Ngày mùng 8 tháng 12 năm 2010 trong thánh lễ trọng thể mừng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Bổn Mạng Hoa Kỳ, tại đền thánh Đức Bà Cứu Giúp Champion, ĐC David Ricken, Giám Mục giáo phận Green Bay, đã đọc sắc lệnh chính thức chấp nhận các vụ Đức Mẹ hiện ra tại Champion trong tiểu bang Wiscousin bên Hoa Kỳ.
Green Bay là một thành phố nhỏ và Champion xưa kia là một khu phố ngoại ô. Hiện nay Champion là một thành phố nhỏ và Green Bay cũng nổi tiếng vì đội banh bầu dục Green Bay Packers.
ĐC Ricken khẳng định: “Với sự chắc chắn luân lý và dựa trên các điều luật của Giáo Hội, tôi tuyên bố rằng các biến cố, các vụ hiện ra và các diễn văn, mà bà Adele Brise đã nhận được trong tháng 10 năm 1859, có bản chất siêu nhiên, và với việc này tôi chấp nhận các vụ hiện ra này đáng tin cậy – cả khi không bắt buộc – đối với các kitô hữu”. Tuyên bố trên đây của ĐC David Ricken khiến cho đền thánh Đức Bà Cứu giúp Champion trở thành nơi đầu tiên tại Hoa Kỳ, tại đó các vụ hiện ra của Đức Mẹ được giáo quyền chính thức chấp nhận. Tưởng cũng nên biết rằng đã có rất nhiều vụ được cho là Đức Mẹ hiện ra tại Hoa Kỳ, nhưng không đích thực và không được giáo quyền chấp nhận: điển hình như các vụ hiện ra tại Necedah cũng trong tiểu bang Wiscousin, và tại Bayside ở New York.
Việc chấp thuận của giáo phận Green Bay đã được ĐGM giáo phận đưa ra sau một cuộc điều tra tỉ mỉ bắt đầu năm 2009 và kéo dài gần hai năm trời. Các tài liệu liên quan tới các vụ hiện ra này được đăng trên địa chỉ Website của giáo phận. Các tài liệu giải thích rằng chính Đức Giám Mục giáo phận, chứ không phải Toà Thánh hay Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, có trách nhiệm phán quyết tính cách đích thực của các vụ hiện ra trong giáo phận liên hệ. Thông cáo của ĐC Ricken cũng khẳng định rằng: “Không ai có thể làm chứng cho sự siêu nhiên. Giáo Hội phán xử dựa trên sự phù hợp với Thánh Kinh, với Truyền Thống Thánh và các giáo huấn của Giáo Hội và với các lợi ích thiêng liêng nảy sinh trong cuộc sống của con người, bằng cách duyệt xét xem có điều gì đó trong cuộc sống của thị nhân chống lại tính cách đáng tin cậy của câu chuyện hay không”.
** Adele Brise sinh năm 1831 tại Dion le Val trong tỉnh Brabante, bên Bỉ, và là con gái của một gia đình nghèo di cư sang Hoa Kỳ. Cô bị mù một mắt vì một tai nạn khi còn bé. Vào đầu tháng 10 năm 1859 Adele Brise trông thấy Đức Mẹ lần đầu tiên: một phụ nữ trẻ mặc y phục trắng chói có một dây thắt lưng mầu vàng và trên đầu đội triều thiên có các sao. Thị kiến kéo dài một lúc rồi biến mất, và phụ nữ trẻ cũng không nói gì với chị Brise. Chúa Nhật tiếp theo đó ngày mùng 9 tháng 10 năm 1859 trong khi chị Adele Brise đi qua một cánh rừng để đến nhà thờ tham dự thánh lễ, thì phụ nữ ấy lại hiện ra. Cả hai lần chị đều sợ hãi bỏ chạy, mà không có can đảm nói chuyện với bà.
Sau thánh lễ chị Brise có dịp nói chuyện với linh mục giải tội của chị và kể cho cha nghe các lần hiện ra. Cha nói với chị rằng nếu đó là một nữ sứ giả của trời, thì chị sẽ còn trông thấy vị ấy nữa. Cha khích lệ chị nhân danh Thiên Chúa hỏi cho biết tên của bà là gì và bà muốn gì nơi chị. Khi chị đang trên đường trở về nhà tới đúng chỗ của hai lần trước, thì bà lại hiện ra lần thứ ba. Chị có can đảm làm như cha giải tội đã dặn, hỏi bà và bà trả lời: “Ta là Nữ Vương Thiên quốc, Đấng cầu nguyện cho ơn hoán cải của những người tội lỗi, và ta ước muốn rằng con cũng làm như vậy. Sáng nay con đã rước lễ và điều này tốt, nhưng con phải làm nhiều hơn nữa. Con hãy xưng tội chung, và dâng việc rước lễ cho sự hoán cải của những người tội lỗi. Nếu họ không trở lại và không sám hối, Con Ta sẽ bị bó buộc đánh phạt họ”.
