Các thông tin của Ngày Giới Trẻ Thế Giới phần lớn chú trọng tới các bài diễn văn của các giới chức cầm quyền và Giáo Hội, ít cho phổ biến nội dung các bài giáo lý, vốn được coi như cột sống của biến cố này. May mắn lắm mới được đọc nội dung toàn diện của một trong mấy trăm bài giáo lý của Đại Hội.
Sau đây là nội dung bài giáo lý do các nhà khoa học trình bầy tại Nhà Thờ Thánh Phaolô Trở Lại ở Krakow, được trang mạng lifesitenews.com phổ biến ngày 2 tháng Tám. Người giới thiệu là Hugh Owen, Giám Đốc Trung Tâm Kolbe Nghiên Cứu Tạo Dựng, và diễn giả là Tiến Sĩ Vật Lý Thomas Seiler, của Đại Học Kỹ Thuật Munich.
Hugh Owen
Kính Thưa Đức Cha, Quí Cha, các sư huynh và nữ tu, anh chị em, các em trai và các em gái trong Chúa Kitô, Thiên Chúa là người Cha yêu thương, Người là chính Lòng Thương Xót. Vì vậy, Người luôn dạy chúng ta một cách rõ ràng những điều chúng ta cần biết cho hạnh phúc của chúng ta ở đây trên trái đất và trong cõi đời đời. Người không làm chúng ta lẫn lộn. Thực thế, Người dạy chúng ta, qua những lời linh hứng, vô ngộ của Kinh Thánh, rằng “Người KHÔNG là Tác giả của sự lẫn lộn”. Người là Cha của Lòng Thương Xót, Đấng RÕ RÀNG công bố sự thật để cứu chúng ta khỏi cha của dối trá, khỏi tội và khỏi chết. Và để chúng ta sẽ không bao giờ còn nghi ngờ về những chân lý cơ bản, các tín điều của Đức Tin Công Giáo, Thiên Chúa đã chỉ định Đức Thánh Cha và các Giám Mục làm người bảo vệ kho tàng đức tin đã được truyền lại từ các tông đồ, để tất cả những gì được giảng dạy bởi các tông đồ và được xác định bởi các vị kế nhiệm các ngài qua các thế kỷ, sẽ luôn luôn được duy trì ở hình thức nguyên thủy của nó, mà không có bất cứ sửa đổi làm sai lầm hoặc lệch lạc nào. Đó là Lòng Chúa Thương Xót trong hành động.
Tuy nhiên, ngày nay, thưa các anh chị em bạn trẻ của tôi, hiện có sự lẫn lộn lớn lao nơi nhiều người Công Giáo, đặc biệt là về vấn đề làm một người đàn ông hoặc một người đàn bà có nghĩa gì, và về kế hoạch không thay đổi của Thiên Chúa dành cho hôn nhân thánh thiện và gia đình. Thiên Chúa không phải là tác giả của sự lẫn lộn này. Và không một người nào nghiên cứu và tuân theo giáo huấn của Người về vấn đề này, như đã được truyền lại từ các tông đồ, sẽ không bao giờ bị lẫn lộn.
Vậy đâu là giáo huấn xinh đẹp này về người đàn ông và người đàn bà, về hôn nhân thánh thiện và về gia đình đã được truyền lại bởi tất cả các Tông Đồ, các giáo phụ, các tiến sĩ Hội Thánh, các vị giáo hoàng và nghị phụ công đồng trong lời giảng dạy có thẩm quyền của các vị?
Giáo huấn ấy rất đơn giản và rất rõ ràng.
Nó như thế này “Từ ban đầu, Thiên Chúa đã dựng nên MỘT người đàn ông cho MỘT người đàn bà SUỐT ĐỜI”.
Đồng nghiệp khoa học của tôi, Tiến Sĩ Thomas Seiler và tôi ở đây để tuyên bố rằng nền thần học đúng đắn, nền triết lý đúng đắn, và nền khoa học tự nhiên đúng đắn TẤT CẢ đều xác nhận sự mạc khải tuyệt đẹp này từ Thiên Chúa rằng ngay từ nguyên thủy, Người đã dựng nên cơ thể của Ađam từ các yếu tố vật chất của trái đất và cùng một lúc, đã dựng nên linh hồn ông như mô thức của cơ thể; rồi Người dựng nên EVÀ cho Ađam từ Ađam; và đặt họ làm đức vua và hoàng hậu của toàn bộ vũ trụ, một vũ trụ hoàn toàn thoát khỏi không những cái chết cho con người mà còn thoát khỏi bất cứ loại dị tật hoặc bệnh tật nào.
