hóa, cũng như  của những hệ thống mới trong các lãnh vực giáo  dục, kinh tế và chính trị: tất cả những nhân tố  ấy đã tác động sâu xa đến nền văn hóa, đến các thể  chế, đến lối sống, v.v. cổ truyền. Và còn sâu xa  hơn nữa, tiến trình hiện đại hóa đã biến đổi cả  đến những thái độ sống và những giá trị, cũng  như cả đến ý thức của những cá nhân và những  nhóm nữa. Những đổi thay và biến hóa ấy, ai mà  không thấy hiện rõ mồn một ngay tại giữa các độ  thị Á Châu, là những thành phố hiện đang bành  trướng với một nhịp độ kinh hoàng, do hiện tượng di dân  tập thể và đô thị hóa đồng loạt.

 

6.04    Tại Á Châu, việc gặp gỡ giữa các nền văn  hóa cổ truyền và trào lưu hiện đại hóa đã làm  phát sinh ra vô số những trạng huống và những  phản ứng rất khác biệt nhau. Trong một vài xã  hội và một vài lãnh vực sinh hoạt tại Á Châu,  đà hiện đại hóa tiến hành sát cánh với các nền  văn hóa và lối sống cổ truyền. Trong các xã hội  ấy, vì đã quá quen sống trực diện với những mâu thuẫn,  nên người Á Châu cứ thản nhiên sống lối sống  hàng hai: tân tiến cũng chọn, cổ truyền cũng ôm.  Có một thái độ phản ứng khác, đó là cố vứt bỏ  cho xong văn hóa cổ truyền đi — vứt cả chì lẫn  chài — và lấy kiểu sống tân tiến mà thay vào  đó. Còn có nơi thì cứ khăng khăng chống cự lại với lối  sống hiện đại và các giá trị mới, để tiếp tục bảo  vệ văn hóa, thể chế, lối sống, v.v. cổ truyền. Cũng  có những nơi đã biết chuyển dịch các phong thái và  giá trị cổ truyền vào trong các hệ thống, các công cụ,  v.v. hiện đại; hay ngược lại, đem cái mới chồng chéo lên  trên cái cũ. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận  được rằng tại Á Châu, giữa các phản ứng khác  nhau đối với đà hiện đại hóa, trội nhất là ước vọng  thẳm sâu mong sao thu hoạch được những lợi ích của  nền văn hóa hiện đại, mà vẫn không đánh mất đi bản  sắc của di sản cổ truyền mình thừa hưởng, với  những giá trị và lý tưởng hằng bao nhiêu năm tha  thiết ấp ủ tận trong đáy lòng.

 

6.05    Việc gặp gỡ giữa truyền thống và hiện đại  đặt Hội Thánh trước một thách đố hết sức to lớn (MV 56).  Trong một bài nói chuyện với Ban Cố Vấn đặc trách Văn  hóa của Tòa Thánh, Đức Gioan Phaolô II nêu rõ  đặc nét của tình trạng đổi thay và biến hoá ngày  nay như sau:

 

 “Đứng trước một nền văn hóa mới đang lên, dĩ  nhiên là mọi tín hữu cũng như mọi người thiện  tâm thiện chí, đều có bổn phận phải biết sống can đảm  và sáng suốt. Những đổi thay về mặt xã hội và  văn hóa, những cuộc chính biến, những mầm mống ý  thức hệ, thái độ tự vấn về tôn giáo, thái độ dò dẫm  đối với nền luân lý đạo đức: tất cả đều chỉ cho thấy  một thế giới đang thời thai nghén, đang độ kiếm tìm lẽ  sống và hướng đi, kiếm tìm một tổng thể toàn vẹn,  một cuộc canh tân có tính cách ngôn sứ” (L’Osservatore  Romano, English edit. Dec. 16 1985).

 

   Đó là những nhận định hoàn toàn đúng đối với  hiện trạng tại Á Châu. Chỉ khi nào biết ứng đáp thích  đáng những cảnh huống phức tạp trong các nước Á  châu, thì lúc đó các Giáo Hội tại lục địa này mới có  thể trở nên những Giáo Hội Địa Phương đích thực được.

 

6.06    Trong khi ra sức để ứng đáp như vậy, trước hết Hội Thánh  cần phải nhìn nhận và tiếp thụ giá trị của cả  truyền thống lẫn văn hóa, cũng như vai trò trọng  yếu mà tiến trình hiện đại hóa đang đóng giữ. Một  thái độ thủ thế tất sẽ không đóng góp được gì cả  cho đà phát huy của Giáo Hội Địa Phương và cho việc  chu toàn sứ mạng mà ngày nay Thiên Chúa đang ủy  thác cho Giáo Hội. Gia sản của các nền văn hóa và  các truyền thống Á Châu phải được tích cực cổ xúy  và phát huy, vì Thiên Chúa và Thần Khí của Ngài  đã từng hoạt động mạnh mẽ trong lịch sử các  dân tộc Á Châu. Những biểu hiện văn hóa muôn hình  thái của chúng phản ánh bản thể chân-thiện-mỹ  của Thiên Chúa. Hệt như vậy, tiến trình hiện đại hóa  cũng nói lên sự kiện Thiên Chúa hằng có mặt ở trong  lịch sử hiện đại của chúng ta. Do đó, Giáo Hội Địa  Phương phải biểu thị một thái độ hết sức cởi mở  — như công đồng Vaticanô II đã từng nêu cao —  đối với các nền văn hóa các dân tộc cũng như đối với  thế giới hiện đại và các bước phát triển của nó.

 

6.07    Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes đã miêu tả  rõ về một trong những vấn đề cốt tuỷ gặp phải  tại Á Châu cũng như tại các nơi khác, với những  lời lẽ như sau: “Phải làm thế nào để  có thể phát huy sức sống và đà phát triển của  một nền văn hóa mới, mà không đánh mất đi lòng trung  thành sinh động đối với di sản của truyền thống?”  (MV 56). Các Giáo Hội Địa Phương tại Á Châu có bổn  phận phải ứng đáp thỏa đáng cho ưu tư và ước vọng  kia, là những tâm tư hiện đang trải rộng trong khắp  Á Châu. Khi ứng đáp như thế, Giáo Hội cần phải lưu  ý đến sự kiện này là nếu chỉ chồng chéo lên trên  những gì đã có, những nhân tố mới lấy từ  bên ngoài hoặc rút ra từ một quá trình dị sinh (phát  sinh từ giống loài khác =heterogenetic ), thì không  thể nào có một cuộc thay đổi thực sự sâu rộng và  lâu bên nơi một nền văn hóa được. Trong một nền văn hóa  hay trong một xã hội, một cuộc đổi thay chỉ xảy đến,  lúc nào nó phát sinh từ nội giới của chính nó,  tức là do một tiến trình trực sinh (phát sinh thẳng từ  giống loài của mình =orthogenetic ). Cuộc gặp gỡ  giữa truyền thống và hiện đại phải tiến hành  thế nào để tiến trình thay đổi văn hóa phát động từ  nội giới, có đủ khả năng dùng óc sáng tạo mà  đáp ứng những yêu cầu thích nghi của tân thời,  và dùng tài khéo léo tổng hợp mà làm  cho cả tân thời nữa cũng trở thành  của riêng mình.

6.08    Muốn đóng góp để kiến tạo một công trình phối hợp hài  hòa giữa truyền thống và hiện đại, thì Hội Thánh  tại Á Châu cần phải biết lấy óc phê bình mà  phân định. Vì các nền văn hóa Á Châu vẫn còn  tỏ ra khá mập mờ, chưa dứt khoát; điều đó muốn nói  rằng bên cạnh vô số những lý tưởng, nhãn giới  và giá trị cao siêu, chúng vẫn còn ngang nhiên  chứa chấp nhiều nhân tố đàn áp và phi nhân; chẳng  hạn như là thảm trạng phân biệt đẳng cấp tiếp tục  đi ngược lại với quyền bình đẳng giữa mọi con người,  hoặc là thái độ kỳ thị phụ nữ, v.v.

 

Đàng khác, cho dù có góp phần lớn lao và kỳ  diệu vào trong tiến trình nhân đạo hóa xã hội loài  người, thì trào lưu hiện đại cũng vẫn còn  chất chứa nhiều mâu thuẫn sâu xa. Nó đang xói mòn  một số các giá trị hằng được quý mến trong các xã hội  Á Châu, gây nên cảnh đem đồi phong bài tục làm  thương mãi, đưa tới chỗ dựng lên một guồng máy bất  nhân khổng lồ chưa từng thấy nhằm bóc lột những đám  dân nghèo yếu. Trào lưu hiện đại hóa cặp song đôi  với hiện tượng kỹ nghệ hóa tiên tiến, đang gây hại trầm  trọng đến môi sinh thiên nhiên ở Á Châu. Nạn nhân  là những tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội,  chẳng hạn như là các người dân bộ lạc và các  thuyền chài phải sống nhờ vào các lâm sản  và hải sản. Đà kỹ nghệ hóa hiện đại cũng  đang đè nặng nhiều nhất lên trên vai của các phụ  nữ Á Châu vì phải chịu cảnh di dịch từ nơi  này đến nơi khác, chịu bóc lột và bị đem ra làm  mồi cho mãi dâm.

 

6.09    Trong bối cảnh gặp gỡ như thế giữa truyền  thống và hiện đại, Giáo Hội Địa Phương cần phải biết  lấy óc phê bình mà phân định bằng cách ý thức cho tỉnh  táo rằng cả truyền thống lẫn hiện đại đều có những  ưu và khuyết điểm của chúng. Giáo Hội có bổn phận  phải góp phần vào trong tiến trình biến hóa hướng  tới một nền nhân bản mang bản sắc Á Châu thực  sự: đó là thành quả gặt hái được từ cuộc  gặp gỡ và phối hợp hài hòa giữa các yếu  tố hay đẹp nhất tìm thấy ở trong văn hóa cổ truyền và  trong trào lưu hiện đại. Như thế, qua sự việc tích cực  dự phần vào trong dòng lịch sử quá khứ và  hiện đại của các dân tộc Á Châu, bởi biết lấy  óc phê bình mà đồng nhất hóa mình với truyền thống, và  văn hóa, với những khát vọng và hoài bão  họ đang ấp ủ, Hội Thánh sẽ mang bản sắc Á  Châu thực sự. Hình thái của các Giáo Hội Địa Phương Á  Châu ngày mai sẽ tùy thuộc vào tiến trình hội  nhập văn hóa đang thành hình hôm nay ngay trong bối cảnh  gặp gỡ giữa truyền thống và trào lưu hiện  đại tại Á Châu.

 

 Luận đề 7

 

 Muốn tự hiện thực hóa chính mình tại Á Châu, thì Giáo  Hội Địa Phương cần phải biết thắt nối những mối quan  hệ mới với những tín đồ láng giềng thuộc các tôn giáo  khác, và cần phải biết dấn thân vào trong các  hoạt động nhằm mục đích cổ xuý công lý, nhân phẩm và  nhân quyền, cũng như vào trong công tác thực thi một  cách thiết thực, lòng thương đặc đãi (preferential  love) đối với người nghèo.

 

 7.01    Để có thể triển nở một cách trọn vẹn (hiện thực  hóa chính mình = self-realization ) ngay trong môi trường  sống của mình, thì các Giáo Hội Địa Phương tại Á Châu  cần phải lưu ý cách riêng tới hai lãnh vực hoạt động  đặc biệt quan trọng, đó là: đối thoại và hội  nhập văn hóa . Hai mối quan tâm này (như bản tuyên  ngôn của FABC I đã khẳng định với những lời  lẽ hết sức mạnh mẽ) phải là cốt tủy của  đời sống và sứ mạng các Giáo Hội này. Nếu Hội  Thánh là bí tích của mối hiệp thông với Thiên Chúa  và của tình liên đới giữa loài người (HT  1), thì hết thảy mọi Giáo Hội Địa Phương ở trong phần  đất Á Châu này của thế giới, cũng phải  biết giao hảo với những người láng giếng chung  quanh đây hệt theo cách thức mà các Giáo Hội này  cụ thể cảm nghiệm về chính mối hiệp thông và chính  tình liên đới ấy trong truyền thống tôn giáo của mình.  Đối thoại với các tôn giáo khác là một việc làm  gắn bó mật thiết với tiến trình hội nhập văn hóa mà  các Giáo Hội Á châu chúng tôi theo đuổi, bởi vì tại  nhiều dân nước Á Châu, kinh nghiệm tôn giáo và tín  ngưỡng cũng như việc hành đạo đều là những  gì làm nên linh hồn cho văn hóa. Tôn giáo và văn  hóa gắn bó khăng khít với nhau đến nỗi không thể nói  tới một bên mà không đề cập đến bên kia được. (Vấn  đề này đã được bàn tới trong các Luận đềchúng tôi đưa ra, liên quan đến Việc đối thoại giữa  các tôn giáo ).

 

7.02    Với hàng triệu triệu người sống với hai bàn  tay trắng, thiếu thốn ngay cả đến những nhu yếu phẩm  cơ bản nhất, như: thức ăn, nước uống, nhà ở, phần  đông các dân nước tại Á Châu chúng tôi đều mang nặng  dấu vết của nghèo khổ và bần cùng tập thể.  Theo gương mẫu mầu nhiệm Nhập Thể, các Giáo Hội Địa Phương  chúng tôi cần phải lấy tinh thần liên đới mà chia  sẻ thực sự số phận của những người nghèo  đói, của những người bị bỏ rơi ngoài lề  xã hội và của những người bị bóc lột.  Công tác loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn  (Lc 4,18), đòi hỏi các Giáo Hội Địa Phương chúng tôi  phải trở nên Giáo Hội của người nghèo.  Chúng tôi vui mừng nhận thấy những cố gắng mới trong  việc đẩy mạnh tình liên đới đối với người nghèo,  và cả trong hành động quả cảm của một  số anh chị em quyết sống đồng nhất hóa thực sự với họ. Tuy  nhiên, chúng tôi cũng hết sức đau lòng mà nhận  rằng nhiều thể chế hoặc cơ sở của các Giáo Hội chúng  tôi vẫn còn phản ánh quá rõ giàu sang  và quyền thế, và thường xảy ra là các  trường học, các bệnh viện, v.v. của chúng tôi hầu  như chỉ có giúp ích cho những người giàu có không  thôi. Lối sống của một số người lãnh đạo các  Giáo Hội, của một số linh mục và tu sĩ, không biểu  thị được tinh thần bình dị và từ bỏ của Tin  Mừng.

 

7.03    Năm 1974, FABC I đã kêu gọi các Giáo Hội Địa  Phương Á Châu xúc tiến công tác đối thoại với người  nghèo:

 

   “Trong rất nhiều nước tại Á Châu, đối thoại  với người dân có nghĩa là Giáo Hội đang đối thoại  với người nghèo. Cuộc đối thoại này phải hình  thành theo cái mà người ta gọi là một công  trình “đối thoại bằng chính cuộc sống”. Điều đó đòi  hỏi cần phải có kinh nghiệm thực sự và hiểu biết  đích xác về đời sống nghèo túng… của không biết  bao nhiêu người trong các dân nước chúng ta. Chúng tôi  tin chắc rằng tiếng của Đức Kitô còn đang vang vọng  ra từ cảnh thiếu thốn bần cùng vật chất của  các dân nước chúng ta, cũng như từ tiềm năng khủng  khiếp của con người họ, và từ khát vọng của  lòng họ mong sao cho có được một thế giới nhân đạo và  huynh đệ hơn, để gióng lên một lời kêu gọi khẩn thiết  gửi đến các Giáo Hội Á Châu” (FABC I,19,  20, 22).

 

 7.04    Cách tiến hành công cuộc hội nhập văn hóa ngay ở  giữa môi trường sống của người dân như thế,  sẽ mở rộng đường cho Giáo Hội Địa Phương tiến bước  đến tận cùng chân trời của Nước Chúa. Nước Chúa  thì mênh mông rộng lớn hơn Hội Thánh, và Hội Thánh chỉ  là khí cụ của Nước Chúa. Và như vậy, Giáo Hội  Địa Phương bước vào trong một thế năng động có đầy sức  để đẩy mạnh công cuộc rao giảng Tin Mừng, và đạt  tới mức thành tựu của chính bản thân mình nhờ  biết mang nhân phẩm, công bằng và tự do đích thực đến  với cuộc sống của những người nghèo khổ và  của những kẻ bị áp bức. Chúng tôi xin nhắc lại  sau đây lời của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới,  nhóm họp năm 1971: “Chúng tôi nhận thức rõ rằng hoạt  động cho công bằng và tham dự vào trong công cuộc  biến cải thế giới là những hoạt động làm  nên một trong những chiều kích cấu thành của việc  rao giảng Tin Mừng”.

