Giáo lý hôn nhân: Bản chất của hôn nhân Kitô giáo (Bài 3)

Trong đời sống hôn nhân, hai người nam và nữ hợp nhất với nhau kiến tạo mái ấm vững bền, đáp ứng cho nhau nhu cầu sinh lý trong yêu thương, từ đó sinh ra con cái. Họ lãnh nhận và đảm nhiệm vai trò giáo dục con cái. Quyền lập gia đình cũng như quyền bình đẳng giữa những người phối ngẫu là những quyền căn bản của con người.   

 

Từ khởi thuỷ sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên người nam (Ađam), và từ Ađam Thiên Chúa dựng nên người nữ (Eva). Người tác hợp họ nên một (x. St 2,25) và ban cho họ hạnh phúc Địa Đàng. Đây là cặp hôn nhân đầu tiên của lịch sử nhân loại. Như thế, hôn nhân là công trình yêu thương và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Do đó, bản chất của hôn nhân chính là tình yêu.

 

1. Tình Yêu là gì ?

 Tình yêu có một hấp lực quyến rũ kỳ diệu, chiếm vị trí tối quan trọng trong hướng sống của mỗi người cũng như của biết bao thế hệ nối tiếp nhau từ nguyên thủy sáng tạo đến nay.

 

 Là người, không thể nào không đặt vấn đề tình yêu. Nhưng tìm tình yêu ở đâu? Có nên đi tìm tình yêu với bất cứ giá nào? Có thể nào yêu mà không gặp thử thách hay ảo tưởng? Có khi nào sống tình yêu mà không biết mình đang yêu hay đã được yêu? Ở đây, ta chỉ đề cập đến tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng.

 

Khi nghe nói trai gái yêu nhau, mọi người đều coi đó là chuyện thường. Nhưng nếu tìm hiểu truyền thống dân tộc và đọc lại Thánh Kinh, ta mới thấy tình yêu nam nữ  có hai điểm nổi bật: Thứ nhất là quan niệm về yêu rất mới đối với truyền thống dân tộc. Thứ hai là Kinh thánh Cựu ước so sánh tình yêu hôn nhân như biểu tượng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với dân tuyển chọn (Israel); Tân Ước so sánh tình yêu phu thê với tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo hội.

 

2. Tình Yêu Trong Truyền Thống Dân tộc

 Truyền thống dân tộc chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa Trung Quốc mà nguồn gốc là Tam Giáo (Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo), qua những thuần phong mỹ tục như: thờ kính Tổ tiên, lễ nghi cưới hỏi, đạo nghĩa vợ chồng, con cái nối dõi tông đường…  

 

  Tư tưởng Khổng giáo, còn được gọi là Nho giáo, chú trọng vào nề nếp trật tự, xây dựng con người có trách nhiệm và giữ đạo đức trong gia đình và ngoài xã hội, có thể tóm lược vào bốn chữ “Ngũ luân, ngũ thường”, gọi là luân thường đạo lý. Ngũ luân là tình vua – tôi, tình cha – con, tình vợ  – chồng, tình anh –  em, tình bè – bạn. Ngũ thường là nhân – lễ – nghĩa – trí – tín. Khi con người biết tuân giữ đúng đắn những tương quan trên, ắt sẽ đạt tới hạnh phúc.

 

 Học thuyết Khổng giáo, theo Kinh Dịch, chủ trương trời đất do hai nguyên tố Âm – Dương tạo nên. Am-dương là đạo của trời đất, cương kỷ của vạn vật. Cho nên trai phải có vợ, gái phải có chồng, phối hợp âm dương mới có thể sinh trưởng được. Đó là lẽ tự nhiên của trời đất. Như vậy, vấn đề hôn nhân chỉ được nhìn dưới khía cạnh thiên nhiên như một hấp lực đực – cái, giống như các sinh vật khác, và không đặt vấn đề yêu đương. Người tuổi trẻ hôm nay khó chấp nhận một mẫu gia đình, trong đó người vợ phải chấp nhận chữ “tòng” chứ không được nghĩ đến chữ “yêu”.

 

 Lão Tử là người có tư tưởng phóng khoáng, thích sống đời ẩn dật, đơn giản và khiêm tốn. Tư tưởng của Lão Tử được ghi chép trong “Đạo Đức Kinh”. Chữ “đạo” của Lão Tử có rất nhiều nghĩa: vừa là nguyên thủy của vũ trụ, vừa là toàn thể vũ trụ, vừa là nguyên tố của vạn vật, vừa là con đường tu dẫn những người tu theo Đạo Giáo (cả nam lẫn nữ) tới nhịp chuyển vận của vũ trụ để được trường sinh bất tử trong “vô vi”. Lão Giáo không nói gì về hôn nhân và vợ chồng, không nói gì về vấn đề yêu đương. Lão giáo khuyên con người nên sống tiêu dao, dinh dưỡng thể xác và tâm hồn, càng hòa hợp với thiên nhiên bao nhiêu càng được hạnh phúc bấy nhiêu.