Gần 150 năm trước đây, khi những kẻ thù của Giáo Hội phát động cuộc chiến lúc đó chống lại hôn nhân thánh thiện và gia đình bằng cách cố gắng hợp pháp hóa ly dị ở các nước Công Giáo, nơi nó bị luật pháp cấm đoán, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã viết trọn một thông điệp về hôn nhân thánh thiện. Trong thông điệp này, Đức Giáo Hoàng Lêô chỉ thị cho các giám mục trên toàn thế giới bảo vệ hôn nhân thánh thiện trên nền tảng này. Ngài viết và các bạn hãy lắng nghe cẩn thận:
Chúng ta nhớ lại những gì mọi người đã biết và không ai có thể bác bỏ rằng Thiên Chúa vào ngày thứ sáu của sáng thế đã tạo ra Ađam từ bụi đất và thở vào ông hơi thở sự sống, đã cho ông một người bạn đường mà Người đã tạo nên từ cạnh sườn ông một cách kỳ diệu trong khi ông đang thiếp ngủ.
Ngày nay, Đức Giáo Hoàng chắc chắn rất đúng khi chỉ thị cho các giám mục cách trên – vì nếu mỗi người trẻ Công Giáo trên thế giới đều được dạy rằng từ nguyên thủy, Thiên Chúa đã tạo dựng một người đàn ông cho một người đàn bà suốt đời, thì họ sẽ không thể lẫn lộn đối với giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân thánh thiện, ly dị, tránh thai, và đạo đức tình dục! Khi Chúa tạo ra Evà, người đàn bà đầu tiên, cho người đàn ông đầu tiên, Ađam, bằng cách tạo ra cơ thể của Evà từ cơ thể của Ađam, Người cho chúng ta thấy RÕ RÀNG rằng sự kết hợp của người đàn ông và người đàn bà trong hôn nhân thánh thiện không phải là một điều phát xuất từ động vật; nó là một điều được ban xuống từ Trời. Và, do đó, bất cứ việc sử dụng hồng phúc thân mật tình dục nào ngoài cuộc hôn nhân thánh thiện giữa một người nam và một người nữ cam kết với nhau suốt đời không những là một tội lớn nhưng còn là một sự phạm thánh – bởi vì nó tước đi một hồng phúc mà Thiên Chúa đã chuyên biệt tạo ra cho người đàn ông và người đàn bà trong một sự kết hợp vĩnh viễn, thánh thiện, độc chiếm và ban sự sống, và mạo phạm nó.
Đó là lý do tại sao khi Chúa Giêsu được hỏi về việc ly dị, Người đã trả lời RÕ RÀNG, “Từ khởi đầu việc tạo thế, Thiên Chúa đã dựng nên người nam và người nữ… “. Còn về ly dị, Người nói với người Pharisêu,”Ngay từ khởi đầu, đã không phải như vậy… “.
Bây giờ, thưa anh chị em bạn trẻ của tôi, tại sao học thuyết đẹp đẽ này mà vị Đại Diện Chúa Kitô trên trái đất nói “được mọi người biết và không ai có thể bác bỏ” ngày nay lại chỉ được một số ít trong thế hệ của các bạn biết đến và bị quá nhiều giáo sư của các bạn bác bỏ đến thế?
Tôi nghĩ rằng tất cả các bạn đều biết câu trả lời.
Lý do tại sao nhiều người Công Giáo trẻ không nghe thấy giáo huấn Công Giáo đẹp đẽ này về việc tạo ra Ađam và Evà là bởi vì người ta nói với chúng ta rằng “khoa học” – họ muốn nói khoa học tự nhiên và vật lý – đã chứng minh rằng các cơ thể của con người đầu tiên biến hóa từ các vi khuẩn cả hàng trăm triệu năm qua đột biến và chọn lọc tự nhiên. Và, vì vậy, chúng ta được cho biết, tất cả những gì các Giáo Phụ, các tiến sĩ Hội Thánh, các vị giáo hoàng và các nghị phụ công đồng giảng dạy một cách có thẩm quyền về điều gọi là Lịch sử thánh thiêng trong Sách Sáng Thế – thực ra chỉ là một huyền thoại.
