Một nguyên tắc tu thân: Con Đường Nước

Gần đây, ngày càng dồn dập những cách mạng trong lãnh vực khoa học, kỹ thuật. Trong số những cách mạng ấy, phải kể đến chủ thuyết bất định (indéterminisme), hỗn mạng (chaos) và lô dích mờ (fuzzy logic).

Bất định, đó là một trong hai: vị  trí hay tốc độ, năng lượng hay  thời gian của một hạt tử, mà  ta không thấy chính xác (flou quantique). Và cũng không thể tính trước  rằng một hạt bắn đi sẽ xuyên qua  tấm bia hay dội 145. Nói chi đến sự  phức tạp và vô cùng tinh tế của  sự sống. Biến dịch vẫn có quy luật  của dịch biến, nhưng quy luật ấy tinh  vi quá, khó xác định. Những định  luật đơn giản chỉ có thể áp dụng  “chung chung,” áp dụng cho số nhiều, thành  “Quy luật của những con số lớn”  (Loi des grands nombres), nên có lẽ phải  mang tính xác xuất (calcul de probablité)  vào ứng phó.

 

Vâng, tất cả không đơn giản, như  hai với hai là bốn. Hai với hai đúng  bốn chỉ có trong lý trí chúng ta. Và  cũng chỉ trong lý trí chúng ta mới  có đường thẳng vô tận, khi mà  trong thực thế, tới một độ dài  nào đó, đường thẳng phải  cong đi trong một vũ trụ hình cầu. Ðể  hiểu được vũ trụ này, lý  trí phải mềm lại để dễ ưốn  theo những đường cong của nó.  Và thay vì lô dích nhị phân, quá cứng  nhắc với Có (dòng điện qua) và  Không (dòng điện ngừng), người  ta phải chuyển sang lô dích mờ của  nhiều độ đúng và sai, nhiều độ  có và không. Thí dụ, để phân  biệt một người trẻ hay già, nếu  theo lô dích nhị phân và lấy tuổi  ba mươi làm chuẩn, thì ngày hôm trước  anh còn trẻ (ba mươi), ngày hôm sau anh  thành lão mất rồi. Ðó, sự vô  lý của cái rõ nét.

 

Bớt rõ nét và mềm dẻo hơn, có  những con đường của Phương  đông.

 

Vào hậu bán thể kỷ XX, xuất hiện  trên bầu trời Mỹ một vô địch  đô vật hạng nặng, được chân  truyền từ Nhật một công phu gọi  là nhuyễn phúc công. Trong chiến đấu,  hễ đầu đối phương đụng vào  bụng anh ta liền bị bóp cứng ở  đó, không cụ cựa gì nổi, điều  tưởng chỉ có trong truyện chưởng  thôi. Thì ra nhuyễn phúc công, với  sức mạnh của cái mềm, là có  thực. Và cũng thực đúng nguyên  lý NHU THẮNG CƯƠNG.

 

Ngoài nhuyễn phúc công, nguyên lý này  còn được xác minh bằng nhiều  cách khác, trong Judo chả hạn.

Judo không đương đầu trực diện,  mà lấy mềm đón cứng. Nghĩa là  thuận theo hướng đánh của người  mà đánh người, và đánh bằng  sức của chính họ. Nhờ thế, dù  yếu vẫn quật ngã được kẻ  khoẻ hơn gấp mấy lần.

 

Lối đòn mềm ấy cũng là kỹ thuật  của du kích chiến. Trong du kích chiến, hễ  địch công thì mình né, chờ địch  không phòng bị hay phân tán lẻ tẻ mới đánh, xuất kỳ bất ý mà  đánh, lấy vũ khí của địch mà  diệt địch.

 

Chiến thuật mềm thường là sở  trường của Phương đông, được  Phương đông khám phá khi chiêm ngắm  thiên nhiên, nhất là chiêm ngắm nước.

 

Con đường Nước của  Lão tử

 

Lão tử chính thức trình bày con  đường Nước trong chương 66,  78, nhứt là chương 8 của Ðạo  Ðức Kinh, nhưng con đường ấy  chìm ẩn suốt cuốn sách này. Bởi  lẽ toàn bộ cuốn sách nói về sức  mạnh của Nhu, của Vô vi, Thuần phác.  Mà dù Vô vi hay Thuần phác cũng là  cách xử Mềm cả. Mà mềm, thì  “không gì mềm hơn nước,” “không  gì thắng được nước.”

 

Quả thật, nước dưới thấp  thì cũng như khí trên cao, bao giờ  chả mềm, chả xem như yếu, hễ bị lấn  thì lui, nhưng vẫn nguyên vẹn, chẳng ai  làm chi nổi. Chính vì mềm, nên nước  không hề bị giảm suy, thương tổn.  Chính vì mềm, nên lợi dụng được  mọi hoàn cảnh, thời cơ. Do đó,  về lâu dài, nhất định sẽ thắng;  để rồi càng thắng, càng dồn thêm  sức mạnh, khiến gió chất thành bão,  nước chất thành sóng lớn, thủy  triều.

 

Vì nước mềm, nên không ai chống  với, không ai muốn đua tranh. Trái lại,  hễ cao thì có người ganh, hễ hợm  mình thì có người ghét:

 

— “Dĩ kỳ bất tranh, cố, thiên hạ  mạc năng dữ chi tranh.”

 

Nước chỉ yêu ở chỗ thấp (thiên  hạ), và vì thấp, nên thâm nhập được  tất cả, thành “bách cốc vương.”  Tình chỗ thấp, đó là khiêm nhu, ẩn  khuất, không kể công, không hám danh.  Chính nhờ đó mà mọi người  đều yêu quý, và không ai muốn chống  mình.

 

Mềm đến như nước, thì không  còn hình thức gì nhất định, nên  luôn trong tình trạng “sẵn sàng” để  tùy thời mà uốn nắn. Và đây  là thái độ thuần phác, vô vi, la  “đứa con đỏ” (xích tử),  chưa thành gì để có khả năng  thành mọi cái. Ðây cũng là khả  năng “ứng vạn biến,” không vụ  vào gì cả, nên thích nghi được  với mọi thời, mọi nơi, mọi tình  huống, mà vẫn y nguyên chính mình.

 

Sự mềm dẻo để “ứng vạn  biến” này, chúng ta gặp rất nhiều  thí dụ trongI Tam quốc chí. Lần kia,  Tào Tháo rút quân và Trương Tú  muốn đuổi theo, nhưng Giả Hủ khuyên  đừng đuổi, hễ đuổi là thua  đó. Tú cứ đuổi, nên thua thật.  Vừa thua xong, Giả Hủ lại bảo: bây  giờ thì đuổi được! Tú đuổi, và quả nhiên lần ấy thắng  lớn. Hỏi tại sao, thì Hủ giải thích  rằng: Tào Tháo có nhiều tướng  giỏi, nên khi rút, ắt phải để họ  đoạn hậu. Còn lần sau, vì Tháo tưởng  Tú không dám đuổi nữa, nên đi  gấp mà không phòng bị gì (hồi 18).