 

  Trong giáo lý Phật giáo, chữ tình được xếp vào Thập Nhị Nhân Duyên, là một trong mười hai sự ham muốn lôi cuốn con người vào vòng luân hồi nghiệp chướng : Tu là cõi phúc, tình là dây oan. Tình là dây oan, vì tình là một ham muốn mãnh liệt trói buộc con người vào đau khổ như sợi dây oan nghiệt. Tu là cõi phúc vì chỉ có con đường xa lánh trần tục, vui với câu kinh tiếng kệ nuôi tâm dưỡng tính, mới gỡ thoát khỏi dây oan nghiệt của chữ tình để tới cõi phúc Niết Bàn.

 

3. Tình Yêu Trong Thánh Kinh

TheoThánh Kinh, sống là yêu và yêu là tất cả. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,28), mà Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8). Vì thế con người được tạo dựng bởi và cho tình yêu. Yêu thương là căn tính của con người. Tin Mừng còn cho biết tình yêu gắn liền với thập giá, tình yêu mạnh hơn sự chết.  Thánh Kinh nói gì về tình yêu hôn nhân ?

 

 Sách Sáng Thế thuật lại ngay từ khởi nguyên sáng tạo, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ giống hình ảnh Thiên Chúa và Người đã chúc phúc cho sự phối hợp vợ chồng tiên khởi này. Do đó người nam từ bỏ cha mẹ, lưu luyến người nữ và cả hai trở thành “một thân thể” (St 1-2). Nhiều ngôn sứ (Hs 1,2; Gr 18,1;        Is 1,21; Ed 16.23… ) khi đề cập tới mối liên quan giữa Thiên Chúa và Dân Israel đã sử dụng hình ảnh tình yêu nam nữ. Thiên Chúa như người chồng chung thuỷ, trong khi đó Israel, dân tuyển chọn, như người vợ bất trung, phản bội chạy theo tình lang. Dù vậy, tình của Thiên Chúa cũng không dập tắt vì Người yêu đến cùng.

 

 Khi nói đến tình yêu nam nữ trong Cựu Ước không thể nào không nói tới sách Diễm Ca (Cantique des Cantiques) một bài ca  nói về tình yêu nam nữ thắm thiết và chung thủy. Đây là một quyển thơ ngụ ngôn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Israel giống như tình yêu nam nữ.

 

 Theo Tân Ước, tình yêu nam nữ chỉ tìm thấy toàn vẹn ý nghĩa khi trở thành tình yêu vợ chồng qua bí tích Hôn phối. Thánh Phaolô so sánh tình yêu vợ chồng với tình của Chúa Kitô đối với Giáo hội. Tình yêu vợ chồng mà thường tình cho là trần tục, trở thành“mầu nhiệm vĩ đại” (Ep 5,32) vì được coi như mối tình mầu nhiệm không bao giờ phai, kéo dài vô tận trong thời gian, của “Thiên Chúa làm người” kết hợp với “nhiệm thể” của mình là Giáo hội (Ep 5, 23-25).

Nhiều lần Chúa Giêsu đã ví Nước Trời như một tiệc cưới và tự ví mình như chàng rể (Mt 9,15; 22,1-14; 25,1-13; Ga 3,29).

 

Chúa Kitô đã dạy về tình chung thủy gắn bó, không có gì có thể phân chia tình vợ chồng trong hôn nhân : “Vợ chồng không còn là hai mà là một. Những người Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Giáo huấn này không phải dễ hiểu và dễ chấp nhận. Chính những môn đệ của Chúa Kitô cũng đã thốt lên: “Nếu số phận của người nam phải đối xử với vợ như vậy, thà đừng kết hôn còn hơn”. Và Chúa Kitô đã trả lời: “Không phải ai cũng hiểu được. Chỉ có kẻ Chúa cho hiểu mới hiểu” (Mt 19,10-11).

 

Tình yêu nam nữ  và vợ chồng bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Đó cũng là con đường dẫn tới Thiên Chúa, dẫn tới cõi phúc. Thiên ý mong muốn con người bắt đầu được hưởng cõi phúc ngay tại đời này qua kiếp sống phu thê và sẽ còn nối tiếp đời đời trong tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa là như vậy. Con người lấy gì để đền đáp lại? Chỉ có tình yêu mới đền đáp được tình yêu.