Một trong các phụ nữ đi với chị Brise hỏi chị nói chuyện với ai mà đám họ không trông thấy người đó. Chị trả lời: “Các chị hãy quỳ xuống. Bà nói rằng Bà là Nữ Vương Thiên quốc”. Đức Mẹ hiền từ nhìn các phụ nữ và trả lời như Chúa Giêsu đã nói với tông đồ Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Và Đức Mẹ nói tiếp với chị: “Con làm gì mà nhàn rỗi ở đây, trong khi các bạn gái của con làm việc trong vườn nho của Con Ta”. Đức Mẹ ám chỉ các phụ nữ trong giáo xứ vùng Green Bay bắt đầu tụ họp lại với nhau để dậy giáo lý cho các trẻ em. Nhóm phụ nữ này sẽ là nhân tố của gia đình dòng tu tương lai.
Chị Brise trả lời: “Thưa Bà yêu dấu, con có thể làm gì khác?”. “Hãy tụ tập các con cái của xứ hoang dại này lại, và dậy chúng biết những gì cần phải biết để được cứu rỗi”. Chị Brise thưa: “Làm sao con có thể dậy dỗ chúng, nếu chính con cũng chỉ hiểu biết ít như vậy?” Đức Mẹ nói: “Con hãy dậy giáo lý cho chúng, như làm dấu thánh giá thế nào, và làm sao để đến lãnh nhận các Bí tích. Đó là điều Ta muốn con làm. Con hãy đi và đừng sợ hãi gì cả. Mẹ sẽ giúp con”.
** Các lời Đức Mẹ nói với chị Adele Brise tại Champion cũng nằm trong cùng chiều hướng của các cuộc hiện ra khác của Đức Mẹ được Giáo Hội thửa nhận. Chẳng hạn tại La Salette, nơi Đức Mẹ hiện ra và nhấn mạnh sự trừng phạt mà Con Mẹ sẽ bị bó buộc phải thi hành, nếu các kẻ tội lỗi không ăn năn hoán cải. Tại Fatima Đức Mẹ cũng xin ba trẻ mục đồng hy sinh hãm mình siêng năng lần hạt Mân Côi cầu nguyện cho ơn hoán cải của người tội lỗi. Như Đức Mẹ đã hiện ra tại Beauraing và tại Banneux bên Bỉ tại Champion Đức Mẹ cũng hiện ra với một thiếu nữ Bỉ và cho biết vương quyền của Mẹ. Nhưng tại Champion sứ mệnh Đức Mẹ giáo phó cho chị Adele Brise và các nữ tu là việc giáo dục công giáo. Đức Mẹ mời gọi chị và các bạn gái giáo dục “các con cái của xứ hoang dại này”. Giáo dục công giáo đã là một đề tài lớn của chuyến tông du Hoa Kỳ của ĐTC Biển Đức XVI hồi năm 2008. Quốc gia mới – trong nghĩa “hoang dại” của Hiệp Chủng quốc đã có thể được xây dựng chỉ nhờ vào việc giáo dục, mà các tín hữu công giáo đã góp phần định đoạt. Và Hoa Kỳ sẽ chỉ sống còn với việc giáo dục. Và như ĐTC Biển Đức XVI nói trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ: “Miễn là sự giáo dục này là công giáo, và có trọng tâm là giáo lý cũng như các Bí Tích”. Và đây chính là sứ điệp của Đức Bà Champion. Mọi sự khác chỉ là sự “nhàn rỗi” vô bổ.
Khi biết Đức Mẹ hiện ra với con gái mình, ông thân sinh của cô xây một nhà nguyện nhỏ tại nơi Đức Mẹ hiện ra. Chị Brise bắt đầu làm những gì Đức Mẹ nói, và đây là sứ mệnh chị đã cố gắng chu toàn cho tới chết vào năm 1896.