7.05    Văn hóa thì gắn bó rất mật thiết với các lãnh vực  xã hội và chính trị. Ngày nay, người ta nhận  thấy là càng ngày văn hóa càng chiếm giữ  một vai trọng yếu hơn trong bình diện xã hội chính trị.  Thế nên, trong tiến trình hoàn thành chính mình qua công  tác hội nhập văn hóa, các Giáo Hội Địa Phương phải hết  sức lưu ý đến hai khía cạnh sau đây: thứ nhất , trong  nhiều xã hội hoặc dân nước chúng ta, thường có hai  loại văn hóa: văn hóa của những lớp người nắm  giữ quyền hành về mặt chính trị và kinh tế, và  văn hóa của những từng lớp yếu thế vô quyền.  (Đô hộ văn hóa đi đôi với đô hộ chính trị và kinh tế,  và là một yếu tố chủ yếu để củng cố nền  đô hộ này. Đô hộ chính trị và kinh tế thì coi thường,  nếu không nói là xóa bỏ văn hóa của dân nghèo  và của những bị gạt ra ngoài lề xã hội).  Nếu muốn “đối thoại bằng chính cuộc sống” với người  nghèo tại Á Châu, thì Giáo Hội Địa Phương phải  biết lưu tâm đặc biệt đến “truyền thống nhỏ bé”  của các từng lớp dân nghèo yếu thế vô quyền  này. Không nên nhầm lẫn đồng nhất hóa việc hội nhập  văn hóa với hành động oa nhập vào trong văn hóa của  các từng lớp thống trị nắm giữ quyền hành ở  trong một xã hội; nhưng trái lại, cần ý thức rõ là  việc hội nhập văn hóa phải trở thành một tiến  trình qua đó, Giáo Hội Địa Phương sống liên đới với người  nghèo, với truyền thống và phong tục, với lối sống  và cách thức suy nghĩ, v.v. của họ.

 

7.06    Và điểm thứ hai cần lưu ý là: không nên  khoán trắng tiến trình hiện đại hóa cho riêng các lớp người  nắm quyền hành trong xã hội để rồi họ giữ trọn  độc quyền mà lèo lái hầu trục lợi cho riêng mình.  Có được thanh lọc qua mối quan tâm đối với những người  nghèo và những người bị xô đẩy ra ngoài  lề cuộc sống tại các xã hội Á Châu, thì công cuộc  hiện đại hóa mới được giải độc cho khởi những  tác dụng bất nhân, và mới có thể đứng trong tư thế sẳn  sàng để phục vụ chính nghĩa công bình và tự do được.  Cho nên, đối với chúng tôi, tiến trình hội nhập văn hóa  còn phải bao gồm cả nổ lực này nữa: nổ  lực đem các thách đố mà tiến trình hiện đại hóa đặt  ra, lồng vào trong cuộc thoại với vô số những người  nghèo khổ và yếu thế vô quyền đang sống ở giữa  chúng ta.

 

 Luận đề 8

 

 Cộng đồng kitô là chủ thể chủ động trong công  tác hội nhập văn hóa, là công tác ăn sâu vào trong  hết mọi khía cạnh của cuộc sống và hoạt động làm  chứng tá, cũng như của sứ mạng người kitô.

 

 8.01    Công tác hội nhập văn hóa là một việc làm mà  toàn thể cộng đồng kitô hữu có bổn phận phải  dấn thân chu toàn. Như thế là vì, trước hết, Hội Thánh  là một dân tộc. Vì vậy, mọi tầng lớp trong dân đều có  bổn phận phải tham gia bằng một cách nào đó, vào  trong tất cả mọi sinh hoạt chung. Sau nữa là vì  công tác hội nhập văn hóa là một sinh hoạt toàn  diện, có tác dụng trên mọi khía cạnh của đời sống  và sứ mạng kitô của toàn Dân Chúa. Thế nên,  công tác ấy không thể thực sự thành tựu được, nếu để  lo cho nó, chỉ có một nhóm chuyên viên tinh hoa mà thôi.

 

8.02    Trong khi sống đúng theo “cảm thức về đức tin được  Thần Khí chân lý khơi dậy và duy trì” (GH 12)  ở giữa môi trường riêng biệt của mình, các  tín hữu cần phải học cho biết cách biểu thị lòng  tin của mình: nghĩa là không những bằng thái độ  trung thành bước theo truyền thống tông đồ mà thôi,  nhưng còn cả bằng thái độ ứng đáp thích nghi với những  trạng huống cụ thể của văn hóa mình nữa. Việc ứng  đáp này là trách vụ của toàn thể cộng đồng,  vì cộng đồng có trọng trách nhận thức cho rõ Lời  của Chúa và Thần Khí của Ngài ngay ở giữa  lòng văn hóa và lịch sử của mình. Đó là  trọng trách có một không hai; không ai có thể khoán trắng  trọng trách riêng ấy cho một người khác được, và  cũng không có gì thay thế nó được. Bởi vì đều có  môi trường sống riêng, khác biệt nhau, cho nên trong khi  vẫn duy trì bền chặt mối thông hiệp hoàn vũ, mỗi  Giáo Hội Địa Phương đều được hưởng quyền tự trị chính đáng,  để nhờ đó, có thể đem sáng kiến mình ra mà tổ chức  nhịp sống và các cơ chế riêng, cùng chu toàn ngay  tại trong bối cảnh văn hóa cá biệt của mình, sứ mạng  Thiên Chúa đã trao phó cho. Trong thông điệp Octogesima  adveniens , Đức Phaolô VI đã viết rằng: “Đứng trước  những hoàn cảnh rất ư là khác nhau như thế,  thật khó mà đề ra cho được một giải pháp thích đáng  cho khắp nơi. Thực ra, đó cũng không phải là tham  vọng của chúng tôi, và cũng chẳng phải là  sứ mạng của chúng tôi nữa. Các cộng đồng kitô có  nhiệm vụ phân tích một cách khách quan tình trạng riêng ở  nước mình, và lấy ánh sáng nơi Lời bất di dịch của  Tin Mừng mà soi chiếu cho tình trạng ấy” (OA 4). Được phát biểu để thừa nhận trách nhiệm của Giáo  Hội Địa Phương trong nổ lực ứng đáp cho thỏa đáng các  vấn đề xã hội trong môi trường sống của mình,  những lời lẽ trên đây của Đức Phaolô VI cũng  có thể được áp dụng cả cho trường hợp của công  tác hội nhập văn hóa nữa.

 

8.03    Phụng vụ của cộng đồng kitô là một lãnh  vực rất quan trọng trong công trình hội nhập văn hóa. Phụng  vụ diễn đạt đức tin của Hội Thánh (lex orandi lex  credendi ). Phụng vụ phải là thành quả của  kinh nghiệm đức tin tại một môi trường văn hóa cá biệt.  Và ngược lại, kinh nghiệm phụng vụ ấy phải nở  hoa từ một đời sống kitô đã hoàn toàn  hội nhập văn hoá. Vì thế, việc đưa phụng vụ của cộng  đồng kitô hội nhập vào trong văn hóa không phải là  một việc gán ghép từ bên ngoài bằng một tiến trình  ngoại lai và giả tạo; nó phải bộc phát một cách  tự nhiên từ nhịp sống đức tin hoàn toàn đâm rễ  vào ngay tại trong bối cảnh văn hóa và trong thực  thể cuộc sống của người dân. Tuy nhiên, vì đã  từ quá lâu, đời sống phụng vụ của các Giáo Hội  Địa Phương đứng ở một vị thế xa lạ tách biệt khỏi  những truyền thống văn hóa trong vùng, cho nên, trong  gian đoạn quá độ này, là lúc đang nổ lực để sống  một đời sống giáo hội hoàn toàn hội nhập văn  hóa, việc thử nghiệm hoặc đề ra những kiểu mẫu  trong lãnh vực phụng vụ là một việc làm rất chính  đáng và rất cần thiết để giúp cho quá trình hội nhập  văn hóa do toàn thể cộng đồng cùng chung sức xúc  tiến, được dễ dàng hơn. Đúng thế, những thử  nghiệm ấy không được phản ánh chỉ có mối quan tâm của  một số chuyên viên không thôi, nhưng trái lại, cần phải  biết đối thoại với toàn thể cộng đồng kitô.

 

8.04    Một lãnh vực khác trong công trình hội nhập văn hóa:  việc huấn luyện lòng tin, tức là việc dạy giáo lý  để dẫn dắt các tín hữu bước những bước đầu đi  vào trong đời sống đức đạo, và để giúp họ đạt  tới mức trưởng thành trong đức tin. Về phương diện  nội dung cũng như phương pháp và thuật ngữ, việc  dạy giáo lý phải được tổ chức làm sao cho hoà  hợp với kinh nghiệm, với các truyền thống sư phạm, với bản  chất tâm lý và với thiên tư ngôn ngữ của người  dân. Là một trong những yếu tố cấu thành đời  sống Giáo Hội Địa Phương, việc huấn luyện lòng tin có  bổn phận phải phản ánh trọn mọi chiều kích của  cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội. Đã đành  là phải giữ vững chân lý các tín điều, nhưng  không phải vì thế mà việc dạy giáo lý có quyền thu  hẹp đóng khung mình lại ở trong một bộ công thức tín lý  và sách bổn, coi đó như là có giá trị bất di dịch  để diễn dịch và biểu đạt tín ngưỡng trong mọi thời  và nơi mọi nền văn hóa. Trong Tông huấn Catechesi tradendae ,  Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cũng đã nhấn mạnh đến  tiến trình cần yếu của công tác hội nhập văn hóa việc  dạy giáo lý với những lời lẽ như sau:

 

 “Có lẽ từ “thích nghi văn hóa” (acculturation) hoặc “hội nhập văn hóa” (inculturation)  là một từ ngữ mới, nhưng dù sao thì nó cũng  diễn tả rất đúng một nhân tố trong mầu mhiệm lớn  lao của công trình Thiên Chúa Nhập Thể: Đối với tác vụ  dạy giáo lý, cũng như đối với công tác rao truyền Tin  Mừng nói chung, chúng ta có thể nói rằng ơn gọi của  tác vụ ấy là mang sức mạnh của Tin Mừng đưa vào  tận trong tâm can của các nền văn hóa và tận trong  các yếu tố cấu thành chúng. Tác vụ dạy giáo lý cần  phải học hỏi để biết cho sành những cách thức  diễn đạt đặc trưng nhất của các nền văn hóa, cũng  như phải biết tôn trọng các giá trị đặc thù và  phong phú của chúng” (Số 53).

 

 8.05    Đời sống trong Thần Khí, tức là đời sống thiêng  liêng, phải biết gióng theo và phản ánh kinh nghiêm  về Thần Khí mà một dân tộc phát hiện được ngay tại trong  văn hóa và truyền thống của họ. Bởi vì chúng  tôi biết rằng Thần Khí đang hiện diện và hoạt động ở  giữa các dân tộc Á Châu, ở trong lịch sử và  truyền thống, ở trong văn hóa và tôn giáo của  họ. Và do đó, công trình hội nhập văn hóa sẽ là  một cuộc gặp gỡ của Thần Khí với Thần Khí, có sức  tăng cường cho các mối liên kết của niềm hiệp thông  và của tình liên đới thiêng liêng đối với dân tộc  tại nơi Giáo Hội Địa Phương đang sinh sống và phát trển.  Di sản tinh thần và những giá trị đạo đức qua bao  thiên niên thế kỷ đã từng nuôi dưỡng nhân  dân lục địa này, thì bây giờ tất phải tuôn chảy  vào trong đời sống của Giáo Hội Địa Phương để làm  cho các Giáo Hội được nên phong phú hơn. Các giá trị như:  ý thức sâu xa về Thiên Chúa, suy gẫm, chiêm niệm, đời  nội tâm, khổ hạnh, từ bỏ mình, lối sống bình dị, lòng  tin sâu đậm, thinh lặng, tinh thần phó thác, cảm thức  nhiệm mầu, hiệp thông sâu thẳm, là một số trong các  giá trị thiêng liêng được các truyền thống của chúng  tôi đề cao, quý trọng và cổ xúy. Kỳ Đại Hội khoáng  đại lần thứ hai của FABC với đề tài thảo  luận: “Cầu nguyện: Sức sống của Giáo Hội Á Châu”,  đã nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải sáp nhập những  lề lối cầu nguyện và phụng tự của các dân tộc chúng  ta, vào trong đời sống của các Giáo Hội Địa Phương  tại Á Châu. Các Giám mục đã khẳng định rằng:

 

 “Càng ngày chúng tôi càng thâm tín  hơn rằng ngày nay Thần Khí đang dẫn dắt chúng tôi,  không phải là đến với một thứ chủ thuyết hỗn  hợp mờ ảo nào đó (đó chính là điều mà  toàn thể chúng tôi nhất tề gạt bỏ), nhưng là  đến với một nổ lực điều hợp – sâu rộng và có tổ chức  – nhằm đưa hết thảy những gì tốt đẹp nhất ở trong  các lề lối cầu nguyện và phụng tự cổ truyền của  chúng ta vào trong kho tàng của di sản kitô…  Và như vậy, cuối cùng rồi vô số những di sản  bản xứ phong phú ấy sẽ tìm thấy được vị trí tất nhiên  của chúng ở trong kinh nguyện của các Giáo Hội  tại Á Châu chúng ta, và sẽ làm cho đời  sống cầu nguyện của Hội Thánh trong khắp thế giới được  thêm bội phần phong phú” (số 31,33).

 

 8.06 Thiết tưởng không cần phải nói thêm rằng đời  sống kitô và nổ lực dấn thân truyền giáo của các  Giáo Hội Địa Phương tại Á châu cũng phải được  một đường hướng suy tư thần học đi kèm: một đường  hướng biết lưu tâm để ứng đáp thiết thực những thắc  mắc và những vấn đề nảy sinh từ kinh nghiệm  và hoạt động giữa cuộc sống. Sắc lệnh Ad Gentes  của Công đồng Vaticanô II, về hoạt động truyền giáo,  đã xác nhận tầm quan trọng và sự cần thiết của  suy tư thần học đi liền với bối cảnh (contextualized /bối  cảnh hóa) như thế, bằng những lời lẽ như sau:

 

 “Tất yếu, việc nghiên cứu thần học cần phải  được đẩy mạnh tại mỗi vùng văn hóa xã hội rộng  lớn (major socio-cultural area), như người ta thường  gọi (những người sống trong cùng một vùng như  thế thì đều hấp thụ ảnh hưởng của cùng một  hình thái văn hóa xã hội). Nhờ thế, mới có được  một đà học hỏi sưu tầm mới mẽ biết lần bước  theo ánh sáng Thánh Truyền của Hội Thánh Hoàn Vũ  soi dẫn mà thấu hiểu cho sâu sắc hơn những điều  Thiên Chúa mạc khải qua hành động và ngôn từ  của Ngài, tức là những gì đã được ghi chép  trong Kinh Thánh cũng như đã được các Giáo Phụ và  Quyền Giáo Huấn của Hội Thánh giải thích” (số  22).

 

 8.07    Để thành công trong nổ lực đưa thần học tới chỗ  hội nhập văn một cách sâu rộng, thì điều thiết yếu là  phải sáng chế ra những phương pháp thần học và  những cách thức giải thích mới, có sức phản ánh  văn hóa và truyền thống, tâm tính và lối suy nghĩ  của các dân tộc Á Châu. Về điểm này, chúng tôi  thấy cần phải nêu rõ vị trí nổi bật của kinh nghiệm.  Tất cả các truyền thống triết lý của Á Châu  đều dành cho kinh nghiệm và/hoặc việc liên hệ trực  tiếp với thực tại, một vị trí đặc biệt. Như thế, kinh nghiệm  phải là khởi điểm của bất cứ một nền thần  học nào muốn mang tính chất Á Châu thực sự. Tiến  trình hình thành của các khái niệm cần phải đâm  rễ một cách vững chắc vào trong kinh nghiệm. Một  khi đã đâm rễ sâu vào trong kinh nghiệm và  trong đời sống như vậy, thì suy tư thần học sẽ có đủ  khả năng để giúp các Giáo Hội Địa Phương chúng tôi thấu  hiểu và giải thích đức tin của mình, cùng biểu  đạt đức tin ấy qua những cách thức đầy sáng tạo thật  sự.

 

8.08    Có một phạm vi khác đang đòi phải được “bén  rễ vào trong lòng đất mẹ của các nền văn  hóa và các truyền thống Á Châu chúng tôi” cho  sâu rông hơn; đó là đời sống tu trì ở trong các  Giáo Hội chúng tôi. Đời tu hành là nhằm mục đích  làm cho thấy rõ hơn ý nghĩa của một lối sống hoàn  toàn dành riêng cho các giá trị của đức tin kitô.  Qua viêc phụng tự và làm chứng tá, qua đời sống  chung và phục vụ, các tu sĩ, nam cũng như nữ, phải  nêu rõ cho thấy phương cách các môn đồ của Đức Giêsu  đưa đời sống và sứ mang của Ngài nhập thể  theo một đường lối trung thực nhất, vào giữa lòng  một dân tộc và giữa lòng một nền văn hóa.