 

Lần khác, khi nghe tin Lưu Bị dựa vào  rừng mà đóng quân, Khổng Minh đã  than rằng sẽ bị hỏa công và thua lớn.  Và xẩy ra đúng như thế. Thế nhưng  sau đó, chính Khổng Minh cũng đóng  quân trong rừng, nhưng chỉ là để  lừa cho địch tới đánh hỏa  công, nhờ đó bắt sống Mạnh Hoạch (hồi 88).

 

Cũng thì những trường hợp  như nhau, nhưng chưa chắc đã y hệt  nhau. Nên đối phó phải tùy nghi, không  nên “nguyên tắc quá.” Và sau đây  là lời của Gia Cát Lượng về  thuật dùng binh:

 

Ôi phép làm tướng Phải biết  mềm biết cứng, Biết lo biết lường,  Biết lui biết tiến, Biết nhược biết  cường, Vững vàng như núi đá,  Biến hóa như âm dương…” (hồi  100).

 

Lão tử nhận ra một ưu điểm của  nước, đó là tính vô kỷ, vị  tha, làm lợi cho tất cả (thiện lợi  vạn vật). Nước lại còn có tính cách nén  chịu, sự nén chịu cũng của con đường  Nhu:

 

— “Thọ quốc chi cấu, nhận lấy cho  mình bụi bậm của quốc gia.”

— “Thọ quốc chi tường, nhận lấy  cho mình sự rủi ro của nước nhà.”

 

Ðây cũng là tận cùng của vị  tha, nhưng chính nhờ thế mới thực  làm chủ được sơn hà, xã tắc.

 

Nói đến vị tha và đón chịu là  nói đến đặc tính của nước  ở mức tổng thể, nên bao la của  nó. Và đây là nước trường  giang chảy miết không ngơi, dù cuốn theo  bao rác rưởi mà vẫn luôn thanh khiết.  Ðây là nước đại dương,  dù nuôi ngàn muôn tôm cá mà không  bao giờ cạn kiệt. Vậy đi vào đạo  Nước, thì trí không dừng ở  đồng dị tiểu tiết, tâm không thu  vào tiểu ngã hạn hẹp, cũng như chí  hướng phải vượt lũy tre xanh.  Rộng mênh mông, hòa đồng với  tất cả, tức “Vật ngã vi Nhất,”  đó là độ mở vô độ của  nước vậy.

 

Những ứng dụng xưa nay của  con đường Nước

 

Soạn cuốn Ðạo đức kinh, Lão  tử muốn đề xướng một thuật  trị nước không ra vẻ trị, “Vô  vi như trị,” cách ông coi là duy nhất  để thành công. Sự cai trị cứng  rắn bằng hình phạt, o ép bằng luật  pháp, chỉ tổ khơi dậy tà tâm, thúc đẩy sự đề kháng, và đây  là mầm của đại loạn. Ông muốn  một giáo hóa êm ái, thấm dần vào  tim, do người trên sống thanh thoát mà  ảnh hưởng đến cảm nghĩ và  cách cư xử của người dưới.  Ðể được thế, người ở  trên đùng ra vẻ làm bề trên bằng  thị uy, hống hách, lại phải sống Vô  kỷ, Vô công, Vô danh, Vô tranh, mà không  có ý nêu gương, sự cố ý nó luôn sinh kháng ý.

 

Nhưng con đường mà Lão tử  đề xuất lại là con đường  khó nhất, nên chẳng ai buồn tiến vào.  Vì trước tiên, người quân  tử (vua và quan) phải đạt tới  mức thập thành nào đó của đạo  Vô vi, nhờ vậy hiểu đạo, sống  đạo, rồi sử đạo, điều như  không thể có đối với những  người có thế có quyền: “Sự  soi mòn của quyền bính” mà lại! Chưa  hết, còn phải nhẫn nại chờ đợi  kết quả, cái kết quả có thể rất  bền đấy, nhưng lại quá chậm khi trị theo kiểu “không làm gì” (vô vi) như  thế. “Trăm năm trồng người”  mà!

 

Thật ra, để có trật tự mới,  phải có con người mới. Mà để  có con người mới, lại phải có  trật tự xã hội mới: hai yếu  tố luôn song hành với nhau. Sự nới  lỏng luật pháp phải đi sau sự biến  đổi con người do giáo dục. Khi con  người đã tốt lên một tí,  thì kỷ luật phai bớt khắt khe thêm  một bước, để cuối cùng chỉ  còn tự phát, tự sống tốt do  tinh thần tự trọng thôi. Khó có  chính quyền nào dám phiêu lưu vào  con đường ấy, và đủ kiên  nhẫn chờ lâu như vậy.

 

Không chối cãi rằng, trong xử thế,  vẫn nhiều kẻ áp dụng con đường  mềm. Nhưng thật ra, họ không mềm thật,  mà chỉ mềm mỏng, nghĩa là dùng Mềm  như một sách lược, chứ không  mềm tại tâm. Thiếu sự chân thành,  họ chỉ đạt được những  kết quả bề mặt và nhất thời,  chứ hóa dân thì không thể.

 

* * *

 

Bản chất của nước là không hình  thức, không cứng nhắc trong khuôn  khổ, nhờ đó có khả năng vạn  biến, đủ mềm dẻo để ứng  phó chuẩn và nhanh trong bất cứ tình  huống nào. Nguyên lý ấy được  đưa vào trong lý thuyết võ thuật  của nhiều tổ sư và của nhiều nhà  viết truyện kiếm hiệp, trong đó nổi  bật nhất hẳn là Kim Dung. Kim Dung mang cái  nhìn phóng khoáng đó, chẳng những  vào trong võ thuật, mà cả vào triết  lý sống nữa. Trong bộ Ỷ thiên-Ðồ  long, ông trình bày lý thuyết Thái cực  kiếm của Trương Tam Phong. Trương chân  nhân múa một lần cho đệ tử Trương  Vô Kỵ coi, và hỏi xem nhớ được  mấy phần. “Nhớ được một  nửa,” Vô Kỵ đáp. Tam Phong múa  lại, nhưng đường kiếm khác đi,  rồi hỏi xem nhớ được bao nhiêu.  Ngẫm nghĩ một lát, Vô Kỵ reo lên:  “Quên hết rồi.” Trước sự  sửng sốt của mọi người, chân  nhân phán quyết: “Vậy ra là đấu được rồi!” Mà đấu với  ai kia? Với một bậc thầy về kiếm  pháp đấy, trong khi trước đây,  Vô Kỵ chẳng biết gì về kiếm cả.

 

Thì ra đây là kiếm ý, chứ không  phải kiếm chiêu. Nên chỉ có nguyên  tắc, chứ chiêu thì tùy cơ mà  sáng tạo. Chỉ có Tam Phong mới nghĩ  ra, chỉ có Vô Kỵ mới hiểu nổi.  Nhưng hiểu cái lý rồi, thì thiên  biến vạn hóa, không thể lường  được. Theo lý thuyết Ðạo học,  mà Thái cực kiếm dựa vào, thì hết mọi cái đều từ Vô mà  sinh, nên trở về được với  Vô, thì mới ứng biến tự nhiên  nổi.