Nhưng có đúng như thế hay không?
Có phải Thiên Chúa cho phép Giáo Hội của Người giảng dạy một trình thuật hoàn toàn sai lầm về nguồn gốc của con người và vũ trụ trong gần hai ngàn năm chỉ để soi sáng Giáo Hội qua các suy đoán hoang tưởng của những người đàn ông vô thần như Charles Lyell, Charles Darwin, và T.H. Huxley, những người chuyên thù ghét Giáo Hội và muốn tiêu diệt Giáo Hội?
Đến lúc này, tôi xin giới thiệu một nhà khoa học tự nhiên Công Giáo, người đã dành phần lớn cuộc đời nghiên cứu các bằng chứng khoa học bênh và chống lại giả thuyết cho rằng các phân tử biến thành cơ thể con người qua hàng tỉ năm là cùng một loại của các diễn trình tự nhiên hiện đang tiếp tục diễn ra – Đó là Tiến sĩ Thomas Seiler. Tiến sĩ Seiler có bằng tiến sĩ Vật lý, Đại học Kỹ thuật Munich, Đức. Ông đã giảng dạy tại các trường đại học Công Giáo, chủng viện, trường học và các giáo xứ trên toàn thế giới, để chứng minh rằng tất cả các bằng chứng khoa học tự nhiên đều hài hòa với giáo huấn Công Giáo truyền thống, một giáo huấn dạy rằng mọi hữu thể nhân bản trên trái đất ngày nay là hậu duệ của một người đàn ông và một người đàn bà từng được tạo ra trong một trạng thái hoàn thiện về di truyền khoảng non mười ngàn năm trước đây, y hệt như chúng ta được dạy trong lịch sử thánh thiêng của Sách Sáng Thế. Đây, Tiến sĩ Seiler!
Tiến sĩ Thomas Seiler:
Hầu hết các bạn có thể đã nghe lời tuyên bố cho rằng khỉ tinh tinh (chimpanzees) và con người có chung tới 99% gen. Tuy nhiên, điều các bạn thường không được nghe nói là kết quả này không dựa trên so sánh toàn bộ DNA của con người và khỉ tinh tinh nhưng chỉ dựa trên so sánh một phần rất nhỏ mà thôi (khoảng 3%). Chức năng của 97% còn lại kia của mã di truyền không được hiểu rõ. Vì vậy, người ta đã kết luận rằng DNA này không có chức năng nào cả và nó được coi như “rác còn sót lại của thuyết biến hóa” và không được xem xét để so sánh giữa con người và khỉ. Trong khi đó, đối với hầu như toàn diện bộ DNA, di truyền học hiện đại đã chứng minh rằng hiện có chức năng tính trong mỗi chữ của bộ di truyền. Và điều này đã dẫn đến sự sụp đổ của sự khẳng định cho rằng con người và khỉ tinh tinh có chung tới 99% DNA.
Do đó, năm 2007, các tạp chí khoa học hàng đầu đã gọi sự khác nhau, được gợi ý là 1%, thực ra chỉ là “một huyền thoại.” Và từ một bài được đăng trên tạp chí Nature năm 2010 nhằm so sánh các gen của điều gọi là nhiễm sắc thể Y (Y-chromosome) của chúng ta với nhiễm sắc thể Y của khỉ tinh tinh, bây giờ chúng ta biết rằng 60% nhiễm sắc thể Y của con người không có nơi khỉ tinh tinh. Điều này tượng trưng cho một dị biệt tới một tỷ chữ di truyền, thường được gọi là hợp chấtnucleotides.