 

Bằng những phương thức đáng ca ngợi, nhiều cộng đoàn  và cá nhân các tu sĩ đã đứng ở những hàng  đầu trong các nổ lực nhằm xúc tiến quy mô công cuộc hội  nhập văn hóa và việc xây dựng tình liên đới đối với  người nghèo. Tuy nhiên, buồn thay, tại một vài  nơi và trong một số hoàn cảnh, các cộng đoàn  tu sĩ vẫn còn giữ nguyên nhiều yếu tố ngoại lai  và xa lạ đối với môi trường chung quanh mình. Có thể  thấy rõ điều đó trong cách dùng ngôn ngữ và  trong lối sống, trong các chương trình đào tạo (thường  khi bị chi phối nặng bởi các thành viên nước ngoài)  cũng như trong việc tiếp tục du nhập các nhân tố tha hóa  thuộc các nền văn hóa khác. Chẳng hạn, có khi những  thành viên người Á Châu lại bị bắt buộc phải  xử dụng cho mình, một cách thiếu phê bình, những phương  pháp tâm lý thường được dùng trong các nền văn hóa  khác; cũng có những trường hợp, việc thích nghi  với các nhân tố xa lạ ấy được coi như là tiêu chuẩn  để được nhận vào dòng tu. Không thiếu chi trường  hợp các thành viên người địa phương bị buộc phải  “sống như Tây”, nếu họ muốn “ở yên” trong  nhóm. Thường thì các cơ quan đầu nảo quyết định nằm  cả ở nước ngoài; và ở đó, những người  có quyền quyết định lại không có khả năng để phân định đâu thực sự là yếu lĩnh của đời tu trì và  đâu chỉ là những phong cách và quy lệ thuần túy  văn hóa của một địa phương. Như vậy, nhân danh một thứ  phổ quát tính giả mạo nào đó, công tác hội nhập  văn hóa sẽ bị cản trở, hoặc là có thể bị  chặn đứng hẳn đi nữa, bởi những bậc bề trên và  những người không thể hoặc không biết rung cảm  trước những ước vọng và nhu cầu của các thành  viên Á Châu, hay là bởi những người cho  đến giờ này vẫn còn (có thể là họ không  hoàn toàn ý thức) mang khư khư trong mình thái độ tự  cao tự đại, nghĩ là mình có văn hóa cao hơn.

 

8.09    Những chương trình đào tạo, trước tiên, cần phải  được thấm nhuần ngôn ngữ và lối sống của những  tầng lớp nghèo ở các miền xứ chúng ta. Việc thể  hiện ra trong cuộc sống hằng ngày, lòng ưu ái đặc  biệt đối với các người nghèo thường là cách  thế hữu hiệu nhất để tiến hành công tác hội nhập  văn hóa thực sự cho đời tu trì. Chung chung mà nói,  thái độ xa tránh hình thức giữ đạo của người nghèo  hèn thấp kém, là kết quả của những phong  cách đào tạo sai lệch, tưởng rằng nếp sống thường  thấy tại các xã hội Tây phương (thường bị tục hóa  đến mức trầm trọng) phải là nếp sống bắt buộc đối  với hết thảy mọi người. Đó là điều cần phải  cẩn trọng đề phòng.

 

8.10    Việc duyệt xét lại đường lối tu trì tại các Giáo  Hội Địa Phương Á Châu như thế— một cuộc duyệt xét  còn rất cần thiết đối với nhiều nước— cho thấy là  có một số đặc nét trong các truyền thống tâm linh của  các nền văn hóa địa phương, như là lý tưởng sannyasa  (lối sống từ bỏ) trong Ấn độ giáo, hoặc hình thức  sống tăng hội trong Phật giáo, có thể đóng góp nhiều về  mặt gây cảm hứng, nêu gương mẫu và làm cho  thêm phong phú dồi dào hơn. Nếu biết trở thành  hăng say và năng động hơn, nếu biết chăm chỉ nhận định  cho sáng suốt hơn, thì công cuộc hội nhập văn hóa của  đời tu trì tại Á Châu có thể dẫn lối đưa đường  đến một cuộc sống làm chứng tá và phục vụ, khuôn  rập đúng với lý tưởng đích thực của Tin Mừng hơn,  ngay ở giữa lòng các dân tộc tại vùng đất  này.

 

 Luận đề 9

 

 Các giáo đoàn cơ bản là những môi trường  đặc biệt quan trọng để tiến hành công cuộc hội nhập  văn hóa và xây dựng Giáo Hội Địa Phương.

 

 9.01  Ngày nay, nhiều nơi tại Á Châu, có những giáo  đoàn cơ bản (GĐCB hoặc các cộng đoàn nhỏ  sống đức tin) hiện đang sinh sôi nẩy nở ra nhiều theo đà  ứng đáp cho những nhu cầu của đời sống và  sứ mạng kitô. Trong các cộng đoàn này, nhờ biết  cầu nguyện dựa theo Lời Chúa và Lễ Tạ ơn, nhờ  biết gặp gỡ hội họp, nhờ biết sống tinh thần phục  vụ lẫn nhau và chia sẻ cho nhau, nên các tín hữu  kitô đã đi đến chỗ cảm nghiệm được bản chất  đích thực của Hội Thánh: nghĩa là phải như thế  nào mới gọi là Hội Thánh. Các cộng đoàn này  cũng là nơi các kitô hữu thực sự quen biết nhau  bằng danh tánh, và giúp củng cố lòng tin cho nhau;  hiệp thông và hợp tác trở thành những thực  tại sống động. Và vì biết dựa theo ánh sáng Lời Chúa  mà vật lộn với những vấn đề ở trong cuộc sống,  nên họ có đủ sức mà hấp thụ Lời Chúa làm  ý nghĩa cho chính đời mình, cũng như nhận ra những  thách đố và những đòi hỏi cụ thể đi kèm  theo Lời Chúa. Trong khi có những GĐCB chú tâm  vào việc đào sâu cầu nghuyện tập thể và giúp  đỡ lẫn nhau, thì cũng có những cộng đoàn  khác lại cố tìm cách phát hiện và cải cách những  căn nguyên gây ra tình trạng kém mở mang và bất công,  cũng như đẩy mạnh công cuộc cải tiến xã hội.

 

          Như vậy, các GĐCB trở thành những môi trường  và những tác nhân đặc biệt hữu hiệu trong công  trình đưa Tin Mừng hội nhập vào trong văn hóa. Trong  các cộng đoàn đó, Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô  trở thành Tin Mừng cho người dân.

 

9.02    Vì thế, để khỏi bị cô lập hóa và bị các ý thức  hệ lèo lái, cũng như để bảo toàn tính cách  giáo hội của mình, thì các GĐCB cần phải duy  trì mối giây hiệp thông với các chủ chăn trong Hội Thánh.  Một trong các phương tiện hết sức hiệu lực để củng cố  niềm hiệp thông ấy là việc huấn luyện liên tục cho những  người lãnh đạo trong các cộng đoàn (xem Evangelii  nuntiandi , 58).

 

9.03    Tại nhiều vùng trong các dân nước chúng tôi, ở  những nơi mà họ chỉ là một thiểu số rất ít ỏi  và sống rải rác, người kitô lắm khi phải đương  đấu đối phó với cùng một loại vấn đề giống hệt như  những người theo các tín ngưỡng khác. Vì họ cùng  sống và cùng đấu tranh với những vấn đề giống  nhau như thế, các người kitô và những đạo hữu  các tôn giáo khác đều có thể coi như là thành viên  của các cộng đoàn cơ bản giữa loài người.  Trong các cộng đoàn này, đời sống đức tin của  các thành phần kitô có thể lớn lên nhờ cuộc “đối  thoại bằng đời sống” với tín đồ các tôn giáo khác,  cũng nhờ sự việc cùng với họ, đương đầu đối phó  với các vấn đề trong cuộc sống, chẳng hạn như là đấu  tranh để chống lại nghèo đói, đấu tranh cho công bằng  và các quyền con người, và những nổ lực nhằm  xây dựng một thế giới hòa bình giữa những khác  biệt đa dạng. Các cộng đoàn cơ bản loài người  có thể trở thành những môi trường đặc hiệu  để cảm nghiệm và chứng thật về sự việc Thần Khí  thực sự hiện diện ở giữa những người thiện  tâm, cũng như để có những dịp thuận lợi mà làm  chứng một cách cụ thể và thiết thực về Đức Kitô cho  những người thuộc các tín ngưỡng khác. Hơn nữa,  trong khi trao đổi các sinh hoạt hỗ tương với các đạo hữu  cùng với mình làm nên các cộng đoàn cơ bản  loài người này, các kitô hữu còn có thể  tác động như là men để biến đổi con người và xã  hội.

 

 Luận đề 10

 

 Giáo hội địa phương tự hiện thực hóa chính mình qua tiến  trình hội nhập văn hóa, và bằng cách dõi bước theo  đà năng động của các mầu nhiệm Nhập thể, Phục sinh  và Hiện xuống.

 

 10.01    Qua hành động mạc khải chính mình ra cho nhân loại  và thực hiện kế hoạch cứu độ trong lịch sử loài  người, Thiên Chúa đã thích nghi chính mình với bản  tính loài người cũng như với những lối sống  của chúng ta, đã mang lấy thời gian cùng những  trạng huống của chúng ta, và đã chia sẻ số  phận làm người như chúng ta. Lời Chúa đã được  đón nhận và truyền thông qua trung gian của các ngôn  ngữ và các nền văn hóa trong loài người, cũng  như đã được truyền thụ qua các biến cố trong lịch sử  nhân loại. Qua lịch sử của Ítraen và qua cuộc  đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa nhập cuộc và dự  phần vào trong lịch sử loài người. Lịch sử  của Ítraen, như chúng ta đã biết, là một quá  trình liên tục dệt nên bởi những cuộc gặp gỡ  với hết mọi thực tại cuộc sống của các dân tộc và  các nền văn hóa lân cận.

 

10.02    Thế nên, sự việc Thiên Chúa tự thông truyền chính mình  cho chúng ta — một cách tuyệt đối và tối hậu qua mầu  nhiệm Nhập Thể của Con Một Ngài — như vậy, phải  được coi là mẫu mực cho mọi hình thức hiện diện và  hoạt động cứu độ của Thiên Chúa ở giữa lịch sử  loài người. “Ngôi Lời đã làm người  và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Từ eskenosen  (=ở) theo nghĩa đen muốn nói là “cắm lều”.

 

Điều  này làm cho liên tưởng tới sự việc Chúa Yahvê  cư ngụ ở giữa dân Ítraen suốt cả cuộc hành  trình băng qua sa mạc và hoang địa hướng về Đất Hứa (Xh  40,34-38). Thư gửi giáo đoàn Do thái nói rằng Đức Giêsu  “đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng  như chúng ta, chỉ khác là đã không phạm tội” (Dt  4,15). Như vậy, Ngôi Con nhập thể đúng là Emmanuel ,  Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1, 23) và, như các  Giáo Phụ dạy: “để có thể ban những gì là của  Người cho ta, thì Người đã nhận lấy mọi sự của  ta làm của Người”.

 

10.03    Như thế, Nhập Thể là mẫu thức và là  tiến trình, là lý do và là động lực của hành  động Thiên Chúa hằng tiếp tục tự trao ban chính mình để cứu  độ, ở trong “thời trung đại”, tức là thời  gian lịch sử loài người kéo dài từ thời  đại Đức Kitô cho đến ngày Người quang lâm (parousia ),  cũng là thời kỳ của lịch sử Hội Thánh.  Do đó, trong lịch sử của mọi dân tộc, chúng ta có  bổn phận phải cố mà nhận cho ra diễn biến của  cùng một “định luật Nhập Thể” này. Tiến trình  và mẫu thức này được tiến hành ở nơi công  trình đưa đức tin và đời sống kitô hội nhập vào  trong văn hóa, tại mỗi Giáo Hội Địa Phương; và đó  chính là cuộc hiện thực hóa sự việc Thiên Chúa hiện  diện và hoạt động ban ơn cứu độ ở giữa lòng  lịch sử của mỗi dân tộc, và đó cũng chính  là cách thức dân tộc ấy và nền văn hóa của  họ đáp lại ơn Chúa gọi qua tiến trình lịch sử của  mình, ở trong Thân Thể Ngài là Hội Thánh. Theo  ý nghĩa này, mọi dân tộc đều được mời gọi để làm  công tác hội nhập văn hóa như là công cuộc thực hiện  ơn gọi của chính mình ở trong chương trình lịch sử  cứu độ, ngõ hầu tình trạng “viên mãn trong hiệp  nhất” của Hội Thánh (Catholica unitas ) được thành  sự.

 

10.04    Bởi vậy, mỗi Giáo Hội Địa Phương tự hiện thực  hóa chính mình qua tiến trình hội nhập văn hóa như thế: tức  là một tiến trình diễn biến theo “định luật”  hoặc là theo đà năng động của các mầu nhiệm Nhập  thể, Phục Sinh và Hiện xuống, cũng như của cuộc  đại quy tập muôn loài vào trong Đức Kitô (Ep 1,10).

 

10.05    Ngôi Lời Nhập Thể là chính Con Một của Thiên  Chúa mặc lấy tính chất cá biệt của loài người.  Ngôi Con thực sự đi vào trong một gia đình của loài  người, và như thế, Người khởi đầu một cuộc  đời con người, gắn chặt vào một miền xứ và  một nền văn hóa cá biệt, cũng như vào một khúc quanh  nhất định của lịch sử. Chào đời nhờ bởi  Lời và Thần Khí cũng như nhờ bởi hành  động của thừa tác vụ, Hội Thánh tiến bước trên nẻo  đường của chính mầu nhiệm Nhập Thể, và mặc lấy  trọn tính chất cá biệt của loài người mà mầu  nhiệm ấy đã mặc lấy. Như đã xẩy ra qua mầu nhiệm  Nhập Thể và từ đầu nơi Đức Giêsu, thì qua các thời  đại lịch sử, tại một nơi chốn và một thời gian  nhất định, theo đúng cùng một phương cách như vậy, Hội  Thánh cũng đã và đang tự hiện thực hóa chính mình  cùng hoàn thành sứ mạng cứu độ của mình ở  giữa trần thế.

 

10.06 Trong đời sống Đức Giêsu, mầu nhiệm Nhập Thể tiến  dần về với cuộc chịu khổ, chịu chết và sống lại. Vì đã  hoàn toàn tự hiến và tự hủy vì tùng phục  và yêu thương, nên Đức Giêsu đã trở nên nguồn  suối ban Thần Khí, sự sống và hiệp thông cho tất cả  những ai tin vào Người (2Cr 3,17; Ga 7,37-38). Như  thế, mầu nhiệm Phục sinh là quy luật và là ý  nghĩa của sự sống và của sứ mạng Hội Thánh. Vì  vậy, tiến trình nhập thể-nhập thế/hội nhập văn hóa cũng  đòi hỏi phải có tiến trình chết đi và sống  lại, ngõ hầu Hội Thánh và Giáo Hội Địa Phương tại  trong thời đại và trong môi trường của mình,  có thể thực sự trở thành dấu chỉ và khí cụ (ở  trong nền “văn hóa mới”) của sự sống và của  hiệp thông trong Thần Khí, là Đấng xuất phát từ Chúa  đã chịu chết và đã sống lại.

 

10.07    Thứ nhất: là dấu chỉ của công cuộc hội nhập  văn hóa đích thực, quá trình chết đi và sống lại ấy đòi  hỏi phải được áp dụng cho mọi dân tộc và nền  văn hóa của họ. Chỉ như vậy thì họ mới có thể bước vào  con đường làm môn đồ Đức Kitô và đón nhận chân  lý cùng sự sống của Tin Mừng để đưa vào trong  chính con người cũng như cuộc sống của mình. Vì những  giới hạn và tội lỗi của loài người, nên  tất yếu, văn hóa của bất cứ dân tộc nào cũng  đều mang theo trong những tín ngưỡng và giá trị,  trong những tục lệ và truyền thống của mình, những  nhân tố đi ngược lại với chính những gì hay đẹp nó chứa  đựng và có thể giúp cho con người được nên người  thực sự, cũng như đi ngược lại với những gì Tin Mừng  và Thần Khí mời gọi con người trở thành.  Thế nên, mọi nền văn hóa đều cần phải được tinh luyện,  và những gì trong chúng còn gây cản trở  hoặc làm giảm thiểu đi niềm hiệp thông (đối với Thiên  Chúa và đối với các dân tộc cùng các nền văn hóa  khác), thì đều phải được thanh lọc, tẩy xóa và lột  bỏ cho hết đi. Còn tất cả những gì tốt đẹp  và thực sự là thuộc về bản chất con người  thì đều phải được củng cố và làn cho nên hoàn  hảo. Như thế mới có lý để bàn tới hiện tượng chết  đi và sống lại đối với mọi nền văn hóa trong loài  người và đối với tất cả những thành tựu  của chúng — cũng như đối với cả những gì  là nhân loại trong Hội Thánh nữa.

 

10.08    Đúng như Gaudium et Spes đã nói rõ: “Tin  Mừng của Đức Kitô không ngừng đổi mới cuộc sống  và văn hóa của con người đã sa ngã, đánh  dẹp và khử trừ các sai lạc và tai họa phát  sinh từ sức quyền rũ thường xuyên của tội  lỗi hằng mãi đe dọa. Tin Mừng không ngừng tinh  luyện và nâng cao phong hóa các dân tộc. Còn những  tài năng và thiên tư tình thần của mọi và  mọi dân nước thì được Tin Mừng tiếp nhận và dùng  những ân huệ siêu nhiên mà làm cho nên phong phú  từ bên trong, cũng như được củng cố, bổ túc và  tái tạo trong Đức Kitô” (MV 58). Như thế, Tin Mừng  trở thành tiêu chí nhận định cho tiến trình tinh luyện  các nền văn hóa (xem TG 8).