 

Ðưa triết lý chữ Vô vào cuộc  sống, Kim Dung tạo ra mẫu người Lệnh  hồ Xung, sống theo trực giác, chứ  không bằng nguyên tắc, sống thật với lòng, chứ không theo đánh giá của  công luận. Công luận chia chánh tà hai  phe. Nhưng ai chánh mà không có một phần  tà, và ngược lại cũng thế? Thậm  chí nhân vật điển hình của phe chánh,  được mệnh danh Quân tử kiếm,  lại che dấu một tâm địa quá tiểu  nhân, trong khi kột số kẻ trong đám đầu  trâu mặt ngựa lại biết trọng danh  dự và chữ tín, và sống có  tình nghĩa nữa.

 

Kim Dung đã mở đầu bộ Tiếu ngạo  giang hồ bằng sự gặp gỡ trong tương  đắc của hai trưởng lão, một thuộc  phe chánh, một thuộc phe tà. Tuy đối  nghịch bên ngoài, nhưng thực ra cả  hai đều nghĩa khí như nhau. Và kết  quả của sự tương phùng ấy là  bản nhạc Tiếu ngạo giang hồ đươc họ đồng sáng tác nên.

Hai người rồi sẽ bị phe mình giết,  nhưng trong bản nhạc hợp tấu hợp  soạn, họ đã gieo một cái mầm và  xướng lên một tiền đề. Ðể  rồi về cuối, thuộc hai phe sẽ có hai  người trẻ biết sống tự nhiên  nên không màng đến nhãn hiệu chánh  hay tà nữa, nhờ đó có thể  yêu nhau và đồng tái tấu bản Tiếu  ngạo giang hồ xưa.

 

Ðây chỉ là tiểu thuyết, nhưng nguyên  lý nó dựa vào đáng được  ta quan tâm. Càng đáng quan tâm khi mà  ngày nay, người ta đang trở về  với Tự nhiên. Nhân tạo (l’artificiel) đang phá hoại thiên nhiên và môi  sinh một cách trầm trọng, khiến con người  tái nhận ra sự kỳ diệu của trật  tự thiên nhiên, cái trật tự  mà hễ đụng vào, là thấy có  chuyện ngay. Việc của chúng ta không phải  là để thiên nhiên “bao cấp” mãi,  nhưng trong khi biến cải thiên nhiên, luôn  phải tìm hiểu thiên nhiên và uốn  mình theo nó.

 

Trong tu đức, những phản  tác dụng của con đường Duy ý chí

 

Cũng như Duy ý chí trong việc điều  hành kinh tế, không đếm xỉa đến  quy luật tự nhiên của thị thường,  bao giờ cũng đưa đến thất bại,  thì Duy ý chí trong việc luyện đức  tu thân, không mềm uốn theo quy luật tâm  lý tự nhiên, cũng dẫn tới những  hậu quả nghiêm trọng không kém.

 

Phương pháp tu đức xưa có thể  quy về ba chiến thuật căn bản: trốn  chạy, kiềm chế và đương đầu.

Vì sợ tội — nói đúng hơn,  sợ hỏa ngục do tội — và vì một  thứ quan niệm quá pháp lý về tội,  nên người ta dễ quan tọng hóa một  hành vi sai trái đơn lẻ hơn là cả  một khuynh hướng xấu. Nhất là trong  những địa hạt dễ vấp ngã, như  tình dục chả hạn. Bởi thế, chiến  thuật luôn được đề cao là  Chạy trốn.

 

Nhưng nếu chỉ chạy trốn, thì làm sao  có năng đức đây. Năng đức  là thói quen và sức mạnh, nó nói  lên một trạng thái nội tâm, do đó  biệt định con người là tốt và  tốt ở mặt nào. Ðức thẳng  thắn chả hạn, mới làm nên con người  thẳng thắn, chứ không phải một hai  hành vi thẳng thắn. Vâng, yếu tố quyết  định là cây, chứ không phải trái  cây; là tấm lòng, chứ không phải  hành động:

 

— “Con người tốt thì từ kho  tốt của tâm hồn lấy ra những gì  tốt; còn người xấu thì từ  nền tảng xấu của hắn lấy ra những  gì xấu; vì lòng hắn có đầy thì  miệng hắn mới nói ra” (Lc 6,45).

 

Hơn nữa, nếu chỉ lo chạy trốn thì  sẽ sinh tâm trạng hoảng sợ, do đó  ám ảnh. Và thế là “tránh dịp”  quá lại đưa “dịp” đến. Chính  vì chưa luyện đức, do đó chưa  có đức, nên một số tu sĩ ra đời,  hễ gặp cơ hội là cảm thấy yếu  liền, và dễ dàng sa ngã. Chỉ lo tránh  nhiễm độc, họ chưa đạt tới  tình trạng miễn nhiễn. [2].

 

Khoa phân tâm học ngày nay còn tiết  lộ nhiều nguy hiểm chết người, mà  tu luyện cổ xưa không nhìn ra. Riêng tâm  trạng lo trốn chạy chỉ tổ gây ám  ảnh và sinh sợ hoảng (phobie), mà  một trong những kết quả là “bối  rối lương tâm.” Bối rối lương  tâm có thể là ngưỡng cửa  tâm bệnh hay đã thực sự tâm  bệnh. Một thứ ám ảnh khủng khiếp  và dai dẳng do nghi hoặc: đã cố ý  phạm tội hay chưa, ý đã đủ để  thành tội nặng hay không, nhất là xưng  không biết có hết và có thành để  được xóa sổ, v.v.?

 

Người ta cũng quy về bối rối lương  tâm thứ tâm bệnh gọi là ám  ảnh thực hiện và ám ảnh trừu  tượng: sợ có ý tưởng  xúc phạm đến Ðức Maria, và liền  có ý tưởng ngay; sợ nghĩ hay nói  gì nghịch đức tin, và liền bị thúc  bách để làm như thế.

 

* * *

 

Ðối với những cám dỗ về  đức tin và đức tịnh khiết  vốn được coi là rất nguy hiểm,  thì phương thức quen dùng xưa là  chạy. Còn với những cám dỗ khác,  thì thường nghe khuyên là phải trực  diện đương đầu. Thật ra, sự  đương đầu, nhìn thẳng vào địch  mà so gươm với địch, khiến sinh  thái độ dứt khoát. Một khi đã  quen với thái độ dứt khoát ấy,  hễ cám dỗ tái hiện, liền có phản  ứng tức thời, tự động.  Y như khi đã quen vùng dậy khi nghe chuông  báo thức, thì khi chuông vừa báo,  đã thấy mình dậy rồi, dù tưởng  như chưa nghe.