Và di truyền học hiện đại gần đây đã thực hiện một khám phá quan trọng khác rất bất ngờ. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tất cả các nhóm người khác nhau trên trái đất, bất cứ họ sinh sống ở đâu và trông như thế nào, đều có chung tới 99,9% gen của họ. Điều này dẫn đến một vấn nạn cho giả thuyết biến hóa bởi vì nếu con người thực sự là hậu duệ từ loài khỉ, thì làm thế nào chúng ta chỉ có chung 40% nhiễm sắc thể Y với loài khỉ, nhưng, cùng lúc đó, gần như có một sự đồng nhất hoàn toàn về mã di truyền giữa tất cả mọi con người? Nếu có sự biến hóa từ khỉ sang người, thì sự biến hóa này hẳn phải tiếp diễn nơi con người và cho thấy các dị biệt đáng kể trong mã di truyền chứ. Do đó, các khám phá mới đây quyết liệt mở rộng khoảng cách giữa con người và động vật. Và, trên thực tế, chúng xác nhận rằng không hề có những điều như “chủng” (races) người. Người châu Á, châu Âu, châu Phi và người dân bản địa từ Mỹ và Úc chỉ khác nhau bề ngoài mà thôi, như màu da hay hình dáng mũi nhưng họ cực kỳ tương tự về bình diện mã di truyền.
Và những phát hiện mang tính đột phá gần đây thậm chí còn đi xa hơn nữa. Ngày nay, vì sự cực kỳ giống nhau về hệ gen của con người, giữa các nhà di truyền học, đã có sự kiện vững chãi này: mọi con người hiện đang sống trên trái đất đều có nguồn gốc từ một người đàn ông duy nhất và từ một người đàn bà duy nhất. Để tự thuyết phục mình về điều này, các bạn chỉ cần tìm trên liên mạng các thuật ngữ “mitochondrial Eve” (ti lạp thể Evà) hoặc “Y-chromosome Adam” (Nhiễm sắc thể Y Ađam). Các tên này đã được các nhà duy biến hóa đặt ra với một ý nghĩa nghịch lý nhưng bây giờ nhiều người hối tiếc sự lựa chọn các tên này vì sự phát hiện này hoàn toàn xác nhận Giáo Lý Công Giáo về Sáng thế, từng được giảng dậy cả 2000 năm nay rằng: mọi người đều là anh chị em hậu duệ của một cặp vợ chồng duy nhất, những con người lịch sử có thực là Ađam và Evà, chứ không phải từ các loài linh trưởng hạ nhân (subhuman primates).
Một lĩnh vực nghiên cứu liên quan tới biến hóa phôi thai học. Nhà sinh vật học Ernst Haeckel đề xuất điều gọi là “Luật sinh học di truyền” (Biogenetic Law), theo đó sự phát triển phôi thai của động vật có xương sống lặp đi lặp lại lịch sử được giả định về sự biến hóa của chúng từ tổ tiên đơn bào. Điều này đã được Julian Huxley phát biểu như sau: “Phôi thai học cho chúng ta những bằng chứng nổi bật nhất của sự biến hóa. Nhiều loài động vật cực kỳ khác nhau lúc đã lớn nhưng lúc còn là phôi thai, rất khó thấy sự khác nhau. Chính các bạn, lúc còn là các phôi thai nhỏ, rất giống như các phôi thai của loài thằn lằn, thỏ, gà, nhám gai, và các con vật có xương sống khác. Lời giải thích duy nhất hợp lý là loài có xương sống chúng ta đều có liên hệ chung một dòng dõi”. Tuy nhiên, ngoài sai lầm về luận lý học khi từ sự tương tự mà kết luận có chung một dòng dõi, “bằng chứng” của luật được đề xuất này chỉ nhờ ở các bản vẽ khéo léo của Haeckel về các phôi thai thuộc các động vật khác nhau và con người.
Sau 120 năm, nhà phôi thai học người Anh Michael Richardson sử dụng kính hiển vi hiện đại và khảo sát các phôi thai người và các động vật khác nhau ở cùng giai đoạn phát triển. Công trình của ông đã được đăng tải trên các tư liệu khoa học và ông tóm tắt ý nghĩa các bản vẽ gây ảnh hưởng của Haeckel trong một cuộc phỏng vấn của báo Times ở London năm 1997: “Đây là một trong những trường hợp tồi tệ nhất của gian lận khoa học. Quả là ngỡ ngàng khi thấy rằng một ai đó được người ta nghĩ là một nhà khoa học vĩ đại đã cố tình tạo hiểu lầm. … Điều ông ta [Haeckel] làm là lấy một phôi thai người và sao chép nó, giả vờ cho rằng con kỳ nhông và con heo và tất cả các con khác trông giống nhau ở cùng một giai đoạn phát triển. Chúng không … Đúng là giả mạo “.