 

10.09    Thứ hai: Còn có một tiến trình chết đi và sống  lại khác nữa, đó là tiến trình của chính Hội Thánh,  và để nói cho rõ hơn, là: của Hội Thánh “bằng  xương bằng thịt”, mang diện mạo và màu sắc cụ thể  của các nền văn hóa mình sống qua (tỷ dụ như là  văn hóa của một “Giáo Hội phái gửi người  đi truyền giáo” đối với hoàn cảnh trong các vùng  truyền giáo). Công cuộc hội nhập văn hoá đích thực không  có thể khởi đầu cũng như không có thể tiếp tục được,  trừ phi Hội Thánh chịu chấp nhận những giới hạn vì  thiếu hiểu biết, vì lầm lẫn hoặc là vì những lỗi  lầm do các phần tử của mình gây ra, và chịu sẳn  sàng chết đi trong bất cứ những gì ngấm ngầm đục khoét  dần đi tác vụ làm chứng cho Tin Mừng cùng cản  trở không để cho các nền văn hóa khác đón nhận Tin Mừng.  Hội Thánh không vượt lên trên, nhưng là hằng không ngừng  phục tùng Lời Chúa (xem MK 10). Cứ nhìn vào thực trạng bất lực hoặc bất tài để sống trọn vẹn Lời  Chúa, thì sẽ thấy rõ khả năng giới hạn của  Hội Thánh. Là điều thường thấy tỏ rõ mồn  một trong đời sống và trong sinh hoạt của Hội Thánh,  tính cách giới hạn này cũng hiện rõ đặc biệt  qua những lần Hội Thánh bắt buộc chấp nhận như là  Lời Chúa, ngay cả đến các nhân tố thuần túy văn  hóa mà mình đã mặc lấy, hoặc là trong những  khi, vì hẹp hòi, Hội Thánh đã tuyên bố cho rằng một  điều nào đó là không phù hợp với đức tin kitô,  chỉ vì điều ấy có vẻ đi ngược lại với phong cách và  đường lối mình đang theo. Do vậy, có nhiều lần Hội Thánh  đã bỏ lỡ mất đi dịp tốt để nhìn thấy những  “hạt giống đích thực của Lời Chúa” (semina  Verbi ) tiềm ẩn trong các nền văn hóa và các dân tộc  khác. Lịch sử truyền giáo tại Á Châu trong thời  kỳ thực dân, đã minh họa đầy đủ về sự kiện này:  các sắc diện cá thể của “Giáo Hội phái gửi đi”  đã được đơn thuần đồng nhất hoá với bản chất của  đức tin và đời sống kitô; những nét nhân bản  tốt đẹp và cao quý tiền ẩn trong văn hóa của những  dân tộc vừa đón nhận Tin Mừng, lắm khi lại bị phán  xét như là ngoại đạo và trái nghịch với kitô giáo.  Vì thế, chính Hội Thánh cũng cần phải chết đi trong  những gì mà cuộc sống và cơ chế của mình còn  cản ngăn không cho thấu hiểu cùng đón nhận những  ý nghĩa và những giá trị tiềm ần nơi các nền văn  hóa coi như còn “mới” đối với mình, nhưng đồng thời  cũng được coi như là đã rộng mở cho mình nếu  mình biết giữ thái độ cởi mở và chịu sống  qua một thứ kinh nghiệm mới. Chỉ như vậy thì Tin Mừng và  đời sống trong Thần Khí mới được đón nhận theo một cách  thức mới mẻ vào trong tiến trình hội nhập văn hóa;  và nhờ thế, những hình thái mới của niềm tin  và đời sống kitô mới bừng phát lên một cách  đầy sáng tạo được.

 

10.10    Phép lạ Hiện xuống (Cv 2) cung ứng cho công trình hội  nhập văn hóa, một nền tảng kinh thánh. Hiện xuống biểu  thị tính chất hiệp nhất của Hội Thánh ở giữa những  khác biệt đa dạng làm nên niềm viên mãn của tính  chất công giáo (Catholica unitas ). Hiện xuống xây dựng  công giáo tính đích thực của Hội Thánh ở trên nền  móng sức năng sáng tạo của Thần Khí. Chỉ có một mình  Thần Khí mới đủ quyền năng để ban cho Hội Thánh có khả  năng trở nên một ở giữa những dân nước và  những chủng tộc khác biệt nhau, cũng như ở  giữa vô số những trạng huống muôn hình sắc. Bởi  lẽ, nói cho cùng thì mầu nhiệm công giáo tính của  Hội Thánh, như thấy thể hiện ra ở trong lịch sử loài  người, cũng phát nguyên từ sự hiện diện và  hoạt động của Thần Khí ở giữa lòng Hội Thánh.

 

     Những cố gắng của con người nhằm kiến tạo một  mối hiệp thông hoàn vũ ngoài Thiên Chúa, rồi  cuối cùng cũng chỉ đưa đến hoặc là tình trạng đơn  điệu độc khối của tháp Babel ngày trước (St 11,1-9),  hoặc là một cảnh thái hỗn độn theo kiểu cá nhân  chủ nghĩa ngàn đầu vạn ý, như đã từng thấy  qua dòng lịch sử loài người. Chỉ có quyền năng  của Lời và Thần khí mới xây dựng được ngay ở  dưới đất này, một thế giới trong đó, con người sống  hiệp thông thực sự với nhau, ngõ hầu có đủ điều  kiện để đưa hết mọi giá trị phong phú trong các nền văn hóa  của loài người và các thành tựu của  chúng, đạt đến độ khai hoa kết quả và mức kiện toàn  viên mãn.

 

10.11    Hội Thánh là bí tích hiệp thông của mọi người  và của mọi dân tộc giữa họ với nhau và với  Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu (GH 1). Mối hiệp nhất ấy  sẽ được hình thành qua nhiều bước gặp gỡ và  trao đổi, thông cảm và đối thoại với nhau trong tinh  thần cởi mở đầy sáng tạo. Một cộng đoàn gồm  nhiều dân nước như vậy sẽ là một quang cảnh đảo  ngược của hỗn cảnh tháp Babel, bởi vì, đó sẽ  là một cuộc sum họp của mọi dân tộc với tất cả  những nét đặc thù và cá biệt, với tất cả  những tài năng phong phú muôn hình thái của họ.  Như vậy, tài năng thiên tư của mọi dân nước sẽ  đoàn tụ lại với nhau và cùng nhau chia sẻ tình  hiệp thông hoàn vũ thực sự, rồi cuối cùng, sẽ  được mang đến đặt ở dưới bệ chân của Thiên Chúa  Cha.

 

10.12   Thánh Thể là Bí tích của cuộc đại đoàn  tụ của toàn thể nhân loại với toàn bộ tạo vật  về với Đức Kitô (Ep 1,10). Thánh Thể xây đắp Thân Thể Đức  Kitô ở dưới đất này như là dấu tiên báo về niềm  hiệp thông viên mãn ở trong đời sống vĩnh cửu.  Qua các cố gắng đưa ra nhằm xúc tiến công cuộc hội nhập  văn hóa, Giáo Hội Địa Phương tiến dần tới cảnh hiệp thông  hoàn vũ ấy; vì nó phải được bắt đầu ngay ở  dưới đất này, nhưng sẽ được hoàn tất ở trong  Vương quốc sự sống và tình thương: ở trong thành  thánh trên trời mà Dân Chúa đang trên đường lữ  hành nhắm tới – ở trong niềm hiệp thông với Ba Ngôi  Thiên Chúa, là tiêu đích và là mức thành tựu  viên mãn của toàn bộ lịch sử loài người.  Và chung cục, đó chính là ân huệ nhưng không Thiên  Chúa đã tự ý ban cho chúng ta.

 

 Luận đề 11

 

 Qua cuộc gặp gỡ đầy năng động giữa Tin Mừng  và một dân tộc có một nền văn hóa cá biệt, mầu nhiệm  đơn nhất của Hội Thánh được hiện thực hóa ở trong  nhiều Giáo Hội Địa phương. Mỗi Giáo Hội Địa Phương là  Hội Thánh với thực thể toàn bộ và trọn vẹn (full  and integral) của mình, và Hội Thánh Toàn Vũ  là mối hiệp thông của các Giáo Hội Địa Phương, một  “Hội Thánh (bao gồm) các Giáo Hội”, một giây hiệp  thông (thống nhất) các mối hiệp thông.

 

 11.01 Đại hội khoáng đại lần thứ ba của FABC (FABC  III, Bangkok 1983) đã bàn thảo về một vài  “thành tố hằng tồn (hằng tố =constants ) trong  bản chất và đời sống của Hội Thánh” như  sau: hiệp thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi, tòng thuộc đối  với Tin Mừng và Thần Khí của Đức Giêsu, chủ  đích là làm môn đồ, tiến bước theo Thần Khí hướng  dẫn, kiến tạo và sinh sống nhờ các bí tích, hợp  tác và đồng liên đới trách nhiệm giữa mọi phần tử,  hiệp nhất với và dưới quyền các chủ chăn kế nhiệm  các tông đồ, liên kết với các cộng đồng đức tin khác, sứ  mạng giảng hoà trong và cho thế giới (FABC III, 7). Các nhân tố ấy miêu tả toàn bộ thực thể mà  danh từ “Hội Thánh” hàm ngụ; nơi nào hội  đủ các nhân tố ấy, thì nơi đó có Hội Thánh duy nhất  và phổ quát hiện diện với tất cả thể chất viên  mãn đặc thù của mình. Như vậy, các nhân tố ấy  cấu thành hình thái duy nhất và phổ quát làm mẫu  mực cho việc kiến tạo của hết mọi Giáo Hội Địa Phương  (xem GH 23). Cộng đồng nào thiếu một trong các thành  tố trên đây, thì tất thiếu hẳn điều kiện thiết yếu để trở  thành Hội Thánh của Đức Kitô. Hội đủ hết các  thành tố ấy, thì bất cứ đoàn thể tín hữu địa phương  nào cũng đều lập tức được coi là Hội Thánh của  Đức Kitô. “Hội Thánh hiện diện ở nhiều nơi, nhưng  không phải là có nhiều Hội Thánh; toàn bộ Hội  Thánh có mặt ở trong mỗi thành phần (=cộng đồng):  một trong nhiều, và toàn vẹn ở trong mỗi một  thành phần, theo một cách thức nhiệm mầu” (Henri de  Lubac, Splendour of the Church , New York, Sheed & Ward 1956,  tr. 105).

 

11.02    Công đồng đã mạnh mẽ nói lên chân lý này  khi dạy rằng Hội Thánh duy nhất và phổ quát hiện diện  tại trong và rộng ra ngoài các Giáo Hội Địa Phương  (GH 23): đó là lời một khẳng định cần phải được  cân nhắc một cách hết sức cẩn trọng mới tránh được khỏi  rơi vào tình trạng lẫn lộn ý niệm công-giáo-tính với  bất cứ những mẫu thức hiệp nhất và phổ quát  nào khác. Ủy Ban Thần học Quốc tế giải thích rằng:

 

 “Cần phải phân biệt tính chất phổ quát công  giáo với những hình thức phổ quát giả hiệu theo  kiểu những chủ thuyết cực quyền, những hệ thống  duy vật, hay là những ý thức hệ lừa bịp về khoa  học và kỹ thuật, hoặc là những sách lược  của bất cứ một đế quốc chủ nghĩa nào đó. Cũng  không được lẫn lộn công-giáo-tính với tình trạng độc  dạng đơn điệu có khuynh hướng hủy bỏ hết những  nét cá biệt chính đáng, hoặc là đồng hóa tính chất ấy  với chủ trương nhất định đòi cho được quyền giữ  lại hết thảy những gì là dị biệt, tức là với  một lập trường trực tiếp đe dọa đến cốt tủy của  mối hiệp nhất (trong Hội Thánh) (L’unique église du Christ,  tr. 35).

 

     Không phải là: trước tiên có một Hội Thánh Hoàn  Vũ, rồi sau đó, do những thể thức phân lập hành  chánh nào đó, mới có các Giáo Hội Địa Phương. Mối liên  hệ giữa một Giáo Hội Địa Phương với Hội Thánh Hoàn  Vũ là hoàn toàn khác hẳn với cách thức một  tiểu bang hoặc một tỉnh liên hệ với một quốc gia. Cũng  không phải là trước tiên có các Giáo Hội Địa Phương,  rồi sau đó, nhờ phương cách liên minh, Hội Thánh Hoàn  Vũ mới thành hình. Hội Thánh Hoàn Vũ không  phải đơn thuần là một tổng số của hết các Giáo  Hội Địa Phương. Mỗi một Giáo Hội Địa Phương chính là  thực thể toàn bộ và trọn vẹn của mầu nhiệm hiệp  thông trong Đức Kitô, còn Hội Thánh Hoàn Vũ thì  chính là giây hiệp thông (thống nhất) các mối hiệp thông,  tức là: một “Hội Thánh (bao gồm) các Giáo hội”.

 

11.03    Kinh Thánh cho thấy một mẫu thức của mầu nhiệm  này: đó là biến cố Hiện xuống. Hội Thánh đã  chào đời tại một nơi được xác định rõ ràng  là thành phố Giêrusalem, trong giờ phút Thần Khí  hiện xuống trên các môn đệ, và trong lúc họ bắt đầu  tường thuật về các kỳ công của Thiên Chúa.

 

Nhưng,  đang khi họ cùng chung nhau loan báo một sứ điệp duy nhất,  thì sứ điệp ấy lại được nghe biết trong mọi tiếng nói trên  trần thế, và được đại diện của mọi dân nước tin  nhận. Như vậy, ngay từ giây phút mới chào đời,  Hội Thánh đã mang tính chất cả địa phương lẫn hoàn  vũ. Và Sách Công vụ Tông đồ tiếp tục tường thuật  cho thấy là những gì đã xảy ra trong mầu nhiệm  vào lúc khai nguyên Hội Thánh, thì cũng đã xảy  ra trong tất cả những nơi khác có Tin Mừng đặt  chân tới, đặc biệt là tại những chân trời của  thế giới các anh chị em lương dân, vượt ra ngoài biên cương  của Do thái giáo. Hội Thánh duy nhất vẫn mãi duy  nhất, cho dù các Giáo Hội có tăng số ngày càng  nhiều.

 

 Luận đề 12

 

 Nói rằng Giáo Hội Địa Phương hình thành qua tiến trình  hội nhập văn hóa có nghĩa là Hội Thánh duy nhất và  công giáo được sinh ra bởi Lời của Đức Kitô, bởi  ơn của Thần Khí và do Thừa tác vụ tông đồ, vào  một thời điểm nhất định, tại một nơi cụ thể và trong  một nền văn hóa cá biệt.

 

 12.01    Giáo Hội Địa Phương hình thành qua tiến trình hội nhập  văn hóa, và dĩ nhiên là sự kiện này gồm hàm  cả cuộc gặp gỡ đa diện giữa Tin Mừng với những  thực tại và trào lưu trong nền văn hóa cũng như  trong dòng lịch sử đương thời: dó là những  đề tài đã được khai triển qua các suy tư trên đây  của chúng tôi. Bây giờ, chúng tôi xin quay trở  lại với một quan niệm thần học cơ bản về cách Giáo Hội  Địa Phương hình thành vừa như là một ân huệ mà  cũng vừa như là một tác vụ: ân huệ Thiên Chúa  ban và tác vụ chúng ta đảm nhận.

 

12.02    Trước đây, chúng tôi đã lược kê ra (luận đề 3)  các nguyên lý tác tạo nên Hội Thánh, đó là: tiếng gọi  của Thiên Chúa, Lời của Đức Kitô, ơn của Thần  Khí, và thừa tác vụ tông đồ. Các nhân tố ấy cấu  thành Hội Thánh theo bản sắc một cộng đồng cá thể  ở trong thế giới, và làm cho nhiều Giáo Hội thành  có một Hội Thánh mà thôi. Các Giáo Hội biểu thị cho  thấy các nguyên lý qua đó, Hội Thánh thật là công trình  của Thiên Chúa,creatura Verbi, Ecclesia de Trinitate ,  một ân huệ mà chúng ta đón nhận với tất cả lòng  biết ơn sâu xa.

 

12.03    Nhưng công trình này của Thiên Chúa chỉ được hiện  thực hóa tại trong các cộng đoàn tín hữu cụ thể;  trong đó, ơn của Chúa làm cho họ có khả năng để  hoạt động như “một cộng đoàn sống niềm tin-cậy-mến”  (GH 8). Hội Thánh phát nguyên từ ý định của  Thiên Chúa Ba Ngôi (Ecclesia de Trinitate ), chỉ hiện hữu  thực sự ở nơi Hội Thánh “họp thành” từ  những con người (ecclesia ex hominibus ), làm  nên công trình của loài người trong việc nhờ  vào Lời Chúa và ơn của Ngài mà kiến  tạo nên một cộng đồng vừa mới mẻ lại vừa siêu  việt. Những gì Thiên Chúa ban cho trong các nguyện lý cấu  thành làm phát sinh nên Hội Thánh, thì đó cũng  chính là những gì mà con người cần phải  làm cho nên trọn qua thái độ tự do đón nhận và sống  niềm tin-cậy-mến của mình.