 

Có điều đương đầu nhiều, cứng  gặp cứng sao khỏi gây thương tốn.  Lại nữa, kẻ quen với sắt thép  và máu lửa dễ coi thường mạng  sống và hết bén nhạy tình cảm trước  những đau thương. Cũng thế, một  thái độ thường hằng cứng  do thường hằng đương đầu dễ  làm khô tâm hồn, đanh nét mặt, khó  tương giao, mà hậu quả cuối cùng  sẽ là một cảm giác trống vắng và  cô độc.

 

Nếu với cám dỗ, người ta khuyên  đương đầu, thì với nết xấu  người ta lại khuyên kiềm chế. Thực  ra, kiềm chế và đương đầu cả  hai đều là đánh thẳng, đánh trực  diện. Ðánh theo kiểu Lưu Bị, chứ  không biết dùng mưu như Khổng Minh.

 

Cũng như đương đầu có ích đôi  phen, thì lắm phen cũng cần kiềm chế.  Kiềm chế hay dồn nén, theo Freud, là cách  để thăng hoa. Sở dĩ thăng hoa được,  là vì năng lượng tâm lý là  một, chỉ khác nhau ở đích nhắm  và tính trọc (do địa khí, xác thịt)  hay thanh (do thiên khí, thiêng liêng). Vì  thế, nếu hãm ở chỗ này, thì  có thể chuyển dòng về hướng  khác, do quy luật hoán chuyển (transfert),  chuyển bình diện và chuyển đối tượng.

 

Có điều kiềm chế, tức cấm cản (inhibition) lại là nguôn gốc của nhiều  tật thương tâm lý, từ nửa  điên của névrose đến toàn  điên của psychose.Cho nên hễ dồn  nén khéo và vừa sức, thì góp  vốn cho thăng hoa, bằng như ngược  lại, thì sẽ… Biên hòa, Chợ quán.  Vậy, khi nào có thể, thay vì đối  đầu với xung động mà nén xuống,  ta hãy hướng nó về những gì  thiêng liêng một cách khéo léo, và  đó là con đường Mềm, là kỹ  thuật Judo, dùng sức địch vào công  việc của mình.

 

Ðường Mềm trong Phúc Âm

 

Chiến thuật Nhu đạo, đường mềm  và đi quanh ấy, chính Chúa Giêsu cũng  đề xướng qua biểu hiệu Con rắn:

 

“Hãy khôn khéo như rắn và đơn  sơ như chim câu!”

 

Khôn nhắm chiến thuật, còn đơn nhắm  tinh thần, thái độ. Khôn khéo như  rắn thì phải biết lẩn, lủi, đi quanh,  lúc tiến lúc thoái tùy hoàn cảnh,  tùy thời. Nghĩa là rất mềm dẻo,  uyển chuyển, chứ không cứng nhắc  nguyên tắc, không luôn luôn trực  diện đương đầu. Còn đơn sơ  như chim câu, thì lòng phải trong suốt  và ngay thẳng, không còn bóng tối của  vị kỷ, không còn lá chắn của cố  chấp, khiến cản đường ân sủng  và che khuất sự thật. Tâm hồn đơn  sơ, đó là tâm hồn sẵn sàng cho  ý Chúa, là sáp mềm dưới tác  động Thánh Thần.

 

Ðơn sơ, ở nhiều chỗ khác, được  thi vị hóa bằng con đường trẻ  thơ:

— Nước trời là của những  ai giống như trẻ nhỏ.

— Không tiếp nhận Nước Thiên  Chúa với thái độ trẻ thơ thì  không vô được.

— Nếu không trở về với trạng  thái trẻ thơ thì không vô được  Nước Trời.

— Kẻ nhỏ nhất trong các con, ấy là  kẻ lớn nhất.

 

* * *

 

Con đường Chim câu và Trẻ thơ  đi đôi với Con đường của  Thần khí, với cách hành động  của Ngài.

Cách làm của Thần khí, đó là  cách làm “tùy hứng.” Thần khí  “hứng đâu thổi đấy” mà:  Vì Thần khí không câu nệ, không trói  buộc trong những thành kiến, kuôn khổ,  nguyên tắc, chẳng tùy thuộc bất cứ  gì. Nên không thể nhìn ra đường  đi của Ngài, không biết nó bắt đầu  từ đâu và đi về đâu. Chỉ  vì lý do không thể tìm ra cái gì quyết  định hành tác của Ngài, hành tác  này không bị thúc đẩy bởi bất  cứ lý do nào, trừ lý do ý Chúa  và tình yêu của Chúa.

 

Ðường Thần khí thế, thì đường  những ai sinh từ Thần khí cũng vậy  (Ga 3,8). Họ tự do và thật thong dong, muốn  làm gì thì làm: “Hãy yêu, và  hãy làm điều anh muốn, ama et fac quod  vis,” thánh Augustin nói thế.

 

Hèn gì mà Thần khí được gọi  là Khí (pneuma, spiritus), được sánh  với Gió. Khí và Gió vốn không  hình không sắc, nên đi đâu cũng  được và vào đâu cũng xuôi.  Y như nước vậy. Và thật ra, trong  Tân ước, Thần khí cũng được  “đại diện” bằng nước:

 

— Rửa trong Thần khí và nước.

— Sinh ra từ Thần khí và nước.

— Ai khát hãy đến với tôi mà  uống!…

 

Thần khí ấy, thánh Phaolô mang đối  lập với Luật, tức với khuôn  khổ và hình thức, tóm lại với  “từ ngữ”:

 

— “Từ ngữ thì giết, còn Thần  khí làm sống động” (2Cr 3,6).

— Luật thì trói buộc, còn Thần khí  giải phóng (coi Rm 8, v.v.).

 

Chiến thuật Nước trong luyện  đức: Mềm

 

Sức mạnh của nước là ở  dẻo mềm. Vì mềm dẻo, nên khó bị  tật thương do đụng chạm. Vì mềm  dẻo, nên len lách được, ứng  phó khéo. Nhất là lợi dụng hết  sức địch, sức mình. Như trong Judo  ấy!

Sức, hay năng lượng tâm linh, chỉ  có một thôi, lại có hạn nữa.  Thế mà phải phân chia cho nhiều ham muốn  khác nhau, những xung động tản mát không ích gì cho sự thăng tiến cơ bản của con người. Thậm chí cả  địch — những nội địch, agiống  như virus đã xâm nhập gen của cơ thể  ta — cũng tới đổ xăng ở những  cây xăng của ta để đánh phá  ta.

 

Cho nên, một chiến sỹ thành công không  phải là một chiến sỹ nhắm mắt tấn  công. Mà là kẻ khôn khéo biết tiết  kiệm sức mình và lợi dụng sức người. Và như thế, cần biết người  biết mình và phân biệt thù bạn.  Ðể lợi dụng khí giới kẻ thù  mà phục vụ cho mục đích của mình  thay vì bỏ uổng khí giới ấy. Ðể  tập trung sức vào những mũi nhọn  chiến lược, thay vì gặp đâu đánh  đấy, phí sức đi. Năng lượng  tâm sinh lý hoán chuyển được,  nên phải khéo đào mương dẫn nước.