Một lĩnh vực nghiên cứu nữa có liên quan đến nguồn gốc là giải phẫu học. Nếu biến hóa là đúng, chúng ta hẳn sẽ tìm thấy nhiều vết tích kết cấu hữu cơ được sản sinh trong quá trình lịch sử biến hóa. Nhà giải phẫu học Robert Wiedersheim trình bày khoảng một trăm bộ phận “sơ đẳng” hay “để lại vết tích” trong cơ thể người, các bộ phận có chức năng giảm thiểu hoặc không có chức năng nào cả vì chúng là những bộ phận bỏ đi (left-over) từ giai đoạn đầu của quá trình biến hóa. Các ví dụ nổi tiếng bao gồm ruột dư hình giun và hạch hạnh nhân (tonsils). Wiedersheim và hầu hết các đồng nghiệp của ông không hiểu chức năng của các bộ phận này và từ đó, kết luận rằng chúng không có chức năng nào cả. Tuy nhiên trong khi đó, một nghiên cứu khoa học mới đây đã đạt được một kết luận khác. Như, đối với ruột dư, người ta đã tìm ra rằng nó thực sự có một chức năng trong hệ thống miễn dịch, đặc biệt trong những năm đầu tiên của sự sống chúng ta.
Một kết luận tương tự cũng đã đạt được liên quan đến hạch hạnh nhân, và đối với hầu hết các bộ phận khác, chức năng tính cũng đã được phát hiện cùng lúc. Tuy nhiên, ngay cả khi vẫn còn nhiều bộ phận mà chức năng chưa được biết đến, chúng ta vẫn sẽ không bao giờ được phép kết luận, từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta về chức năng sinh học, rằng không hề có chức năng. Điều này cũng sẽ là một sai lầm về luận lý học y hệt như sai lầm từng phạm đối với điều gọi là “DNA-đồ bỏ” (junk-DNA) trong nhiều năm qua.
Giờ đây, các bạn có lẽ sẽ hỏi: Nhưng còn những người Neanderthal thì sao? Há chúng ta đã không tìm thấy nhiều bằng chứng hóa thạch chứng minh rằng ngày xưa trên trái đất, đã từng xuất hiện vượn người vốn là tổ tiên của chúng ta đó sao?
Xin nói một cách ngắn gọn như thế này: mọi hóa thạch mà chúng ta đã tìm thấy, cuối cùng, kết cục đều hoặc là người trọn vẹn, như người Neanderthal và nhiều người khác, hoặc là khỉ hoàn toàn, như người vượn phương nam (Australopithecus). Các nhà cổ sinh vật học (palaeontologists) không tìm thấy bất cứ hóa thạch người vượn nào – điều này cho thấy những sinh vật này không bao giờ hiện hữu.
Các lý thuyết biến hóa dự đoán rằng mọi vật đều thay đổi từ ít phức tạp đến phức tạp hơn, từ không đầy đủ đến đầy đủ và chúng ta tìm thấy nhiều thất bại, nhiều chức năng bị mất, nhiều cấu trúc sai lầm và nhiều bộ phận chỉ mới hoàn thành một nửa, còn đang trong quá trình biến hóa. Tuy nhiên, tất cả các lĩnh vực nghiên cứu liên hệ, chẳng hạn như di truyền học, phôi thai học, giải phẫu học và cổ sinh vật học, xác nhận đi xác nhận lại rằng mọi loại tạo vật khác nhau đều đã bắt đầu sự hiện hữu của chúng như những vật đã hoàn hảo và được tạo hình đầy đủ rồi. Thật vậy, chúng ta không thấy bất cứ mắt, tai, chân, hoặc cánh nào chỉ hoàn thành một nửa cả trong thiên nhiên, lẫn trong hồ sơ hóa thạch và trong thế giới hiện nay. Nếu các bộ phận mới hoàn chỉnh một nửa này có bao giờ hiện hữu, thì phần nhiều trong số này hẳn phải sống sót cho đến ngày hôm nay. Vì theo định nghĩa, chúng khỏe mạnh (fit) hơn tổ tiên của chúng là những sinh vật không hề có bộ phận đó nhưng vẫn còn tồn tại tới bây giờ, như con bò sát không cánh mà người ta giả thiết sẽ biến thành một con chim hoặc một động vật có vú sống trên đất mà giả thiết cho rằng sẽ biến thành một con cá voi.