 

12.04    Vì thế, bao lâu một cách thức quan niệm về giáo hội  học chưa lưu tâm đủ đến các biến cố cụ thể qua đó tự  do của Thiên Chúa gặp gỡ với tự do của con người  để làm phát sinh nên các Giáo Hội Địa Phương, thì bấy  nhiêu lâu cách thức ấy vẫn còn bị giam hãm ở  trong vòng trừu tượng mơ hồ. Không phải ơn huệ  của Chúa đơn thuần làm phát sinh ra Hội Thánh; các  ơn huê ấy phải được những cộng đoàn sống niềm  tin-cậy-mến cụ thể đón nhận làm của riêng mình; và  đó là một điều không bao giờ có thể xẩy ra trên  bình diện trừu tượng hoặc theo một mức độ tổng quát nào  đó được. Điều đó xẩy ra khi Lời Đức Kitô được rao giảng  tại trong những cảnh huống cụ thể để soi sáng và  cải hóa, để củng cố và làm giàu một cách  thiết thực cho những cãnh huống ấy. Điều đó xẩy ra  khi có những người, một khi đã được Thần Khí đánh  động và soi dẫn, thì biết nhận ra ở trong Lời  giảng, một ánh sáng để dẫn lối cho mình, và một  lời hứa để mà hy vọng. Điều đó xẩy ra khi kinh nghiệm  về hiệp thông kitô, đặc biệt là qua cuộc họp mặt Thánh  Thể, đạt tới mức độ chữa lành những thái độ  tha hóa, và làm cho những kinh nghiệm đích thực  đã sẵn có về cuộc sống cộng đoàn được thêm phong  phú hơn. Điều đó xẩy ra khi một cộng đoàn đức tin dù  phải sống trong những bối cảnh văn hóa riêng biệt  và phải đối phó với những thách đố đặc biệt,  mà vẫn biết nhớ lại kỷ niệm của Đức Kitô  và bước theo niền hy vọng Ngài mang lại, để đảm  nhận những công tác cụ thể đối với lịch sử và  xã hội. Đấy là cách thức Hội Thánh được gầy dựng  nên, hoài mãi không ngừng, từ thế hệ này  sang thế hệ khác, và cả mỗi ngày nữa.  Hội Thánh Công giáo được gầy dựng nên trong và qua cuộc  hình thành mỗi ngày như thế của các Giáo Hội  Địa Phương.

 

12.05    Đó cũng là phần nào lý do tại sao cuộc họp  mặt Thánh Thể luôn luôn được coi như là hình mẫu của  Hội Thánh. Luôn luôn Thánh Thể được cử hành trong  một thời gian và tại một nơi chốn nhất định, và  do những cộng đoàn tín hữu cụ thể. Một giảng  viên có thể giải thích một đoạn Kinh Thánh, mà ngày  ấy cũng được đọc lên tại tất cả mọi cuộc họp mặt  khác trên khắp thế giới; nhưng người giảng viên ấy  chỉ cắt nghĩa Lời kia của Thiên Chúa như là tấm  Bánh sự sống được ban cho cuộc họp mặt ở đây mà  thôi; và một lần nữa, cộng đoàn đức tin hình thành  khi cử tọa cuộc họp mặt đón nhận Lời được công bố  cùng giải thích và cùng nhau đồng thanh đọc  lên kinh Tin Kính (Lời kinh Tuyên Tín) để tự do tuyên xưng  đức tin của mình. Lúc Bánh hằng sống lại được bẻ  ra để phân chia cho họ trong kinh nguyện Thánh Thể trọng đại,  thì một lần nữa, họ lại được kết hợp với nhau qua lời  thưa Amen cũng như qua việc rước lấy cùng một Bánh;  và như thế, vượt lên trên những gì là cá thể  của mình và khắc phục hết mọi nguyên nhân tha hóa  gặp phải, họ trở nên chính Thân Thể của Đức Kitô.  Chẳng thế mà châm ngôn người kitô thời xưa nói  rằng: “Hội Thánh làm (cử hành) Thánh Thể;  còn Thánh Thể thì làm nên Hội Thánh” (Ecclesia  facit eucharistiam, eucharistia facit ecclesiam ).

 

12.06    Như Hội Thánh duy nhất chỉ hình thành trong và  qua việc hình thành của các Giáo Hội, thì cũng  vậy, Hội Thánh duy nhất chỉ có thể chu tất sứ mệnh cứu độ  của mình trong và qua các sứ mệnh của nhiều Giáo  Hội Địa Phương mà thôi. Hội Thánh chỉ thực sự là “bí  tích phổ quát của ơn cứu độ” (GH 48), khi mà  sống trong những trạng huống cụ thể khác nhau, các Giáo  Hội Địa Phương vẫn biết đảm trách việc “tìm hiểu  những dấu chỉ của thời đại (mình đang sống) và  giải thích chúng theo ánh sáng của Phúc Âm”  (MV 4). Ủy Ban Thần Học Quốc Tế đã kết thúc  bản thảo luận rất xác đáng bàn về mối liên quan  giữa Hội Thánh được hiểu như là một mầu nhiệm và  Hội Thánh theo tư thế là một chủ thể lịch sử,  với đoạn viết sâu sắc và sáng suốt như sau:

 

     “Đặc tính Dân mới của Thiên Chúa không nằm  ở chỗ có một lối sống hoặc là một sứ mạng khả  dĩ thay thế cho lối sống hay cho những dự án đã sẳn  có của loài người. Trái lại, lòng hoài  niệm và niềm trông chờ Đức Kitô phải là những  động lực có sức biến cải và đổi thay, từ bên  trong, lối sống và các dự án loài người đang được  một nhóm dân chúng theo đuổi. Nếu thế, thì có thể nói rằng  lòng hoài niệm và niềm trông chờ Đức Giêsu  Kitô, tức là những gì làm cho Dân mới của  Thiên Chúa sinh tồn, cũng là những gì làm nên  cái mà Phái Kinh viện gọi là yếu tố “mô thức”,  tức là yếu tố cấu tạo nên cuộc hiện hữu cụ thể  của con người. Còn lối sống và các dự án  nói trên đây thì phần nào cũng giống như cái mà  họ gọi là “chất thể”, lẽ dĩ nhiên là có  tự do và trách nhiệm, và chúng sẽ nhận được những  định tố khác nhau để làm nên một lối sống “theo Thần  Khí”. Các lối sống này không hiện hữu một cách  tiên thiên, và cũng không thể đặt định trước được.  Chúng rất khác nhau và vì thế, không bao giờ có thể  đoán trước được, cho dù luôn luôn chúng có liên hệ với  hoạt động liên tục của cùng một Thần Khí. Trái lại,  có một điểm chung và thường trực trong các lối sống  ấy, là chúng biểu thị những đòi hỏi và  những niềm vui mà Tin Mừng Đức Kitô ra “giữa  những cảnh sống thường nhật trong gia đình và  ngoài xã hội, tức là ra giữa những gì làm  như dệt thành cuộc sống của họ” (GH31) (L’unique  Eglise du Christ, tr. 25).

 

 Mầu nhiệm duy nhất và công giáo của Hội Thánh trở  thành thiết thực hữu hiệu về mặt hoạt động cứu độ  qua sự việc các Giáo Hội Địa Phương thi hành trách vụ  của mình ở giữa dòng lịch sử.

 

12.07    Việc Công đồng phục hồi ý nghĩa của công-giáo-tính  cụ thể như thế, đặc biệt là sau nhiều thế kỷ đi theo  chiều hướng tập quyền và độc dạng, đã khiến cho khắp  nơi trong Hội Thánh, biết quan tâm trở lại đối với hai  nhân tố chủ yếu của sự việc Hội Thánh duy nhất phát  sinh ở trong và từ nhiều Giáo Hội khác nhau. Nhân  tố thứ nhất là công tác hội nhập văn hóa ,  tức là đề tài của các luận đề từ 5 đến 9  trên đây.

 

12.08    Và nhân tố thứ hai là việc khám phá và  ý thức lại, về quyền tự trị chính đáng của các  Giáo Hội Địa Phương. Điểm này đã được nêu rõ trong  bản tuyên ngôn của Thượng Hội Đồng Giám mục Thế  giới, nhóm họp năm 1985: Bởi vì Hội Thánh là một  cộng đồng hiệp thông, nên mọi tầng lớp đều có bổn phận  hợp tác và cùng chia sẻ trách nhiệm chung. Không  một phần tử nào được quyền giữ thế thụ động  đối với việc phát sinh và xây dựng Hội Thánh (xem TĐ  2). Điều đó đúng đối với hết thảy mọi tầng lớp trong  Hội Thánh: từ các giáo đoàn cơ bản (xem luận đề  9 trên đây) cho đến giáo xứ, từ giáo xứ cho đến giáo  phận, từ giáo phận cho tới các nhóm của mỗi miền,  từ miền cho đến cộng đồng hiệp thông toàn vũ  chung quanh Giám mục Roma. Nơi nào có tình trạng chối bỏ  hoặc cản trở việc hợp tác và chia sẻ trách  nhiệm chung như vậy, hay là từ chối không để cho các  cơ cấu thể chế được triển dương đúng mức, thì nơi ấy việc  thể hiện công giáo tính cụ thể cũng như mức độ sáng  tỏ của niềm hiệp nhất công giáo — tức là  tính chất catholica unitas mà các Giáo phụ đã  từng hết lời ca tụng — sẽ bị thiếu mất đi một  điều gì đó.

 

 Luận đề 13

 

     Qua những nét khác biệt về mặt văn hóa, các Giáo  Hội Địa Phương phản ánh công giáo tính (hoặc đặc tính phổ  quát) của Hội Thánh duy nhất Thiên Chúa đã thiết  lập; bởi vì, chính nhờ hành động chu toàn sứ  mạng của mình ở giữa cũng như đối với những  xã hội và những nền văn hóa khác biệt nhau trong  môi trường sống của mình, mà Hội Thánh hiện thực  hóa được bản chất của mình

 

 13.01    Đặc tính phổ quát hoặc công giáo của Hội Thánh  thì hàm ngụ nhiều điều hơn là đơn thuần sự kiện Hội  Thánh triển dương rộng lớn về mặt địa dư. Hiến chế về Hội  Thánh nói rằng:

 

 “Đặc tính phổ quát này, sáng chói nơi dân  Thiên Chúa, là một ân huệ do chính Chúa ban, nhờ đó  Hội Thánh Công Giáo không ngừng ra sức tìm những phương  cách hữu hiệu để quy tập toàn thể nhân loại, cùng  những gì tốt lành nơi họ, về dưới một Thủ lãnh  là Đức Kitô, vào trong niềm hiệp nhất với Thần Khí  của Ngài. Nhờ đặc tính công giáo ấy, mỗi phần  tử mang những ân huệ riêng của mình đến cho các  phần tử khác và cho toàn thể Hội Thánh; nhờ  đó, toàn thể và mỗi phần tử tăng triển nhờ  hiệp thông với nhau và nhờ cùng nhau nỗ lực  để tiến đến tình trạng viên mãn trong hiệp nhất” (GH  13).

 Đặc tính công giáo chính là “tình trạng viên mãn  trong hiệp nhất” ấy.

 

13.02    Vừa đây, trong dịp kính mừng công trình của  hai thánh Xyrilô và Mêthôđiô là những vị đã  từng nêu gương nổi bật giữa các gương mẫu xuất  chúng nhất trong lịch sử Hội Thánh, của lòng hăng  say sống cũng như quảng bá ý niệm phong phú và  cụ thể ấy về công giáo tính, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô  II đã khai triển đoạn viết trên đây của Công đồng,  như sau:

 

     “Hội Thánh là công giáo vì cả lý do này  nữa: là vì Hội Thánh có khả năng trình bày  chân lý mạc khải, được chính Hội Thánh gìn giữ cho  toàn vẹn đúng như nội dung Thiên Chúa đã truyền ban,  trong mọi bối cảnh sống giữa loài người, với  một cách thức làm sao để mang chân lý ấy đến gặp gỡ  với những tư tưởng cao thượng và những nguyện  vọng chính đáng của mỗi cá nhân cũng như của  mỗi dân tộc. Hơn nữa, toàn bộ di sản của  những gì là tốt đẹp mà mỗi thế hệ truyền  lưu lại cho hậu thế, cùng với món quà vô giá của  sự sống: tất cả những điều ấy làm nên như là  một bộ tập hợp vĩ đại và muôn màu sắc của vô  số những mảnh cùng ghép lại thành bức tranh  thể khảm sống động của Đấng Toàn Năng, là  Đấng sẽ hiển linh trong huy hoàng sáng chói tột bực  lúc Quang lâm.

 

     “Tin Mừng không làm cho ra nghèo nàn  hoặc là dập tắt hút đi những gì mà qua dòng  lịch sử của mình, mỗi quốc gia dân tộc cá thể  và mỗi nền văn hóa cá biệt đã chấp nhận và  giữ gìn lại ở trong đời sống, coi đó là những  giá trị của chân-thiện-mỹ. Ngược lại, Tin Mừng  ra sức thu nhận và phát huy tất cả các giá trị ấy,  mở rộng lòng mà hân hoan ứng dụng chúng vào  trong cuộc sống, và làm cho chúng nên hoàn hảo  nhờ bởi ánh sáng nhiệm mầu cao quý của mạc khải.

 

     “Chiều kích cụ thể của công giáo tính, mà  Đức Kitô đã ghi khảm vào tận trong chính bản  chất của Hội Thánh, không phải là một điều gì  tĩnh, nằm chết một chỗ ở ngoài lề lịch sử,  độc điệu tẻ nhạt. Theo một ý nghĩa nào đó, thì cần  phải hiểu rằng đặc tính công giáo hằng tuôn trào  ra và tăng triển lên mỗi ngày tựa như một cái  gì mới phát nguồn từ niềm tin đồng tâm nhất trí của  hết thảy những ai tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi,  mà Đức Giêsu Kitô đã mặc khải và Hội Thánh  hằng tuyên giảng, nhờ quyền năng của Thần Khí.  Chiều kích ấy xuất phát một cách tự khởi từ tâm  tình ngưỡng mộ tôn trọng — là tâm tình đặc trưng  của tình thương huynh đệ — giữa mọi dân nước đối  với nhau, nước lớn cũng như nước nhỏ, cũng như  từ thái độ thành thực nhìn nhận đặc tính và quyền  lợi của hết mọi anh chị em trong đức tin” (Slavorum  apostoli, 18).

 

 13.03    Các nguyên lý kiến tạo nên công-giáo-tính toàn  vẹn cũng đồng thời là những nguyên lý kytô  học, thần khí học và cả nhân chủng học nữa.  Công trình của Đức Kitô không phải chỉ có giới hạn  ở nơi việc hòa giải các tội nhân với Thiên Chúa  mà thôi, nhưng trên nguyên tắc, còn hòa giải  trọn cả nhân loại bị tha hóa nữa. “Thiên Chúa  đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện  ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà  làm cho muôn vật được hòa giải với mình, nhờ  máu Người đổ ra trên thập giá đem lại bình an…” (Cl  1,19-20). “Trước kia anh em là những người ở  xa, nhưng nay được kết hợp với Đức Kitô Giêsu, anh em đã  trở nên những người ở gần, nhờ máu Đức  Kitô đổ ra. Thật vậy, chính Người là bình an của  chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái  và dân ngoại thành một; Người đã hy sinh thân  mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù  ghét; Người đã hủy bỏ Luật cũ gồm có  những điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập  hòa bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một  người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ  thập giá, Người đã làm cho hai bên được hoà  giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên  thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người  đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là  những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ  ở gần. Thật vậy, nhờ Người cả đôi bên chúng  ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng  Chúa Cha” (Ep 2,13-18). Vì thế, trong Đức Kitô “không  còn phân biệt Hy lạp hay Do thái, cắt bì hay không cắt  bì, man di, mọi rợ, nô lệ hay tự do, nhưng chỉ có Đức Kitô  là tất cả và ở trong mọi người” (Cl  3,11). Công giáo tính của Hội Thánh là phương thế để  nhờ đó Hội Thánh trở thành “thân thể”  của Đức Kitô, “sự viên mãn của Đấng làm  cho tất cả được sung mãn mọi bề” (Ep 1,23).