 

* * *

 

Ðâu là bạn, là thù, là những  virus sống ký gửi trong tâm hệ ta?

 

Nền tảng sức mạnh tâm linh tàng  ẩn trong vô thức. Vô thức này  là chỗ cư trú của nhiều bóng ma  khác nhau: các bản năng, siêu ngã và  những sức mạnh phản hanh thông (anticathexes), những nguyên tiêu và cảm  xạ chưa khám phá nổi…

 

Theo Freud, ở nền tảng của bản năng,  có hai sức chủ yếu: Sinh (erôs) và Hủy (thanatos). Tùy theo sự thống  trị của một trong hai, mà con người và thế giới sẽ thành ác quỷ  hay thiên thần.

 

Bản năng, đó là nguồn gốc thứ  nhất của những xung động. Cách xử  sự không khéo với xung động có  thể làm sinh ra trong vô thức những  lực phản hanh thông, những hệ thống  áp chế mà Freud quy tụ quanh cái tên  Siêu ngã.

 

Xung động từ trong vọt ra, ngoại thế  tự ngoài ép vào, và cái Tôi  tâm lý đứng giữa để dung  hòa hai luồng sức. Nếu cái Tôi yếu  nên dung hòa không nổi, thì va chạm mạnh  có thể sinh một “trauma,” sự  cảm nghiệm đau khổ và đòi hỏi  đau khổ ấy. Những thương tổn do  va chạm còn có thể là mặc cảm.  Ðây là những vùng nhạy cảm và  vùng cấm, mà một từ ngữ hay  ý tưởng dù chỉ liên quan xa xôi  cũng đủ làm rung chuyển tâm hệ, suy mờ ý thức và xáo trộn trí  nhớ, lại còn khiến né tránh sự  thật và làm bậy vô ý thức nữa.  Thương tổn còn là tan vỡ tâm  hệ, do đó một mảnh tách khỏi toàn khối, mà khi bị phóng thể (projection) sẽ khiến những ý tưởng từ  đấy thoát ra, được đương  sự nghe như tiếng nói của một người, một hồn ma nào đó.

 

Mạnh còn hơn thế là những cảm  xạ (affect). Cảm xạ là cái rất  huyền hoặc, tự vô thức (tâp  thể) vọt ra bất ưng để chế ngự  anh hoàn toàn. Nguồn gốc có thể là  những ta-bu nguyên thủy, chúng bật  mồ dậy thành những ảo giác, thành  kiến, đố kị, gây ra niềm lo âu sợ  hoảng, mạnh tới nỗi không thể cưỡng  mà không sinh dồn nén.

 

Thức thì thế, mà ngủ thì có những  giác mơ kỳ dị, những “đại  mộng” (grands rêves), cái bỗng dưng  nổi lên, cũng từ những kinh nghiệm  nguyên thủy, nhưng có chức năng báo  trước những tai họa hay giải đáp  cho những vấn đề có tầm ảnh  hưởng rộng lớn đến loài người  hôm nay.

 

* * *

 

Bộ máy tâm lý phức tạp, tế  vi và dễ tổn thương đến thế,  dễ hơn cả bộ máy sinh lý nữa,  nên không thể làm bừa, làm đại  như quen làm xưa nay, trong cuộc sống nói  chung, trong tu thân nói riêng. Phải thận  trọng và khéo léo, phải uyển chuyển  và nên tránh những xốc cản xúc (choc émotionnel) bao nhiêu có thể. Sử  dụng con đường Mềm bao giờ cũng  an toàn nhứt. Chẳng những an toàn  mà còn rất lợi, nhất là trên  bình diện chiến lược, bởi tránh  được những tiêu hao vô ích,  lại lợi dụng được sức  do xung động cung cấp. Y như cách làm  kinh tế hôm nay: thay vì mặc rác làm  ô nhiễm môi sinh, thì chế rác thành  đồ dùng và năng lượng; thay vì  kệ nước lũ tàn hại nhà cửa,  ruộng đồng, thì ngăn lũ làm điện  và để tưới tẩm, v.v… Chúng  ta có đủ cơ sở làm được  như vậy trong lãnh vực tâm lý. Cơ  sở ấy là khả năng hoán chuyển  và thăng hoa.

 

            Thật ra, thì cả hai, hoán chuyển và thăng  hoa, rất mật thiết với nhau. Ðể thăng  hoa thì phải dồn nén. Nhưng nếu chỉ  dồn nén suông, một cách thụ động,  tiêu cực thôi, thì một là sinh thói  quen “chịu vậy,” hai là chịu không  nổi thì bệnh đến thế chỗ. Chẳng  có gì thăng hoa ở đây cả. Vậy  để có thăng hoa, ít là phải dồn  nén tự nguyện, mà không ai tự  nguyện như thế nếu không vì cái gì  tích cực. Nếu cái tích cực này  không tốt, một ý đồ “nằm gai  nếm mật” để trả thù chả hạn,  thì cũng đâu có thăng hoa. Nghĩa là  để có thăng hoa, tức để có  một cái gì cao hơn vọt ra, một tình  yêu thiêng liêng hay một đức tính  chả hạn, thì minh hay mặc nhiên, đã  phải có ý hướng chuyển hoán,  hoán sang một đối tượng cao quý, chuyển sang một bình diện thiêng liêng  rồi. Ý hoán chuyển càng tích cực,  cách chuyển hoán càng khéo léo, thì  dồn nén càng bớt đi và năng  đức hoàn thành. Giả như dồn nén  chỉ vì muốn hy sinh cho tình yêu, như người  mẹ vì con, kẻ yêu vì người tình,  hay linh hồn vì Chúa, thì mối tình sẽ cao quý, sâu xa, vững mạnh thêm rất  nhiều.

 

Ðể chuyển hoán dễ dàng, phải có  tâm trạng bình tĩnh. Vì cái mà ta  chuyển hướng là sức mạnh của  một khuynh hướng, một xung động. Và thương đây là một cám dỗ, và  cám dỗ này, hễ ta sợ nó, thì  nó dương nanh múa vuốt, ám ảnh ta  hoài. Nhất là khi nó được lồng  vào một bóng quỷ. Nên việc trước  hết phải làm là khử huyyền (démystifier)  cám dỗ, coi thường nó tuy vẫn  lưu tâm đối phó.

 

Phải biết rằng, dù có quỷ ở  đây, thì quỷ cũng phải nương theo  tôi, tức nương theo xung động và  khuynh hướng của tôi để tấn công  tôi. Nó là một virus ký sinh ( parasite) trong gen bản năng, sinh sôi, nảy nở  và công phá bằng chính sức con người.  Vâng, dù Satan hay thế gian cũng chẳng làm gì nổi tôi nếu không có tôi, nghĩa  là nếu không có han muốn và sự  đồng tình của tôi. Nên cái trước  tiên phải quan tâm là con người nội  tâm, với những khuynh hướng bẩm  sinh hay do giáo dục và tình trạng ý  chí. Ðừng để xung động làm  nội gián. Xung động chỉ thành cám  dỗ khi nó kéo xuống và hướng  về thỏa mãn của riêng tôi. Hãy  nghĩ đến Chúa, đến tha nhân và  chuyển hóa xung động theo hướng đó,  và thế là cám dỗ đổi lốt thành  yêu thương được.