Hơn nữa, tất cả những thay đổi được chúng ta quan sát trong thiên nhiên không bao giờ là các quá trình gia tăng hay hoàn hảo mã di truyền nhưng luôn luôn là các quá trình làm mất và làm thoái hóa mã di truyền. Điều vừa nói chắc chắn hỗ trợ cho điều này: Ngay từ đầu, mọi vật hẳn phải hoàn hảo rồi chứ không phải ngược lại. Các nhà di truyền học quan sát thấy có sự tích tụ liên tục các đột biến có hại trong hệ gen của chúng ta, thay vì một sự hoàn thiện hóa liên tục hệ DNA của chúng ta. Sự quan sát này cần được mong đợi vì quy luật tự nhiên cơ bản nhất, luật gia tăng số lượng rối loạn trong một hệ thống (entropy), đòi điều này: mọi quá trình tự nhiên chỉ có thể tiến hành từ trật tự tới vô trật tự, chứ không bao giờ ngược lại. Cả các hệ thống gọi là hệ thống mở cũng không thể sản xuất tín liệu cơ cấu mới, không hề. Do đó, các quá trình được giả định như thay đổi chân thành cánh hoặc cơ thể khỉ thành cơ thể con người bằng cách đột biến và lựa chọn đều bị loại trừ bởi luật tự nhiên.
Tôi xin kết luận với một loại suy: người ta chắc chắn có thể thay đổi chiếc tủ lạnh thành máy truyền hình bởi nhiều bước nhỏ, thay thế một bộ phận điện hoặc cơ khí nhỏ bằng một bộ phận khác cho đến khi họ có được một máy truyền hình. Tuy nhiên, rất khó có chuyện mỗi một thay đổi nhỏ này để có được chiếc máy truyền hình sẽ dẫn đến môt chiếc tủ lạnh tốt hơn so với chiếc có trước nó hay so với chiếc nguyên thủy. Tuy nhiên, điều đó lại cần thiết để có biến hóa nhờ việc chọn lọc liên tục có thể có.
Để biết thêm tín liệu, các bạn có thể truy cập trang mạng www.originality-of-species.net.
Hugh Owen:
Như thế, thưa anh chị em bạn trẻ, như các bạn thấy, KHOA HỌC TỰ NHIÊN THỰC SỰ không hỗ trợ thần thoại học biến hóa vốn cho rằng cơ thể con người là kết quả của hàng trăm triệu năm các sai lầm di truyền! Nó xác nhận giáo huấn Công Giáo truyền thống về việc sáng tạo ra Ađam và Evà.
Có lẽ một số bạn sẽ nghĩ, “Vâng, nhưng có khác gì đâu?”
Tôi sẽ cho các bạn thấy: khác một trời một vực.
Đầu tiên, học thuyết này cho chúng ta biết rằng ngay từ đầu sáng thế, Thiên Chúa thực sự đã tạo ra MỘT người đàn ông cho MỘT người đàn bà SUỐT ĐỜI, giống như Chúa Giêsu đã dạy.
Vì vậy, chúng ta có thể chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ không chúc lành cho bất cứ sự thay đổi trong giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân thánh thiện, ly dị, tránh thai, hoặc luân lý tính dục.
Chúng ta có thể chắc chắn rằng hạnh phúc của các bạn và hạnh phúc của anh chị em các bạn trên toàn thế giới phụ thuộc vào việc BIẾT và TUÂN GIỮ giáo huấn này – ngay cả khi một số giáo sư và giáo viên trong các cơ sở Công Giáo của chúng ta muốn du nhập một điều gì mới lạ.
Lòng Chúa Thương Xót đòi chúng ta tin và loan truyền giáo huấn này cho toàn thế giới: ngay từ đầu sáng thế, Thiên Chúa đã tạo nên một người đàn ông cho một người đàn bà suốt đời.