 

          13.04    Ngày Hiện xuống, Phêrô công khai xác nhận là  lời Thiên Chúa hứa đã thực sự ứng nghiệm: “Trong  những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta  trên mọi người phàm” (Cv 2,17). Luca cũng miêu  tả một hiện tượng được cầm như là một cuộc Hiện  xuống thứ hai, khi kể lại rằng: “các tín hữu thuộc  giới cắt bì đã cùng đi với Phêrô đến đó, đều kinh  ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thần Khí xuống trên cả  các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người  này cũng nói tiếng lạ và tán dương Thiên Chúa”  (Cv 10,45-46). Và nếu bây giờ “Thần Khí Chúa chan  hòa càn khôn” (Kn 1,7), thì không thể coi là  bất chính việc nhận ra được hoạt động của Thần Khí mở  đường cho công cuộc loan Tin Mừng giữa những  người đã từng nghe Phaolô thuyết giảng tại  Athen, để kêu mời họ đi “kiếm tìm Thiên Chúa, may ra  dò dẫm mà họ tìm thấy được Người, tuy rằng  thực ra Người cũng chẳng ở cách xa bất cứ một  ai trong chúng ta” (Cv 17,27). Vaticanô II nhận định rằng:  “Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người, và vì thực  ra, mọi người đều được kêu gọi để đi về cùng một  tiêu đích tối hậu duy nhất, trong Thiên Chúa, cho nên, ta phải  cầm chắc rằng Thần Khí hằng ban cho mọi người có cơ hội  thông dự vào mầu nhiệm Phục Sinh ấy, trong cách thức  mà chỉ có Chúa mới biết” (MV 22). Đức Gioan Phaolô  II dựa theo nhận định trên đây của Công đồng mà xây  dựng giáo thuyết của ngài về sự việc Thần Khí hiện  đang hoạt động ở trong thế giới, ở trong các cá nhân,  ở trong hết thảy những ai nhờ Người tác  động mà biết “phụng tự Thiên Chúa bằng tinh thần  và bằng sự thật, trong những ai đang hoạt động để  hiệp nhất toàn thể nhân loại nên một; và như vậy,  Hội Thánh cũng là bí tích, là dấu chỉ và là  khí cụ qua đó, Thần Khí của sự sống hiện diện và  hoạt động”, tại bất cứ nơi nào Hội Thánh đang sinh  hoạt (Dominum et vivificantem , 53-54,64).

 

13.05    Xét theo quan điểm nhân chủng học, thì công giáo  tính có nền tảng ở trong công trình tạo dựng vạn vật;  nhìn công trình ấy, Thiên Chúa đã thấy là những  tạo vật muôn màu muôn vẻ mà Ngài đã dựng  nên trong sáu ngày thì đều “rất tốt lành” (St  1,30). Thiên Chúa ra lệnh cho người nam và người  nữ là “hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều,  cho đầy mặt đất, và hãy thống trị mặt đất” (St  1,28). Kết quả tiếp theo mệnh lệnh ấy là vô số những  công cuộc vĩ đại do xã hội và văn hóa loài người  làm ra, mang muôn hình thái và màu sắc rực rỡ.  Theo Công đồng thì những thành quả kia của trí  khôn và tự do, của thiên tài và cố gắng loài  người, chẳng những không làm cho con người trở  thành “đối thủ cạnh tranh với Đấng Tạo Hóa, nhưng  ngược lại, các thắng lợi của loài người là  dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa cao cả, và là thành  quả phát nguyên từ ý định khôn lường của Người”  (MV 34). Nếu các thành tựu của loài người  cần phải được tinh luyện và chữa lành cho khỏi  mọi tỳ vết tội lỗi và khiếm khuyết, thì không  phải vì thế mà một thiên năng cảm nhận đích thực  công giáo lại không nhận ra ngay được là ở trong “hoa  quả ruộng đất và lao công của con người”  như thế, có những yếu tố không phải là để hủy  bỏ, nhưng là để được nâng lên tới mức viên mãn  siêu việt, khi chúng được thu nhận vào trong mầu nhiệm  của Đức Kitô …, Và “hễ càng biết tôn  trọng những đặc nét của các nền văn hóa khác nhau  bao nhiêu, thì càng có sức để cổ xúy và biểu thị  hữu hiệu mối hiệp nhất trong nhân loại hơn bấy nhiêu”  (MV 54). Chống lại mọi thành kiến trái nghịch khác,  Công đồng đã khẳng định rằng Hội Thánh không bao giờ  “bị ràng buộc một cách chuyên nhất và bất khả  phân ly với bất cứ một chủng tộc hay một quốc gia nào,  với bất cứ một lối sống đặc thù hoặc một tập tục cũ  hay mới nào” (MV 58). Trong chiều hướng đó, Đức  Gioan Phaolô II đã phát biểu thêm rằng: “Mọi cá nhân,  mọi dân nước, mọi nền văn hóa hay văn minh, đều đóng một  vai trò và có một chỗ đứng ở trong kế hoạch  nhiệm mầu của Thiên Chúa, và ở trong lịch sử  cứu độ phổ quát” (Slavorum apostoli , 29).

 

13.06    Vì các lý lẽ nêu trên đây, những khác biệt  dị đồng và những sắc thái đa dạng trong Hội Thánh  không phải là những gì làm cản trở  hoặc gây đe dọa cho sự hiệp nhất, nhưng là những nhân  tố cốt yếu của điều mà Đức đương kim Giáo Hoàng  gọi là “chiều kích cụ thể của công-giáo-tính”,  và đã miêu tả với những hình ảnh đầy thi  vị, “như là một bản đại hòa tấu được dệt thành  do nhiều hình thức phụng vụ khác nhau với đủ mọi thứ  tiếng nói trên thế giới cùng hợp lại trong một quy điển  phụng vụ duy nhất, hoặc như là một ca đoàn du dương  cất lên tiếng hát uyển chuyển của vô số quần chúng  nhân gian từ mọi nơi trên quả đất và trong mọi  thời đại lịch sử, hân hoan gióng cao muôn khúc ca nhịp  nhàng trầm bổng để ca tụng tán dương Thiên Chúa” (Slavorum  apostoli , 17).

 

13.07    Công đồng đã đưa ra nhiều cách phác họa ý nghĩa  được phục hồi của công giáo tính. Thí dụ: miêu tả  công giáo tính như là công cuộc của “Chúa Quan  Phòng đã muốn các Giáo Hội khác nhau, do các tông  đồ và những đấng kế vị thành lập tại nhiều nơi  khác nhau theo dòng thời gian, tụ họp lại thành  nhiều nhóm liên kết với nhau như trong cùng một hệ thống.  Các nhóm này có kỷ luật và phụng vụ riêng, thừa  hưởng di sản thần học cùng thiêng liêng riêng  mà vẫn không phương hại đến sự hiệp nhất đức tin  và bản chất duy nhất cũng như thần linh của  Hội Thánh phổ quát”. Rồi bằng một câu tuyệt diệu, Công  đồng đã đề cập đến các bước phát triển theo đường  hướng ấy: “Cùng sát cánh hướng về với hiệp nhất,  nên càng có những nét khác biệt nhau như thế, thì  các Giáo Hội Địa Phương càng minh chứng rõ ràng  đặc tính công giáo của một Hội Thánh không phân rẽ” (GH 23). Sau đó, trong Sắc lệnh về các Giáo Hội đông  phương, Công đồng đã nhắc lại niềm xác tín ấy, nói rằng:

 

 “Các Giáo Hội này hiệp thông với nhau một  cách lạ lùng đến nỗi những sắc thái khác biệt  trong Hội Thánh không những không phương hại đến hiệp  nhất mà còn làm cho hiệp nhất tỏ rạng thêm.  Thật ra, Hội Thánh Công giáo hằng muốn bảo toàn hết  các truyền thống của từng Giáo Hội hay các lễ  chế riêng biệt, và đồng thời cũng hằng muốn thích  nghi nếp sống của mình với các nhu cầu khác nhau tùy  theo thời gian và nơi chốn” (ĐP2)

 

 Công đồng còn nhắc lại như sau về một điểm đã được  đề cập đến ở trong Sắc lệnh về Hiệp Nhất:

 “Ngay từ buổi đầu, các Giáo Hội Đông phương  đã theo những quy luật riêng được các thánh Giáo Phụ,  các Công đồng địa phương và cả các Công đồng chung  phê chuẩn. Vì các khác biệt về phong tục và tập quán  đã nhắc tới trên kia, chẳng những không mảy may  cản trở sự hiệp nhất, mà còn tăng thêm vẻ  đẹp của Hội Thánh và góp phần không nhỏ vào  việc chu toàn sứ mệnh của Hội Thánh nữa; thế  nên, để đánh tan mọi nghi ngờ, Thánh Công đồng tuyên  bố là: các Giáo Hội Đông phương có quyền tự trị theo  các kỷ luật riêng, miễn là biết ý thức rõ  về mối hiệp nhất thiết yếu của toàn thể Hội Thánh,  vì các quy luật riêng này phù hợp với bản chất  của tín hữu họ hơn và có đủ điều kiện hơn  để mưu ích cho các linh hồn. Tuân thủ cho trọn nguyên tắc  truyền thống này, – mà thực ra, không phải bao  giờ cũng được tôn trọng, – là đã ứng đáp  được một trong những điều kiện tiên quyết để tái lập  hiệp nhất” (HN 16).

 13.08    Truyền thống đáng kính này về đặc tính công giáo  với muôn vàn sắc thái khác biệt nhau trong cùng một  Hội Thánh duy nhất, cũng đã khơi hứng cho Sắc Lệnh  về Hoạt Động Truyền Giáo. Văn kiện này có thể được  mệnh danh là sách giáo khoa để thực hiện công tác “công  giáo hóa” Hội Thánh một cách cụ thể. Sắc lệnh khuyến  dụ các tín hữu hãy quan tâm làm sao để tránh cho  Hội Thánh khỏi phải bị coi là một nhân tố xa lạ  tại trong các nền văn hóa và các xã hội của  họ (xem GH 31).

 

Đảm nhận phận vụ này là các kitô hữu sẽ  làm cho mầu nhiệm công giáo của Đức Kitô nên trọn:

 

 “Đâm chồi nẩy lộc từ trong lòng đất mầu  mỡ đượm nhuần sương thiêng, hạt giống, tức là Lời  Chúa, hấp thu, biến đổi và tiêu hóa mầu mỡ ấy, để  sau cùng mang lại những hoa trái dồi dào. Thật  vậy, cũng hệt như trong chương trình Nhập Thể, các Giáo  Hội trẻ, một khi đã được đâm rễ vào trong  Đức Kitô và đã được xây dựng trên nền tảng các  tông đồ, thì có được sức năng kỳ diệu để hấp thu tất  cả những gì là phong phú nơi các dân nước đã  từng được trao cho Đức Kitô làm gia nghiệp (xem Cv 2,8).  Các Giáo Hội ấy sẽ biết rút ra từ những tập  quán và truyền thống, từ lẽ khôn ngoan và  nền văn hóa, từ những nghệ thuật và khoa học  của các dân tộc mình, tất cả những gì có thể  góp phần vào việc ca ngợi vinh quang của Đấng Tạo  Hóa, làm tỏ rạng ân sủng của Đấng Cứu Thế,  cũng như vào việc tổ chức đời sống kitô cho tốt  đẹp” (TG 22).

 

 13.09    Như vậy, không có gì là nghịch lý khi đưa ra nhận  định nói rằng việc quan tâm trở lại kể từ thời  Công đồng, đối với thần học về Giáo Hội Địa Phương, cho thấy  là Vaticanô II đã thực sự phục hồi ý nghĩa của  đặc tính công giáo, coi nó như là “tình trạng viên  mãn trong hiệp nhất”. Vì đặc tính công giáo và  sắc thái địa phương không đối nghịch lẫn nhau. Sắc thái  địa phương chính đáng — nghĩa là sự việc đâm rễ  vào trong những thực tại khác biệt phong phú của  những gì là con người với muôn hình thái đa dạng  — là cuộc hiện thực hóa, là mức thành toàn  của đặc tính công giáo cụ thể. Hội Thánh duy nhất chỉ  đích thực và cụ thể là công giáo ở trong và  nhờ bởi thực trạng đa dạng của đông đảo các  Giáo Hội Địa Phương khác nhau; và các Giáo Hội Địa Phương  thì chỉ đích thực là công giáo ở trong niềm viên mãn  của cùng một mối hiệp thông duy nhất.

 

13.10    Thế nên, phân cách Hội Thánh phổ quát và các Giáo  Hội Địa Phương ra làm hai phía, và coi đó như là  những thực thể đối chọi nhau, là một việc làm  hết sức nhầm lẫn. Hội Thánh phổ quát chỉ có thể hiện  hữu sinh tồn ở trong và từ bởi các Giáo  Hội Địa Phương mà thôi, và các cộng đồng địa phương  sẽ không phải là những Giáo Hội, nếu không  phải là công giáo. Nơi nào có sự việc đối chọi  giữa hai thực thể ấy, thì nơi đó hẳn đang có một ngộ  nhận xảy ra. Ngộ nhận cũng xảy ra những khi  đặc tính phổ quát được quan niệm không phải như là  công-giáo-tính cụ thể, song như là một thứ liên minh,  một chính sách đồng hóa về mặt hành chánh, cơ cấu tổ  chức hay chính trị; hoặc những khi tính chất địa phương được  quan niệm một cách ẹp hòi, nhuốm mùi vị chủng,  như là một cái gì chỉ thu gọn ở trong một dân nước,  một chủng tộc. Điều chủ chốt ở đây là cần  phải tìm lại cho được ý nghĩa cụ thể của tính chất  công giáo: không giống với tính chất hoàn vũ hay phổ  quát, tính chất công giáo không đối ngược lại với tính chất  cá biệt; nhưng ngược lại, nó duy trì, nâng cao và hòa  nhập những gì là cá biệt vào trong một mối hiệp  nhất lớn rộng và đầy đủ hơn, quanh một tâm điểm chung  là Chúa Kitô.

 

 Luận đề 14

 

     Từ tận trong tâm can của mình, các Giáo Hội Địa  Phương mang bản chất công giáo; điều đó có nghĩa là  các cộng đoàn này chỉ thực sự là những Giáo  Hội khi họ được cấu thành bởi sự kiện thông dự vào  trong mầu nhiệm Đức Kitô, là Đầu của toàn thể  Hội Thánh. Như vậy, trong Đức Kitô cùng Thần Khí của  Người, và nhờ những mối quan hệ của hiệp  thông phổ quát, về mặt thiêng liêng cũng như luật pháp,  các cộng đoàn ấy được liên kết với tất cả các Giáo  Hội Địa Phương khác, để cùng nhau hợp quần trong một Hội  Thánh duy nhất phổ quát.

 

          14.01    Một cộng đoàn địa phương sống đức tin, thì dự phần  vào trong niềm viên mãn của Đức Kitô và Thần  Khí Người. Vương quyền của Đức Kitô và quyền năng  của Thần Khí vượt lên trên mọi tính cách riêng biệt và  hòa nhập tất cả chúng vào trong cùng một niềm  viên mãn của hiệp nhất. Vì thế, hết thảy mọi  Giáo Hội cũng chỉ là một Hội Thánh duy nhất, bởi  vì có thể nói lại với mọi Giáo Hội những gì Phaolô đã  từng nói với cộng đoàn Ephêxô: “Chỉ có một thân  thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã nhận được ơn  kêu gọi để chia sẻ cùng một niền hy vọng. Chỉ có  một Đức Chúa, một niềm tin, một phép rửa, chỉ có một  Thiên Chúa, là Cha của mọi người, Đấng ngự trên  mọi người, giữa mọi người, và trong mọi người”  (Ep 4,4-6). Và chính nhờ vào nền tảng của  ơn hiệp nhất ấy, mà tín hữu Ephêxô gắn bó với bổn  phận tuân theo lời chỉ bảo của tông đồ dạy rằng:  “Hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí  đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau”  (câu 3). Mối giây gắn bó một Giáo Hội Địa Phương lại thành  một Thân Thể trong cùng một Thần Khí, cũng chính là  mối giây gắn bó Giáo Hội ấy với các Giáo Hội Địa Phương  khác, tức là với chính Hội Thánh Công giáo duy nhất.  Thế nên, tính chất công giáo không phải chỉ là một  danh xưng để chỉ một thuộc tính ngoại tại và thứ yếu của  Giáo Hội Địa Phương, nhưng thực sự là cấu tố làm cho  bản chất của Giáo Hội ấy nên toàn vẹn, như là  Thân Thể của Đức Kitô.

 

14.02    Nếu đã có mối nguy nhầm lẫn công-giáo-tính với  một hình thức phổ quát độc điệu nào đó, thì cũng  có mối nguy bóp méo biến dạng công-giáo-tính trở thành  một thái độ duy cá biệt mang nặng khuynh hướng phân rẽ,  đưa đến chỗ phản bội sự duy nhất của niềm viên  mãn công giáo. Mối nguy phân rẽ này, Tân Ước  cũng đã vén mở cho thấy ở trong các Giáo Hội  Địa Phương đầu tiên. Tông đồ Phaolô đã phải đối phó  với những mối chia rẽ ở trong các Giáo Hội tại  các nơi như Corintô, Galata, và Ephêxô. Tại thành Ephêxô  này, có thể những lời kêu gọi hợp nhất mà  Phúc Âm thứ tư tha thiết gióng lên, cũng chỉ là  để ứng đối với một tình thế đang bị nguy cơ ly khai đe dọa.  Trong hầu hết mọi thời đại của lịch sử Hội Thánh,  cũng đã thấy có những mối đe dọa ly khai còn  rộng lớn hơn thế nữa, và thường thì các cuộc ly  khai đều xảy ra chỉ vì người ta lo nhấn mạnh quá nhiều  đến những đặc nét chủng tộc, văn hóa hay quốc gia,  đến độ chối bỏ mất đi niềm hiệp nhất công giáo.