 

* * *

 

Một cách cụ thể, chúng ta hãy lấy  xung động tình dục làm thí dụ. Ham  muốn loại này, ở mặt địa khí (chtonien) của nó, hướng ta về  phái khác thay vì về một người  khác phái, về khoái lạc của mình  hơn là của chung hai mình. Vâng, trong cơn  điên nhục dục, người nam chỉ cần  người nữ nói chung (la femme), chứ  không cần người nữ nào đó  nhất định. Bởi thế, hễ sốt thì  phải kìm cho hạ bớt cơn sốt, đồng  thời cố chuyển tình dục sang tình  cảm (yêu thương) bằng cách hướng  lòng về chủ thể đối diện và  quan tâm đến họ. Ham muốn ở mặt  địa khí cũng nặng về hủy lực (thanatos), nên phải hãm bớt sự  tấn công vốn thuộc thanatos, và tăng  thêm erôs bằng những lời và  cử chỉ dịu dàng.

 

Một khi đã chuyển được tình  dục sang tình cảm, thì ta có thể thiêng  liêng hóa tình cảm ấy. Bằng cách  yêu người đối diện trong Chúa.  Bằng cách hướng tình cảm xa hơn,  về phía Chúa Giêsu hay Ðức Mẹ.  Thậm chí bạn có thể nhìn người  khác phái kia như một người con em  thiêng liêng mà bạn phải giúp đỡ,  và lập tức tình yêu chiếm đoạt  sẽ nhường chỗ cho những tình cảm  vị tha.

 

Ðể đối phó với cơn cám dỗ  nhục dục, con đường Mềm còn là  thái độ phớt lờ, kệ cho nó  đến thì nó sẽ đi luôn, y như đụng  nhằm cao su vậy. Và đây là kỹ thuật  thư giãn tâm trí (với sự trợ  lực của thư giãn thể lý: hơi  thở nhẹ đều, cơ bắp lỏng ra):  chẳng để ý chi, cũng chẳng thiết  gì. Ðúng là làm như Nước:  kệ cho tấn công thì không có phản  chấn, nên chẳng có tổn thương.

 

* * *

 

Nói về “nhu đạo,” sau đây là  một hai thí dụ khác rút từ cuộc  đời Tiên sa nhỏ (Thérèse de l’Enfant  Jésus):

 

Ăn ngon, thì ai mà chả thích ăn ngon,  dù thánh nhân cũng thế. Thay vì mím  môi trợn mắt trước thức ăn  ngon khi cần đến nó, Tiên sa chỉ việc…  ăn đại, nhưng bằng tâm tưởng,  món ăn mạnh thì “dâng” cho thánh  Giuse, món ăn thanh dâng cho Ðức Mẹ,  món ăn nhẹ cho cậu bé Giêsu, còn  nếu món không ngon, thì: À đây là  phần mình!

 

Thấy mình trong trắng, thay vì gạt bỏ  ý nghĩ đó để khỏi kiêu, Tiên  sa lại dùng nó để yêu và khiêm  nhường: Không phải vì tôi khỏe,  nhưng vì tôi yếu bé nên Chúa đã  thương mà lấy trước đi những  chướng ngại vật trên đường!

 

Giả như có tội lỗi, Tiên sa vẫn  “vụng chèo khéo chống” được,  để vững lòng tin tưởng: Chúa  công minh, nghĩa là Chúa đếm xỉa đến  sự yếu đuối do bản chất của  tôi!

 

Trong cùng chiến thuật của Tiên sa, tôi  sẽ lợi dụng tội lỗi mình đển  nhìn ra độ thấp của tôi trước  độ cao của Chúa, không phải để  giận thân hay chạy trốn Chúa, nhưng để,  dưới thung lũng của thân phận mình,  tôi dễ gặp Chúa trong tiếc nuối và  tin tưởng. Và khi ấy, thung lũng đã  thành “thung lũng phì nhiêu,” và tội  lỗi thành “Phước thay cái tội”  (felix culpa)!

 

Chiến thuật Nước để  tu thân: Thấp

 

Theo Lão tử, chính vì Thiện hạ (thích  chỗ thấp) mà nước thành Bách  cốc vương. Quả hợp với nhận  định và lời khuyên của Tiên sa  Nhỏ: “Ði xuống thung lũng phì nhiêu  của mình.” Chính khi hạ mình, ta dễ  dàng gặp Chúa. Chúa đợi ta ở  chỗ vô cùng thấp “Thung lũng” của  ta đó. Ai đã giàu kinh nghiệm thiêng  liêng hẳn thấy rõ như vậy.

 

Con đường thấp đúng là đại  lộ Tin mừng, nó mang tấm biển đường BÉ THƠ. Không coi mình Ðáng gì,  đây là một trong hai ba mặt của con đường ấy. Không coi mình Ðáng kể, bé chỉ  kể má ba là Ðáng thôi. Nên bé  mặc trao tùy ba má. Bé uốn theo ba má  trọn vẹn.

 

Vét rỗng cái tôi và uốn theo là  bản chất đấng Con Trời trước  hết:

 

– Má Ta và anh chị em Ta là kẻ thi hành  ý Cha Ta!

— Hãy thưa:… Xin ý Cha thành sự  thật, dưới đất cũng như trên  Trời!

 

Trên Tời ư? Ở đó mọi ý  thành một với ý Cha. Mà Trời  là Ðức Giêsu ấy. Chúa Giêsu  chẳng là Cung điệm duy nhất của Cha,  nơi duy nhất Cha tiếp đón chúng ta đó  sao? Con người Chúa Giêsu, từ căn  bản của mình, uốn theo từng nét vẻ  mặt Cha: “Ai thấy Ta là thấy Ðấng  sai Ta.” Và uốn theo từng nét ý Cha:  “Thức ăn của Ta là thi hành ý  Ðấng sai Ta.”

 

Nếu con người Chúa, do bản chất,  là hiện thể của ý Cha, thì do đặc  ân và vị thế Mẹ Chúa, đức  Maria cũng nhu mì y như vậy:

 

— Má Ta… là kẻ thi hành ý Cha Ta!

— Này đây tôi là tỳ nữ Thiên  Chúa !

— Phúc cho nàng vì đã tin!

 

Tin, đó là xuống đúng chỗ thấp  nhất của mình (tôi là nữ tỳ  Thiên Chúa) để quy thuận Thiên Chúa  (như Abraham đã vâng phục đến cùng,  do đó thành cha của những kẻ tin).