Chị Adele Brise kể lại các sự kiện này nhiều lần cho cô bạn tâm phúc là Pauline La Plante, sinh năm 1846 qua đời năm 1926. Cả hai sau đó thành lập gia đình các nữ tu Bay Settlement cùng với nhóm phụ nữ dậy giáo lý trong vùng Green Bay, chuyên giáo dục các trẻ em nói tiếng Pháp.
Green Bay là thành phố hiện có khoảng 120.000 dân cư nằm ở cửa sông Fox, cách thành phố Milwaukee 180 cây số và là thành phố lớn thứ ba của tiểu bang Wisconsin, sau Milwaukee và Madison. Nhưng nó là thành phố lớn nhất trên bờ phía tây của hồ Michigan. Green Bay được nhiều người biết đến vì có đội banh bầu dục Green Bay Packers. Tên gọi Green Bay bắt nguồn từ tên tiếng Pháp “La Baie verte”, do sự kiện nước ở đây mầu xanh rất đẹp.
** Lịch sử của Green Bay bắt đầu với ông Samuel de Champlain, là người thành lập nước Pháp mới bên Hoa Kỳ. Ông Champlain giao cho ông Jean Nicolet nhiệm vụ liên minh với các thổ dân Da đỏ phiá tây để tìm ra con lộ thương mại ngắn nhất buôn bán với Trung Hoa qua ngã Canada. Vì đây cũng là vùng đất rất phì nhiêu, có nhiều rừng và thú vật. Ông Nicolet đến đây vào mùa đông năm 1634 và đi thuyền ngược lên sông Ottawa qua hồ Nipisinggand xuống sông Pháp tới hồ Huron rồi qua Michilimackinác đền hồ Michigan, và cặp bến tại Red Banks, gần thành phố Green Bay hiện nay. Ông thành lập một cứ điểm thương mại nhỏ năm 1643 tại la Abaie des Puants tức Vịnh của những kẻ hôi thối. Đây là một trong những điểm định cư cổ xưa nhất của người Âu châu di cư sang Mỹ châu. Nhưng năm 1671 với cứ điểm truyền giáo của các tu sĩ dòng Tên nó mới thực sự chính thức trở thành nơi định cư của dân Âu châu. Khi tới đây ông Nicolet tiếp xúc với thổ dân Menominee, và cũng gặp người Ho-Chunk, hay người Winnebago, là một thổ dân nói tiếng Sioux. Ông sống với các thổ dân này khoảng một năm và trở thành đồng minh của họ. Ông giúp mở ra các cơ may buôn bán với họ trước khi trở về Quebec. Sau đó người Pháp tránh tới vùng này một thời gian, vì tình hình căng thẳng giữa các lực luợng khác nhau cho tới năm 1671 khi các tu sĩ dòng Tên đến mở cứ điềm truyền giáo tại Green Bay. Sau trận chiến 7 năm vùng này rơi vào vòng kiểm soát của người Anh năm 1761. Người đầu tiên từ Canada tới định cư ở đây là ông Charles de Langlade và gia đình năm 1765. Ông được gọi là người cha của tiểu bang Wisconsin. Tiếp theo đó có một số người Canada gốc Pháp, rồi Người Anh mới cũng như người Mỹ gốc phi châu tới định cư trong bang Wiscousin. Sau đó có thêm nhiều người di cư thuộc các nước âu châu khác như Bỉ, trong đó có gia đình của chị Adele Brise, người Đức, người Bắc Âu, Ailen và Hoà Lan.
Nhà nguyện hiện nay tại đền thánh Đức Bà Cứu Giúp Champion tại Green Bay đã được thánh hiến năm 1942, và do giáo phận trông coi. Dân chúng sùng kính Đức Mẹ tại đây từ khi Mẹ hiện ra với chị Adele Brise tháng 10 năm 1859.
Hơn 150 năm đã trôi qua nhưng sứ điệp giáo dục dạy giáo lý cho trẻ em và cầu nguyện cho kẻ tội lỗi mà Đức Mẹ giao cho chị Brise và dòng các “Nữ tu cứ điểm Bay” vẫn luôn luôn thời sự. Và nó càng thời sự hơn nữa trong bầu khí tục hóa duy vật vô thần thực tiễn của Hoa Kỳ và nhất là của các nước tây âu kitô hiện nay. Tái dậy giáo lý cho trẻ em và tái phúc âm hóa là một nhu cầu cấp thiết và là một thách đố trong lục địa âu châu già nua, hết nhựa sống, đã đánh mất đi và tệ hơn đã khước từ các căn cội kitô của mình..
LinhTiến Khải
(RadioVaticana 14.11.2017)