Bằng lời nói và bằng đời sống của chúng ta, chúng ta phải nói với cả thế giới, nói to, nói rõ ràng rằng “Nếu bạn muốn được hạnh phúc, bạn phải theo kế hoạch của Thiên Chúa dành cho hôn nhân thánh thiện”.
Đó là Lòng Chúa Thương Xót.
Thánh Maximilian Kolbe, vị thánh vĩ đại của Auschwitz, hiểu và bảo vệ giáo lý này chống lại những người như Adolf Hitler và Josef Stalin, những người đã bỏ rơi các học thuyết Kitô giáo về sáng thế để đi theo thuyết biến hóa. Lời giảng dạy cuối cùng mà Thánh Maximilian trình bầy trước khi đi vào hầm bỏ đói ở Auschwitz chính là lời bảo vệ học thuyết đẹp đẽ này. Tôi xin chia sẻ nó với các bạn để kết thúc.
Như hầu hết các bạn đã biết, Mẹ Diễm Phúc của chúng ta đã đến thăm Lourdes ở miền Nam nước Pháp năm 1858 chính vào đêm trước khi xuất bản cuốn sách của Charles Darwin “Nguồn gốc các loài”, trong đó ông lập luận rằng con người đã biến hóa từ linh trưởng hạ nhân. Theo yêu cầu của cha xứ, Thánh Bernadette hỏi Đức Mẹ: “Ngài là ai?” Và Đức Mẹ đã trả lời:
“TA LÀ Đấng Vô Nhiễm Thai”.
Thánh Maximilian suy niệm những lời này trong nhiều thập niên và trước khi qua đời, ngài giải thích rằng: bằng những lời này, Mẹ Diễm Phúc của chúng ta bảo vệ giáo huấn Công Giáo truyền thống, vốn dạy rằng từ đầu của sáng thế, Thiên Chúa đã tạo nên MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG, cả xác lẫn hồn, cho MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ SUỐT ĐỜI và bác bỏ chủ trương của Darwin cho rằng nguồn gốc con người là loài khỉ.
Các bạn hãy nghe lời giải thích của ngài.
Thánh Maximilian giả thích “Ađam không được thụ thai trong tử cung của một người mẹ. Ông được tạo nên, cả cơ thể lẫn linh hồn “. Ngài nhận định: ” Evà cũng không được thụ thai trong tử cung của một người mẹ; bà được Thiên Chúa tạo ra bằng sương sườn của Ađam”.
Thánh Maximilian nói tiếp: “Ngôi vị Thiên Chúa của Chúa chúng ta không được thụ thai trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc. Là một Ngôi Thiên Chúa – Ngôi Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi – Người hiện hữu từ muôn thuở”.
Do đó, Thánh Maximilian kết luận, quả thật: Mẹ Diễm Phúc của chúng ta là Đấng DUY NHẤT VÔ NHIỄM THAI.
Nhưng, các bạn thấy đó, nếu điều gọi là biến hóa hữu thần mà đúng, thì Ađam hẳn đã được thụ thai trong tử cung của con linh trưởng hạ nhân; Evà cũng thế. Và nếu điều này đúng – vì các nhà duy biến hóa hữu thần hẳn chủ trương rằng Ađam và Evà khi được tạo ra không có tội – như thế, Đức Trinh Nữ Diễm Phúc có thể đã phải nói với Thánh Bernadette: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Thai Thứ Ba”.
Nhưng ngài đã không nói như thế.
Tại sao?
Vì Đức Trinh Nữ Diễm Phúc muốn nhắc nhở chúng ta rằng: từ đầu cuộc sáng thế, Thiên Chúa đã TẠO RA MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG (cả xác lẫn hồn) cho MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ (được tạo hình bằng sương sườn của ông) SUỐT ĐỜI.
Và đó là lý do tại sao Mẹ Diễm Phúc là ĐẤNG VÔ NHIỄM THAI ĐỘC NHẤT, MỘT VÀ CHỈ MỘT mà thôi.
Các bạn hãy sống, tiếp nhận và công bố sự thật trên bất cứ đi đâu, và các bạn sẽ là máng chuyển mạnh mẽ của Lòng Chúa Thương Xót!
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả các bạn!
(Vũ Văn An, 04.08.2016)