 

Ðạp đổ ngai vàng cái tôi để  Thiện hạ, và Thiện hạ để thi hành  ý Chủ, đó là ý nghĩa của khiêm  nhường Kitô-giáo. Giống như Nước,  không còn Mặc cảm cái Tôi (complexe  du Moi, theo Jung), nên không có hình dạng  riêng của mình, nhờ đó dễ vào  mọi khuôn ý Chúa. Không thể có  tùng thuận đúng nghĩa nếu thiếu khiêm  nhường. Và khiêm nhường cũng  chỉ đủ độ sâu khi nghiêng về  Tùng thuận.

 

Thật ra, thì khiêm nhường đâu  phải là dưới phận, và tùng thuận  đâu phải là cúng dâng thêm. Mà  chỉ là nhìn nhận cái koảng cách vô  biên giữa tôi với Thiên Chúa.  Ðứng trước Ðấng vô cùng  cao không bao giờ tôi thấp đủ. Ðứng  trước Ðấng là Thượng Chúa  không bao giờ tùng phục quá được.  Trước Ngài, thái độ duy nhất  có thể là thái độ Bé thơ, hay,  như Vivekânanđa nói: Ðứng trước  Thiên Chúa, không có đàn ông, chỉ  có đàn bà!

 

Nếu hiểu thái độ đúng đàn  bà là ôn nhu, thì người phụ nữ  lý tưởng phải là Ðức Mẹ:

 

— Này đây tôi là tỳ nữ Chúa.

— Phúc cho nàng vì đã tin.

— Mẹ Ta là kẻ thi hành ý Cha Ta.

 

Vậy để làm “đàn bà” và  “gà mái,” ta hãy đứng vào  chỗ của Mẹ, và như Mẹ, thi hành  đúng chức năng “tỳ nữ”  của mình.

 

Ngày xưa, người ta “Trời-hóa”  Ðức Mẹ. Nay phản ứng lại, người  ta muốn xa lìa Ngài. Sống đạo thì  phải có tình có lý. Ðạo hợp  lý là đạo đúng hướng thần  học. Nên thỉnh thoảng phải dùng cái  Lý của thần học mà tra vấn cái  Tình của những sùng bái tự phát  tự sinh. Theo lý, thì nếu Ðức Mẹ có địa vị và vai trò gì, thì  cũng là trong liên đới với Chúa  Kitô. Chúa là môi giới duy nhất,  và mọi sùng kính phải lấy Ngài làm  cùng đích, khiến cho Tất cả vì Ðức  Kitô, để Ðức Kitô vì Thiên  phụ.

 

Nhưng nếu Ðức Kitô là Môi giới  viết hoa, thì trong Giáo hội hết thảy  chúng ta lại cùng làm môi giới với  Ngài, do đó có thể nhờ vả, nương  cậy lẫn nhau trên đường hành  hương về Ðất hứa. Ðức  Mẹ là Cùng làm môi giới theo một  ý nghĩa đặc biệt và môi giới  cho tất cả. Nên đến với Ngài  cũng là mặc nhiên đến với Ðức  Kitô. Có điều, như ai có kinh nghiệm  sẽ thấy, hễ đến với Mẹ, ta dễ  thấy mình bé nhỏ và có thái độ  đơn sơ. Bằng như lý quá, thì dễ  phồng lên như trái banh và bắt gặp  cái Tôi của mình. Thế mà để  đến với Chúa, thì ta phải có  thái độ Bé thơ và Tỳ nữ.

 

Nước trong lối sống: Tùy

 

Mềm đến hết mức và trơn trượt  hoàn toàn, nước không có dạng  hình nào, nên vừa khớp mọi khuôn.  Không gì ngăn nổi nước, không  gì ràng buộc được nước.  Nước thành mọi dạng, nhưng nước  không hề biến dạng, mà vẫn nguyên  vẹn là mình. Chỉ cần giữ cái  cốt yếu, chứ không câu nệ tiểu  tiết, nên nước dung hợp được  với tất cả, và với tất cả  luôn trong tư thế sẵn sàng để:

 

— Ðáo giang tùy khúc, nhập gia tùy  tục.

— Ở bầu thì tròn, ở ống thì  dài.

 

Vâng, phương châm hành động của  nước là Tùy. Tùy là cách dùng  binh thiên biến vạn hóa của những  bậc thầy như Gia cát Khổng Minh. Tùy  vì tuy cùng trường hợp, nhưng mỗi  ca mỗi khác, khác do hoàn cảnh, con người,  khác do địa thế hay thời thế.

 

Dụng binh phải thế, thì ở các dịa  hạt khác cũng vậy, sống đạo cũng  vậy luôn. Không đổi được  mình thì không dễ uốn mình để  ứng phó được. Ðể ứng  phó được theo Tùy, thì phải biết  nhiều, khéo tính và dám đổi. Ðổi  bắt đầu từ chính mình ấy.

 

Với kẻ nhiều ham muốn, hắn giống  như ngựa bất kham, không thể trị mình  nếu không khép mình vào kỷ luật.  Kỷ luật phải chặt, nhưng lại đừng cứng nhắc. Vụ luật quá, thì luật  sẽ trói, khiến không thể bay. Trong kỷ  luật, hãy nhắm cái mà kỷ luật nhắm,  tức tinh thần, chứ đừng nệ  hình thức. Thánh Augustin nói: Người  Kitô-hữu không phải không luật lệ,  nhưng anh không ở dưới luật lệ!

 

Khi nhờ luật mà đức đã vưng  vững rồi, thì phải bớt dần hình  thức để giải phóng tinh thần. Theo  Gioan Thánh giá, dù con chim chỉ buộc bằng  sợi chỉ cũng không bay bổng được.  Vâng, dù đây là sợi chỉ mảnh  mai, một điều tiểu tiết, một thời  khắc chỉ định, một cử chỉ đã  quen, một nếp sống dù là của nhà  tu…

Cũng chính Gioan Thánh giá, ở bìa  tác phẩm Leo Núi Cácmen, đã vẽ con  đường dốc với sáu mốc chữ  Vô. Sáu chữ Vô ấy dẫn thẳng  tới đỉnh của Hôn nhân thiêng  liêng đó. Con đường thiêng liêng  quả là con đừng Từ bỏ. Tận  cùng của từ bỏ phải là bỏ chính  sự từ bỏ. Nghĩa là không còn vấn vương chi, ngoài cái chính yếu:  Thiên Chúa. Mà đã chạm tới đúng  Thiên Chúa, thì chẳng còn vướng  chi cả. Dù là vướng chính Thiên  Chúa, như Tiên sa Nhỏ sẵn sàng rời  Thiên Chúa đến giảng về Thiên Chúa  cho các thành viên của địa ngục.

 

Vả lại, từ bỏ hết là buông  mình vào vực thẳm Thánh Thần. Mà  Thánh Thần thì bản chất phóng khoáng,  hứng đâu thổi đây, không gì  ngăn nổi, không gì ép buộc.