 

14.03    Vì thế, từ thời Tân Ước trở về sau, trong  các Giáo Hội đã thấy xuất hiện những thừa tác  vụ phụng sự hiệp nhất, có trách nhiệm gìn giữ cho các  cộng đoàn sống liên kết với nhau trong đức tin tông truyền  và trong tình yêu thương đối với nhau. Việc xuất hiện chức  vụ giám mục và vai trò đặc biệt của Giám mục  Roma cho thấy nhu cầu cần phải tiếp tục vai trò liên  kết hiệp nhất của các Tông đồ, nghĩa là của những  Vị sáng lập Hội Thánh. Do đó, Vaticanô II đã gọi các  Giám mục là “nguyên lý và là nền tảng  hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo Hội Địa Phương”,  và Giám mục Roma là “nguyên lý và là nền  tảng hữu hình, vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa  các Giám mục cũng như giữa các tín hữu” (GH 23). Phận vụ của các vị là làm những người  phục vụ hữu hình cho niềm hiệp nhất trong đức tin và  đức mến, tức là cho niềm hiệp nhất mà chính Thần  Khí là nguyên lý vô hình. Phận vụ ấy là dấu chỉ của  giây liên hệ mật thiết giữa hai nguyên lý thần linh và  nhân loại. Không đâu Hội Thánh biểu thị sắc thái vừa  địa phương mà vừa là công giáo rõ cho bằng  ở trong Thánh Thể; trong đó, cùng một lúc, cộng đoàn  cầu nguyện cho được hiệp thông với Giám mục địa phương và  với Giám mục Roma.

 

14.04    Trong khi trình bày giáo lý về tập thể tính (collegiality ),  Vaticanô II đã cố tìm cách diễn đạt trách nhiệm của  phận vụ nói trên đây đối với mối hiệp nhất tại địa phương  cũng như phổ quát trong toàn cầu, làm sao cho cân  xứng với tính chất công giáo thật sự cụ thể mà Công  đồng vừa phục hồi lại. Công đồng dạy rằng: “Vì gồm  nhiều thành viên khác nhau, nên đoàn thể các Giám  mục thể hiện tính cách đa dạng và tính chất phổ quát  của Dân Thiên Chúa; nhưng đồng thời, vì quy tụ dưới  một (người đứng đầu) vị thủ lãnh duy nhất, nên  đoàn thể các Giám mục biểu hiện niềm hiệp nhất của  đàn chiên thuộc về Đức Kitô” (GH 22). Rồi Công  đồng nói tiếp: “Mỗi Giám mục đại diện cho Giáo hội  mình, còn tất cả các Giám mục cùng với Giáo Hoàng  thì đại diện cho toàn thể Hội Thánh, trong một mối liên  kết hoà bình, yêu thương và hiệp nhất” (GH  23). Nếu các Giáo Hội Địa Phương khác nhau cùng biểu dương  sáng chói đặc tính công giáo của một Hội Thánh không  phân rẽ, thì đó chỉ vì tất cả đều có cùng một  khát vọng chung, khát vọng hiệp nhất. Nếu có những Giáo  Hội Địa Phương duy trì các truyền thống cá biệt của mình  một cách chính đáng, thì cũng có “Tòa Thánh Phêrô  chủ trì toàn bộ cộng đoàn đức ái, và bảo  quản các dị biệt chính đáng cùng đồng thời lưu  tâm để những gì là khác biệt không phương hại, nhưng  trái lại, còn sinh ích cho hiệp nhất nữa” (GH 13). Cũng như Giám mục Roma có nhiệm vụ bảo quản  những nét cá biệt của các Giáo Hội Địa Phương, thì  cũng vậy, các Giám mục địa phương “có nhiệm vụ phát  huy và bảo vệ sự hiệp nhất đức tin cùng kỷ  luật chung của cả Hội Thánh, cùng dạy cho các  tín hữu biết yêu mến toàn bộ Nhiệm Thể Đức Kitô”  (GH 23).

 

14.05    Tiếp theo sau nhiều thế kỷ dài sống quen với  hình thức tổ chức tập quyền độc dạng gây cơ nguy làm  mờ đục các chiều kích cụ thể của công giáo tính đi,  nếu có một vài tình trạng giằng co căng thẳng gặp thấy  trong khi tiến hành cuộc phát huy cảm thức về “niềm  viên mãn trong hiệp nhất” của Hội Thánh mà  Công đồng đã phục hồi lại được, thì đó là chuyện  rất dễ hiểu. Những tình trạng căng thẳng ấy đã  xuất hiện rõ hầu như trong mọi kỳ họp Thượng Hội  Đồng Giám mục kể từ sau Công đồng. Nhìn theo ánh sáng  của khoa giáo hội học về ”Một Hội Thánh duy nhất trong  nhiều Giáo Hội” mà chúng tôi đã đặc biệt căn  cứ vào giáo huấn của Công đồng để trình bày ở  đây, thì sẽ nhận ra rằng mối nguy trầm trọng còn đang  đe dọa nhiều nhất hiện nay, là quan niệm coi hoặc đối  xử với các thực trạng căng thẳng ấy như thể là những  thái cực đối nghịch giữa “các Giáo Hội Địa Phương”  và “Hội Thánh Hoàn Vũ,” và dồn trách  nhiệm đối với các Giáo Hội kia lên trên vai của chỉ một  mình các Giám mục địa phương; còn trách nhiệm đối với  Hội Thánh Hoàn Vũ thì lại để trọn lên tr6en vai của  chỉ một mình Giám mục Roma mà thôi. Giáo huấn của  Công đồng về hiệp thông công giáo không cho phép quan niệm  theo kiểu những thái cực đối nghịch nói trên đây, bởi  lẽ, Hội Thánh toàn thể chỉ hiện hữu ở trong  và từ bởi các Giáo Hội Địa Phương; còn các  Giáo Hội Địa Phương thì chỉ khi biết hội nhập và lưu lại  ở trong niềm hiệp thông hoàn vũ, mới được trở  thành thực sự là Giáo Hội. Và chỉ khi biết quy  hướng về với hiệp nhất, thì các khác biệt mới thật sự thực  hiện được tình trạng viên mãn trong hiệp nhất đích thực.  Rồi cùng lúc, giáo huấn của Công đồng về tập thể  tính của hàng giám mục cũng đã ngăn ngừa  một quan niệm không đúng đắn trong cách thức phân bổ trách  nhiệm giữa các Giám mục và Giám mục Roma, bởi  lẽ những thủ lãnh của các Giáo Hội Địa  Phương không phải chỉ đại diện riêng cho các cộng đoàn  đức tin của các vị mà thôi, nhưng còn cho cả  Hội Thánh toàn thể nữa; và vị thủ lãnh  của Hội Thánh Toàn Vũ chưa có thể chủ trì  một Hội Thánh thực sự toàn vẹn được, bao lâu Hội Thánh  ấy chưa thực sự là công giáo một cách thiết thực và  cụ thể.

 

 Luận đề 15

 

     Những mối dây hiệp thông và liên đới giữa  các Giáo Hội Địa Phương và giữa các Giám mục của  họ được thể hiện qua các Hội đồng Giám mục. Về phương diện  lịch sử và thần học, các Hội đồng này bắt nguồn  từ những bước phát triển trong các cơ cấu Hội Thánh  thời sơ khai. Các Hội đồng Giám mục là những khí  cụ đặc biệt cần thiết và hữu hiệu đối với công  tác cổ xúy sứ mệnh của Hội Thánh tại mỗi dân nước  và trong vùng Á Châu, cũng như đối với nổ  lực để thể hiện các chiều kích cụ thể của công giáo  tính.

 

 15.01    Những mối dây hiệp thông và liên đới giữa  các Giáo Hội Địa Phương đòi phải được thể hiện một  cách cụ thể bằng những cơ cấu có tính cách cố định của  việc hợp tác và liên đới giữa các Giám mục. Một  hình thức hiện hành của cơ cấu ấy là các Hội  đồng Giám mục trong một nước, một miền hoặc trong cả  một lục địa.

 

15.02    Xét về mặt lịch sử và thần học, những hình  thức Hội đồng giám mục như vậy bắt nguồn từ những  bước phát triển trong các cơ cấu Hội Thánh thời sơ khai.  Vào hầu như cùng một thời với cách quan niệm chức  giám mục theo thể chế quân chủ được chấp nhận ở  khắp nơi trong mọi Giáo hội, các Giám mục đã bắt đầu  nhóm họp với nhau trong các Hội đồng miền (regional synods ),  để bàn thảo và lấy ý kiến chung về những  vấn đề cần phải giải quyết. Như vậy, các Hội đồng  đã phát nguồn từ ý thức về nhu cầu cần phải  sống tinh thần hợp tác, liên đới và hiệp thông ở  trong Hội Thánh.

 

   Hơn nữa, Công đồng còn dạy rằng:

 

 “Do sự an bài của Chúa Quan Phòng,  theo dòng thời gian, các Giáo Hội khác nhau … đã  tụ họp lại thành nhiều nhóm liên kết với nhau như trong  cùng một hệ thống. Các nhóm này có kỷ luật riêng,  phụng vụ riêng, và thừa hưởng di sản thần  học cùng thiêng liêng riêng mà không phương hại đến  sự hiệp nhất đức tin cũng như bản chất duy nhất và  thần linh của Hội Thánh phổ quát. Một số trong các Giáo  Hội ấy, nhất là những Giáo Hội cổ xưa do các Giáo  chủ lãnh đạo, đã như các bà mẹ trong đức tin,  sinh ra nhiều Giáo Hội khác như là con cái của mình,  và cho đến ngày nay, các Giáo Hội ấy vẫn còn  liên kết với nhau bằng mối dây đức ái mật thiết trong đời  sống bí tích và trong sự tôn trọng quyền lợi cùng  nghĩa vụ lẫn nhau. Các Giáo Hội Địa Phương tuy có khác  nhau như thế, nhưng cũng đều quy hướng về với hiệp nhất,  cho nên càng minh chứng rõ ràng hơn tính chất công  giáo của một Hội Thánh không phân rẽ” (GH 23).

 

 15.03    Cuối cùng, từ những thời xa xưa, đã  thấy có những Giáo Hội cá thể (individual Churches ) với di sản phụng vụ, thần học, tu đức và kỷ luật  riêng: di sản ấy mang những nét cá biệt dính liền  với những trạng huống văn hóa cũng như lịch sử  của một dân tộc, và được thể hiện qua một lối sống  đạo thính ứng cho riêng từng Giáo Hội theo luật lệ riêng  (xem Schema Codicis Iuris Canonici Orientalis , 1988, điều  27,2). Công đồng ca tụng về “mối hiệp thông kỳ diệu”  của các Giáo Hội này, và tỏ lòng kỳ  vọng mong sao cho các truyền thống của họ được bảo  toàn “trọn vẹn và nguyên tuyền” (ĐP 2).  Hơn nữa, Công đồng đã long trọng nói lên ước nguyện  muốn cho nguyên tắc cổ truyền về việc tôn trọng quyền tự  trị của các Giáo Hội ấy, được tuân thủ nghiêm chỉnh  hơn, chứ không phải là một cách lơ là như đôi  lúc vẫn thấy ở trong quá khứ (xem HN 16).

 

15.04    Không một kiểu mẫu nào trong các hình thức cổ  xưa dùng để thể hiện mối hiệp thông giữa các Giáo  Hội trong cùng một miền, hoặc tình liên đới giữa các  Giám mục trong vùng, có thể được coi là hoàn toàn  giống đúng với cơ chế hiện hành của các Hội đồng  Giám mục. Nhưng dù sao, các hình thức ấy cũng chỉ cho  thấy một hướng đi để theo đó mà tìm kiếm một căn bản  thần học cho cơ chế của các Hội đồng Giám mục. Đúng  thế, Vaticanô II đã coi các Hội đồng Giám mục có liên  hệ trước tiên với các tổ chức quy tập nhiều Giáo Hội thời  xưa: “Cũng thế, ngày nay các Hội đồng Giám mục  có thể góp phần bằng nhiều thể cách khác nhau và hữu  hiệu để cụ thể hóa tinh thần tập thể (giữa giám mục  đoàn)” (GH 23). Còn trong Sắc lệnh về nhiệm  vụ mục vụ của các Giám mục, thì sau khi nhắc nhở  lại những mẫu gương liên đới giữa các Giám mục  trong các Hội đồng hay Công đồng địa phương, Công đồng cũng  đã khuyên là hãy nên chính thức công nhận các  Hội đồng Giám mục (xem GM 36-37).

 

15.05    Muốn xây dựng căn bản cho một nền thần học về  các Hội đồng Giám mục, thì chỉ cần nêu lên ở đây một  số điểm xem ra vững chắc về phương diện thần học. Thứ  nhất: ngày nay, cả các thần học gia lẫn các giáo  luật gia đều nói đến những cấu tố chủ yếu của  Hội Thánh mà chính Đức Kitô và các tông đồ đã  thật sự để lại cho chúng ta, nhưng còn cần phải được  thể hiện (hiện thực hóa) qua nhiều hình thái khác nhau, tùy  vào những thời điểm và những hoàn cảnh  khác nhau. Những mẫu gương hiệp thông giữa các  Giáo Hội trong cùng miền nêu trên đây, minh họa rõ  về điểm này. Nếu thế, thì có thể dùng các thuật  ngữ cổ truyền de jure divino (thuộc thần luật) và de jure ecclesiastico (thuộc giáo luật) mà nói rằng  các Hội đồng Giám mục là thuộc lãnh vực giáo luật,  nhưng lại có căn bản ở trong thần luật.

     Cần phải lưu ý đến điểm này là dù trên nguyên  tắc, việc phân biệt giữa những gì thuộc thần luật  với những gì thuộc giáo luật, xem ra hết sức rõ ràng  và chính xác, thì thường là rất khó (và có  lúc không thể nào) mà phân biệt cho được trong cuộc  sống thực tế và trong các cơ chế cụ thể của Hội  Thánh, những gì thuộc thần luật và những gì (chỉ)  là thuộc giáo luật.

 

15.06    Thứ hai: liên quan tới uy thế và vai trò của  Hội đồng Giám mục theo tư thế là những dấu chứng  của tập thể tính (của giám mục đoàn), cần phải  lưu ý là Công đồng Vaticanô II hiểu từ ngữ và  thực thể “tập thể tính” theo hai ý nghĩa hẹp và  rộng. Tập thể tính theo nghĩa hẹp bao hàm hoạt động của  toàn bộ giám mục đoàn trên khắp thế giới, cùng  hiệp thông với Đức Giáo Hoàng. Tuy nhiên, khi bàn  thảo về đề tài này (xem GH 22-23), Công đồng đã  kể ra nhiều trường hợp trong đó, tập thể tính của  giám mục đoàn được hiểu theo một ý nghĩa rộng hơn; nếu  thế, thì trong thực tế, Công đồng hiểu “tập thể tính”  một cách loại suy, và đến một mức độ nào đó, như  là một khái niệm còn chưa xác định hẳn. Vì vậy, khái  niệm này cũng có thể bao gồm được cả thể chế  hiện hành của các Hội đồng giám mục nữa.

 

15.07    Căn cứ vào những điểm vừa được bàn đến  (15.05, 15.06), sau đây, chúng tôi xin trình bày những  đường nét đại cương của một nền thần học về Hội  đồng Giám mục:

 

     Chỉ khi nào việc tự cấu thành chính mình (own self-constitution)  như là mầu nhiệm của Đức Kitô, đạt tới mức độ thực  sự trở thành một thái độ dấn thân ứng đáp cho những  yêu cầu và thách đố gặp thấy nơi các xã hội và  các nền văn hóa, trong đó mình đã được Lời Đức Kitô  và ơn của Thần Khí làm phát sinh nên, thì lúc đó,  Hội Thánh mới thực sự là công giáo một cách thiết thực  và cụ thể. Trong tiến trình ấy, Hội Thánh thu nhận, duy  trì, cổ vũ và hòa nhập vào trong niềm viên  mãn của hiệp nhất, những di sản xã hội,  lịch sử và văn hóa của các dân tộc trong nơi mình  sinh trưởng. Những mối dây liên đới tự nhiên giữa  các cộng đoàn và các truyền thống đó không bị tiêu  tán đi, song được đón nhận vào trong niềm hiệp thông của  Hội Thánh. Thật sự thì chính những mối dây liên đới ấy  phần lớn đã từng làm nền móng cho các tổ chức  quy tập nhiều nhóm Giáo Hội thời xưa mà Công đồng  không ngớt đề cao. Vì vậy, trong cùng một Hội Thánh duy  nhất, không những có hai mối hiệp thông mà thôi:  tức là hiệp thông cá thể trong trong giáo phận và  hiệp thông phổ quát trong khắp thế giới, nhưng còn có  những hình thức hiệp thông trong từng miền với những  dây liên hệ nối kết về phương diện tự nhiên, cũng như  về mặt lịch sử và văn hóa nữa. Và như thế,  chính ở trong các hình thức hiệp thông xưa và nay như  thế giữa các Giáo Hội cá thể, cần phải khám phá  cho ra nền tảng thần học đích thực của những hình  thái hiệp thông và hợp tác, tương tự như trong trường  hợp hiện hành của các Hội đồng Giám mục.