 

Không còn khô cứng trong khuôn thước  nữa, tôi có thể ứng biến thích  hợp tùy người, tùy vật, tùy  hoàn cảnh, nhất là tùy ân và ý  Chúa. Không phải cứ thấy thích thì  làm, thấy xung quanh làm thì làm theo. Dù  làm theo cái thích và cái quen của mình  hay của người đều là buông xuôi,  là thiếu tự do cả. Buông xuôi, vào  khuôn, lặp lại, đó là sự quán  tĩnh của vật chất, sự ù lỳ của  xác thịt.

 

Khuôn ép, đó là dư luận, thói  quen, thành kiến. Dư luận có nội gián  là sự lười biếng và hèn  nhát của tôi. Thói quen và thành kiến  là do quy luật Lặp lại (répétition) của vật chất và xác thịt tạo thành.  Thắng được những kẻ thù trên,  tự do phải đối đầu với kẻ  thù sâu ẩn nhất, cũng là linh hoạt nhất: cái Tôi và Mặc cảm cái Tôi.  Mặc cảm cái Tôi là điểm đồng  quy của gần như mọi mặc cảm. Cái  gọi là ý riêng  (volonté propre) là  con đẻ của nó, nên hễ phá được  nó, thì ý riêng cũng chết luôn.

 

Muốn thoát khỏi sự khống chế của  cái Tôi, ngoài những “bỏ ý riêng”  lặt vặt ra, thiết tưởng phải đến  cầu cứu ở tình yêu, tình Chúa  và tình người, để cái Chúng  tôi hình thành do đó sẽ hoá giải  cái Tôi cô độc và ích kỷ. Quả  thật, chỉ nhờ tình yêu mới ra  khỏi thế giới hạn hẹp của cái  Tôi. Và chỉ ân sủng Chúa mới  sinh được một tình yêu thuần khiết.

 

Con đường Mềm và cái  nhìn Âm dương

 

Ðể có sự uyển chuyển, nên học  quen với cái nhìn Âm dương.

 

Âm dương tuy nghịch nhau, nhưng lại dung  hợp được với nhau. Và ta dễ  chấp nhận những gì mình không quen  nhìn, nghe, hay cảm, nghĩ, lại còn lợi  dụng được chúng để tìm ra  ánh sáng và tổng hợp mới từ  những mới cũ giao nhau.

 

Âm dương tuy nghịch nhau, nhưng lại tìm  nhau như những bù trừ không thể  thiếu. Và ta dễ sống với những  con người khác mình, lại cố dung hòa  khuynh hướng của mình với một  cái nghịch chiều đối xứng, hầu  chúng mài trơn cho nhau những chỗ su si,  sắc cạnh. Ðứng thế, thẳng thắn suông thì sinh tàn nhẫn, hiền từ  suông thì dễ nhu nhược. Nhưng nếu  hai đức giao nhau, chúng sẽ hoàn thiện  lẫn nhau.

 

Âm dương tuy phân đấy, nhưng lắm  khi bằng một phân biệt rất tương  đối. A sáng hơn B ư, ta thấy B là  tối; nhưng trước một điểm tối  hơn, thì B lại sáng lên. Nên phân  định âm dương cũng là một phân  định uyển chuyển, không tuyệt đối  hoàn toàn. Trước cái nhìn ấy,  không một người, vật, sự việc  gì là xấu hay tốt hẳn; cũng không  một lối sống nào là lỗi thời  hay hợp thời mọi mặt…

 

Âm dương tuy phân, nhưng đường  phân không sắc nét, như giữa sáng  và tối ấy. Và nhận định âm dương  sẽ càng uyển chuyển thêm. Chân lý đức tin tuy là một, nhưng khám phá  chân lý thì mỗi thời mỗi khác,  mỗi văn hóa mỗi đổi thay. Sống đạo  tuy là đồng hóa với Chúa nhập  thể, chịu chết và phục sinh đấy,  nhưng mỗi người nhấn mạnh hơn  vào một trong ba mầu nhiệm, và nhấn  với sức ấn khác nhau, chứ không  nhất định chỉ xuất thế hay nhập thế  mới là đúng, và đúng cho hết  mọi người trong cụ thể.

 

TÓM LẠI

 

Lấy cứng chọi cứng thì dễ bị  tổn thương. Ðứng về mặt tâm  lý, điều ấy càng rất rõ, nhất  là với những khám phá ngày nay  về tầm quan trọng của vô thức. Vì  thế, không nên Duy ý chí (volontarisme)  trong tu thân, mà hãy đi vào con đường  Mềm của nước.

 

Không gì mềm bằng nước, hễ địch  lấn thì nước lui, hễ địch lùi  thì nước tiến, mà nước chẳng  thất bại hay tổn hại chi cả. Mà cũng  chẳng ai tranh đua với nước làm  gì, vì nước có kiêu căng, háo  thắng đâu, nước luôn luôn tìm  chỗ thấp mà. Nước cũng không  bám vào hình thức nào, nên nước dễ biến tùy hoàn cảnh, miễn là  bản chất nước không đổi.

 

Chính Chúa Giêsu cũng dạy vững chắc  chính mình: “đơn sơ như chim câu,”  nhưng mềm dẻo trong đường lối:  “khôn như con rắn.” Người ta dễ cứng nhắc khi vụ vào tiểu tiết và  hình thức, nhưng sẽ thoáng hơn khi  chú trọng đến cái chính yếu và  tinh thần. Con đường khoáng đạt  ấy cũng là Luật Thần khí, như Phaolô  diễn tả.

 

Vậy, trong chiến đấu thiêng liêng, ta  hãy Mềm, nghĩa là khéo luồn lách,  biết tiết kiệm sức mình và lợi  dựng sức địch. Lợi dụng sức  địch khi hoán chuyển xung động, biến  cám dỗ thành tình cảm lành thánh.

Và hãy Thấp, nghĩa là vét rỗng cái  Tôi để hạ mình và uốn mình theo  ý chúa. Khiêm nhu và tin tưởng, tôi  sẽ có sức Chúa làm sức mạnh  của tôi.

 

Ðồng thời sống chữ Tùy, nghiã  là tùy thời, tùy hoàn cảnh mà  đổi thay ở hình thức và đường  lối.

Hoành Sơn [1]
[HTTH SỐ 11, NĂM THỨ TƯ (1994)]

 


 [1] Tác giả là học  giả chuyên nghiên cứu về các luồng  tư tưởng Phương Ðông. Ðây  là bài viết trích từ chương 6,  tt 113-136, trong bộ THẦN HỌC THIÊNG LIÊNG biên soạn sắp xong của tác giả.
[2] Phòng bệnh  bằng cách đưa mầm bệnh vào cơ  thể để luyện cho bạch huyết cầu  quen chống đỡ, là một việc làm  rất táo bạo của Pasteur, nhưng hiệu quả  lại thật kỳ diệu. Dĩ nhiên khi còn  yếu, thì phải tạm tránh cám dỗ để  luyện đức dần dần.