 

15.08    Nếu những gì Công đồng dạy liên quan đến tính chất  công giáo cụ thể được đón nhận một cách nghiêm chỉnh, thì  thế tất giáo huấn ấy cũng phải được thể hiện ra  trong thực tế bằng những hình thức biểu đạt thích đáng  về mặt pháp lý. Hội đồng Giám mục hẳn là một trong  các hình thức biểu đạt ấy. Và nếu Bộ Giáo luật mới  đã nới rộng rất nhiều vai trò của các Hội đồng  ấy, thì chính là để cho các Giáo Hội Địa Phương trong một  miền riêng biệt, đảm nhận trách nhiệm nhiều hơn đối với  công tác làm cho Hội Thánh được hiện thực hóa ngay ở  trong những bối cảnh và trạng huống riêng biệt  của họ.

 

15.09    Các Hội đồng Giám mục của một nước hoặc một miền  — và có thể kể thêm vào đó cả những Liên  hiệp các Hội đồng Giám mục trong một vùng lớn rộng hoặc  là trong một lục địa (thí dụ: FABC, CELAM, CCEE, SECAM,  AMECEA, v.v.) — là những cơ cấu hiện đang tỏ  ra đặc biệt hữu hiệu và hữu ích cho thời đại  này, cả trên bình diện lý thuyết lẫn trong bình  diện thực hành. Đức Phaolô II đã nhận định về các  Hội đồng Giám mục và coi đó là những tổ chức  “rất cần thiết, rất hữu ích, và đôi lúc không  thể thiếu được”, bởi vì, những Hội đồng như thế  ứng đáp thích đáng cho những đòi hỏi của thời  đại và tỏ ra thực sự là khí cụ hữu hiệu để  đảm bảo cho hoạt động của các Giám mục có được  sự hiệp nhất cần thiết” (Phần mở đầu văn kiện của  Bộ đặc trách về các Giám Mục: “ Theological and Juridical  Status of Episcopal Conferences ”).

 

15.10    Các Hội đồng Giám mục làm cho các Giám mục có  cơ hội gặp gỡ và học hỏi nghiên cứu — trong  tư thế là một cơ cấu tập thể (collegial body ) —  về các vấn đề và hoàn cảnh chung mà mỗi  giáo phận đang gặp phải, cũng như có dịp để bàn  thảo một cách sâu rộng hơn và với những dữ  kiện đầy đủ hơn, về các vấn đề ấy, để rồi nhờ Thần  Khí hướng dẫn mà đạt tới chỗ thỏa thuận một  cách chắc chắn và mau lẹ hơn, về những gì được coi  như là một quyết định chung, hoặc là một hành động  chung nếu hoàn cảnh cho phép và nếu các vị muốn.  Cho dù còn có nhiều vấn đề cần phải giải  quyết trong phương cách tiến hành, thì không ai có thể  phủ nhận được những lợi ích do các Hội đồng Giám  mục mang lại.

15.11    Để kết thúc phần bàn thảo về Hội đồng Giám  mục, chúng tôi xin được lưu ý đến nhận định đánh giá rút  ra từ kinh nghiệm sống của Liên Hiệp các Hội đồng  Giám mục Á Châu (FABC), mà Kỳ họp khoáng  đại lần thứ ba của Liên hiệp (Bangkok-Sampran 1982) đã  đưa ra trong bản tuyên ngôn cuối cùng.

 

Bản tuyên ngôn đã nêu ra một số những ích lợi  của FABC, như sau:

 

  • việc quen biết và hiểu nhau, cũng như  sống tình bạn và có những mối dây liên đới sâu đậm  giữa các Giám mục Á Châu đối với nhau đã tăng  triển thêm nhiều;

 

  • -tinh thần chia sẻ suy tư mục vụ và truyền  giáo, chia sẻ nhận định về những lập trường cần  phải có, về cách xử sự, về các chương trình và  sáng kiến, cũng như chia sẻ cả đến nhân sự, khả  năng chuyên môn và những tài nguyên hoặc phương  tiện khác;

 

  • việc cùng nhau giải quyết những vấn  đề và những khó khăn chung, cũng như cùng nhau  tiến dần tới chỗ có một lập trường đồng nhất hơn  trong cách nhìn về cuộc sống và tương lai, trong cách nhận  định các giá trị và các thứ bậc ưu tiên cho các dự án;

 

  • thái độ đóng góp đối với công tác suy tư đối  với việc phân định và chọn lựa trong các lãnh vực  thần học và mục vụ, đang tiến hành trong các Giáo  Hội tại các lục địa khác , cũng như đối với đường  hướng tư tưởng và những phương sách hành động  của các cơ chế hành chính trung ương của Hội  Thánh ;

 

  • và (cần phải nhấn mạnh đặc biệt đến)  mức hiểu biết cao rộng hơn cũng như lòng quý trọng  sâu đậm hơn đối với ý nghĩa cùng vai trò của Tòa  Thánh Phêrô trong Hội Thánh Công giáo Hoàn vũ.

 

15.12 Bản tuyên ngôn của FABC III kết thúc với  những lời lẽ như ghi lại sau đây, vén mở cho  thấy một công tác khác — có lẽ là bất ngờ  — mà các Hội đồng Giám mục và Liên hiệp các  Hội đồng Giám mục Á Châu quyết định thực hiện để phục  vụ Hội Thánh và thế giới:

 

     “Sứ điệp của cuộc họp mặt lịch sử giữa  các Giám mục Á Châu, vào năm 1970, đã nói đến  việc ‘hợp tác để liên kết thế giới mới của Á Châu  lại thành một đại gia đình quy tập hết mọi dân nước sống  trong phần đất này của thế giới, không phải đơn  thuần bằng những mối liên hệ về mặt địa dư không thôi,  nhưng còn bằng cả những mối dây cảm thông  và trọng kính lẫn nhau, cùng những mối dây  cao quý của tình huynh đệ và yêu thương nữa’.

 

     “Mong rằng trong một cách thức nhỏ bé nào  đó, Hội Thánh tại Á Châu trở thành bí tích – tức  là dấu chỉ và là khí cụ (xem GH 1; MV 40)  – của mối hiệp nhất ấy giữa các dân tộc chúng ta:  đó chắc chắn là một trong những hoài bão mà  FABC hằng tha thiết ấp ủ trong lòng, và chúng  tôi thâm tín rằng trong nhiệm ý của Chúa, những năm  vừa trôi qua không phải là khoảng thời  gian vô nghĩa đối với việc thể hiện niềm khát vọng ấy”.

 

 15.13 Hội Thánh không hiện hữu cho riêng mình, không sống cho một mình mình, nhưng là để làm người tôi tớ  phục vụ cho công cuộc cứu độ của Đức Kitô trong lịch  sử, ngõ hầu Nước Thiên Chúa trị đến: Nước Thiên Chúa  đang hiện diện, nhưng đồng thời cũng đang đến gần.  Giáo Hội Địa Phương đảm nhận cùng một ơn gọi và  cùng một sứ mệnh ấy, ở tại nơi và ở vào  thời điểm mà Thiên Chúa đã đặt định: tại đó,  Giáo Hội có bổn phận phải mang hy vọng và tình thương  mà “tuôn đổ cho tràn đầy mọi khoảng trống”;  tại đó, Giáo Hội có bổn phận phải thu góp các di sản  của đất nước và dân tộc mình, để rồi cùng với  hết thảy mọi Giáo Hội Địa Phương trên khắp thế giới,  nắn đúc nên mối hiệp thông giữa mọi dân tộc, là  mối hiệp thông hiện đang lớn lên ở giữa lòng  lịch sử loài người, và đó cũng chính là  những gì Thiên Chúa đã hứa ban cho con tim và cho  bàn tay của những con người thiện chí sống khắp  nơi trong thế giới.

 

 KẾT LUẬN

 

 1.    Uỷ ban Cố vấn Thần học của FABC chúng tôi  xin đề xuất các luận đề trên đây gửi đến các Giám mục  và các Hội đồng Giám mục, đến các trường thần học  và chủng viện, cũng như đến các thần học gia và  các sinh viên thần học, như là một khởi điểm suy  tư chung về Giáo Hội Địa Phương , đặc biệt là về Giáo  Hội Địa Phương tại trong bối cảnh Á Châu. Chúng tôi  mong rằng nhiều cộng đoàn kitô sẽ lưu tâm tìm hiểu,  có lẽ là lần đầu tiên, về ý nghĩa và tầm trọng  yếu của Giáo Hội Địa Phương trong đà tiến triển đổi  thay của những trạng huống mà Hội Thánh đang phải  trải qua tại những đất nước của chúng ta. Chúng  tôi xin nhắc lại điểm này: chúng tôi không hề có chủ  ý đề xuất các trang viết này như là “câu giải  đáp cuối cùng” cho các vấn đề đang nghiên cứu và  các quan điểm đang có. Đây chỉ là những lineamenta (điểm dự thảo) nêu lên để bàn luận, và có hay  lắm thì cũng không hơn không kém, chỉ là một instrumentum  laboris (tài liệu nghiên cứu). Điều chúng tôi ước mong  tha thiết nhất là được thấy khai diễn ra một cuộc  thảo luận thật sự, để giúp chúng ta đẩy mạnh việc nghiên  cứu tìm hiểu thêm về Giáo Hội Địa Phương, trong những bối  cảnh và ở vào thời điểm lịch sử mà  chúng ta đang sống.

 

2.    Cũng như trong phần mở đầu văn kiện này, chúng  tôi đã nêu lên một số các “dấu chỉ của thời  đại” (MV 4.44) trong môi trường Á Châu hiện  đại, và đã thử miêu tả sứ mệnh của Hội  Thánh ngày nay trong bối cảnh biến hóa sâu rộng theo  đà phát triển như đã thấy, thì bây giờ, trong phần  kết thúc này, chúng tôi cũng xin trở lại với  chính những mối quan tâm ấy.

 

3.    Như chúng tôi đã lưu ý trên đây, trong kỳ họp đầu  tiên, FABC đã coi việc xây dựng Giáo Hội Địa Phương  như là tiêu điểm hiện thời của sứ mệnh Hội Thánh  tại Á Châu. Nhận định ấy vẫn còn thích đáng cho  ngày nay. Cũng vẫn còn thích đáng việc đặt  công tác đối thoại ba chiều làm ưu tiên hàng đầu  trong các dự án: đối thoại với các nền văn hóa dân tộc,  với các truyền thống tôn giáo và với những cảnh  trạng bần cùng và áp bức. Theo chúng tôi thì không  những vẫn thức thời, mà trong giai đoạn hiện  tại này, chương trình hành động ấy còn trở  nên cấp thiết hơn cả trong thời mới được đề xuất  ra, tức là cách đây ngoài 15 năm.

 

4.    Các Giáo Hội Địa Phương tại Á Châu cần phải ý  thức ngày càng rõ ràng hơn về trách nhiệm  chủ động của mình đối với công trình Hội Thánh đang  theo đuổi nhằm tự hiện thực hóa chính mình ở giữa  loài người. Cần phải làm sao để cho “ý  thức mình là Hội Thánh” thấm nhập ngày càng  sâu đậm hơn vào trong hết mọi tầng lớp của các cộng  đoàn kitô chúng ta. Càng ngày việc xây dựng tinh  thần “hiệp thông và tham dự” cũng như việc  cổ xúy “công tác truyền giáo và phục vụ” trong  thế giới càng phải được coi như là bổn phận dấn  thân của toàn Dân Chúa, nhưng đặc biệt — và  với những lý do ngày càng thúc bách hơn — là  của giới giáo dân. Kiên nhẫn tìm kiếm và trung  thành đáp ứng tác động đầy sáng tạo của Lời  và Thần Khí hằng hiện diện trong cuộc sống mỗi ngày  của các cộng đoàn chúng ta, phải là một cố  gắng liên lỉ không chỉ là của một mình hàng giáo  phẩm, mà là của tất cả chúng ta.

 

5.    Sở dĩ phải làm như vậy, là vì sứ mệnh của  Hội Thánh, khuôn rập theo kế hoạch mà Chúa của lịch  sử đã đề ra, đòi hỏi như thế. Trong thập kỷ  80, chúng ta đã từng chứng kiến những cuộc đổi  thay vĩ đại ở trong nhân loại, làm phát sinh nên những  biến cố mà ít năm trước đây không ai ngờ là có  thể xẩy ra được. Và bây giờ, chúng ta đã có thể  mường tượng nhận ra được thế giới của thiên niên  thứ ba đang hiện rõ ra đằng trước mắt, với những khát  vọng tự do và tình liên đới bừng lên như những  dòng suối mới mang theo đầy hy vọng cho con người, với  những cơ cấu còn mới mẽ và còn phải  khắc phục nhiều trở ngại mới xác định được hình thái  rõ rệt của mình. Tin Mừng sẽ có mặt hay không  ở trong thời đại mới này, với những xoay chuyển  bất ngờ và những khác biệt muôn hình thái của  nó: đó điều tất sẽ tùy thuộc rất nhiều ở sự  việc các Giáo Hội Địa Phương có chu toàn sứ mệnh của  mình trong chính thời điểm lịch sử mình đang sống đây  hay không. Giữa bối cảnh như thế, chúng ta có cơ hội  để thấu hiểu được phần nào ý nghĩa về tầm trọng yếu  của Giáo Hội Địa Phương và của công tác hội nhập  văn hóa; những ai không thấu hiểu nổi điểm này, thì  cũng chẳng có thể ứng đối thích đáng được với những  dấu chỉ của thời đại và với nhịp đập trong con  tim thổn thức của các dân nước chúng ta.

 

6.    Chắc hẳn chúng ta phải biết ơn Chúa vì đã cho chúng  ta ngày nay cảm nghiệm được “luồng đại phong của  Thần Khí” đang ồ ạt thổi mạnh vào trong các Giáo Hội  chúng ta. Vì đây là một thời điểm biệt đãi cho  việc suy tư thần học và phân định tại các địa phương, cho  công cuộc hợp tác và phục vụ, cho công trình xây dựng  Giáo Hội Địa Phương đích thực tại phần đất này của  thế giới. Đây là lúc cần phải dùng đến những  sáng kiến táo bạo cho công tác mục vụ và truyền giáo,  để đáp trả cho lời của Đức Kitô, Chúa chúng ta,  giờ đây đang kêu mời chúng ta đứng sát bên Người:  giờ đây là chính lúc, bằng không biết bao nhiêu cách  thức đầy sức sáng tạo, Người đang tiếp tục thích nghi  chính con người của mình với nếp sống của bản  tính nhân loại, và đang nắn nên hình thái cho tương lai  của mỗi dân nước chúng ta.

 

7.    Chỉ còn một điều là chúng ta phải cầu xin cho  biết lắng nghe và vâng theo Thần Khí, để Ngài dẫn  dắt chúng ta với sức năng sáng tạo của Ngài, và  để chúng ta nhận được tràn đầy nghị lực can đảm và  tinh thần dấn thân, là những ân huệ Ngài ban cho.  Có vậy mới mong được rằng thiên niên thứ ba của lịch  sử kitô giáo sẽ phản ánh ngày càng rõ  hơn, Nước Thiên Chúa ở giữa chúng ta, và sẽ  thể hiện trung thực bản chất đích thực của Hội Thánh,  một Hội Thánh của mọi dân tộc, một Hội Thánh làm  tôi tớ phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Có vậy, chúng ta mới  mong góp được phần mình vào trong công trình làm cho  “danh Thiên Chúa cả sáng dưới đất cũng như trên  Trời”, và vào trong thế giới hiệp thông ấy,  một thế giới đang lớn dần lên như là một ân huệ xuất  phát từ lòng bàn tay của Thiên Chúa Cha, Con  và Thần Khí, và như là một tác vụ đặt ngay ở  giữa lòng nhân loại để gửi đến cho mọi người  thiện chí đang sống ở khắp nơi trên mặt đất.

 

[Ngô Minh chuyển dịch, HTTH SỐ 5, NĂM THỨ HAI (1992)]

 

 

 Lưu ý : Ở đây, chúng tôi không trình dịch Phần D của  văn kiện, tức là Phần mang tựa đề Những hệ quả  mục vụ và những lời nhắn nhủ.

—————

 1 Các “Luận đề về Giáo Hội Địa Phương” này đã  do Ủy Ban Cố Vấn Thần Học của Liên Hiệp các Hội  Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) soạn thảo ra. Tất cả  các Hội Đồng Giám Mục thuộc FABC đều có đại diện làm  thành viên trong Ủy Ban vừa nói. Tài liệu giới  thiệu các Luận đề này là thành quả của  cuộc nghiên cứu và bàn thảo mà các thành  viên của Ủy Ban và các nhà thần học khác  đã tiến hành suốt trong năm năm, và cuối cùng  đã chấp thuận trong lần Ủy Ban họp tại Hồng Kông  hồi tháng tư năm 1990. Các Luận đề chỉ nhằm mục đích đề ra  một số điểm căn bản làm nền tảng chung cho các  cuộc liên tục trao đổi và bàn thảo rộng lớn hơn  với các chủ chăn và các thần học gia. Các thành  viên của Ủy Ban Cố Vấn Thần Học ước mong nhận được  những ý kiến nhận định của các quý vị đọc Luận đề,  nhằm đẩy mạnh đà suy tư thần học cũng như mục vụ  trong Hội Thánh. Xin gửi các ý kiến nhận định về FABC,  16 Caine Road, Hong Kong.

Bộ Giáo Luật  bằng tiếng Việt, do Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ xuất bản  (1987), dịch ecclesia particularis bằng Giáo hội địa phương