 

4. Tình yêu hôn nhân 

 Tình yêu liên kết hai người, tình yêu tạo cảm thông và thúc đẩy hai người hy sinh xây dựng hạnh phúc cho nhau. Chỉ có một tình yêu đích thực mới có thể đáp ứng được những yêu cầu đó. Tình yêu đích thực không phải chỉ là tình cảm, lời nói, sự âu yếm, sự say mê nét đẹp duyên dáng thể xác… nhưng là sự đón nhận với lòng kính trọng một con người để yêu và phục vụ vô điều kiện, để cùng nhau xây dựng hạnh phúc. Tình yêu như thế trưởng thành và vượt mọi giới hạn, khuyết điểm và khó khăn:

Yêu nhau trăm sự chẳng nề

Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng

 

Trong đời sống chung, tình yêu ấy thúc đẩy mỗi người giúp nhau phát triển. Người nữ phát triển lòng quảng đại, sự hy sinh, khả năng yêu thương và phục vụ. Người nam phát triển tài năng, tinh thần trách nhiệm, sự che chở bao bọc… Vậy tình yêu đích thực gồm những yếu tố nào ?

 

a. Hy sinh. Tình yêu hôn nhân đòi hỏi hy sinh cá tính, sở thích, quyền lợi riêng. Hy sinh bằng nhẫn nhục, tha thứ, bằng chiến thắng tính ích kỷ, bằng cho đi và phục vụ (x. Ga 15,13).

 

b.Chấp nhận và cộng tác xây dựng. Hạnh phúc là ân huệ Chúa ban nhưng qua sự chấp nhận và xây dựng của hai người. Không phiền trách và đổ lỗi cho nhau, cho số phận, nhưng cùng nhau bắt tay xây dựng, có khi từ số không. Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn

 

c.Tin nhau: Yêu nhau là phải tin nhau. Phải cương quyết loại bỏ những nghi ngờ, canh chừng, dò xét hoặc ghen bóng ghen gió. Những thái độ này có thể gây nên những hậu quả ngược lại: làm người bạn bực bội, xói mòn sự chung thủy và bền vững của hôn nhân. Thái độ tích cực nhất là tin nhau và làm mọi cách để phát triển lòng tin này : “Ơ đâu có tình yêu thì ở đó có lòng tin” (Gorky)

 

d.Chung thủy. Chung thủy có nghĩa là trước sau như một, không thay đổi. Đôi bạn hoàn toàn được tự do lựa chọn và quyết định, nhưng sự lựa chọn và quyết định này sau khi đã thực hiện hợp pháp sẽ không thể thay đổi trừ một trong hai người qua đời. Do đó, vợ chồng thuộc về nhau, có nghĩa vụ sống chung và yêu thương nhau suốt đời, trong mọi hoàn cảnh. Đây vừa là tình yêu vừa là bổn phận công bằng. Đặc tính này xuất phát từ ý định của Thiên Chúa và từ ý nghĩa mục đích của hôn nhân. Chúa Giêsu đã xác quyết: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6b). Tình yêu chung thủy đòi buộc vợ chồng:

– Chấp nhận yêu thương nhau trong mọi hoàn cảnh và yêu thương nhau đến mãn đời, không được dành tình cảm hay thể xác của mình cho người khác. Đặc tính này được gọi là vĩnh hôn.

– Không được tái hôn khi hôn nhân trước vẫn còn có giá trị. Do đó Hội Thánh không giải quyết ly dị như ngoài xã hội. Đặc tính này gọi là đơn hôn. Chỉ trong vài trường hợp rất đặc biệt, khi có lý do thích đáng, Hội Thánh cứu xét và quyết định theo Giáo luật.

 

5.Tình yêu và tính dục

Ngày xưa, do ảnh hưởng quan niệm triết học Hy lạp: tách biệt xác và hồn, coi khinh thể xác; nên đạo đức Kitô giáo coi vấn đề trai gái, tính dục như một chuyện cấm kỵ không nên nói đến. Ngày nay, người ta lại quá đề cao tính dục và chủ trương cuộc sống hưởng thụ ích kỷ và buông thả. Vì thế, cần nắm vững ý nghĩa giới tính, tình dục và tình yêu.

 

a.  Giới tính là toàn bộ những đặc điểm, tính cách, năng lực, bộ phận, nhờ đó ta phân biệt người nam và người nữ.

 

b.  Tính dục là việc sử dụng giới tính để tương giao, quan hệ nam nữ

 

c.   Tình dục là những cách thế mà người nam và nữ vận dụng giới tính để ước muốn kết hợp nên vợ chồng; nói cụ thể tình dục là quan hệ vợ chồng.

 

Giới tính, tính dục, tình dục, tình yêu… tất cả đều do Chúa ban nhắm mục đích tốt lành, hướng tới những lợi ích hôn nhân và phát triển đời sống gia đình. Nhưng một khi sử dụng giới tính để thoả mãn tò mò, đòi hỏi xác thịt, nghịch với mục đích Chúa muốn, thì đó là dâm dục. Kitô hữu cần nhận biết Chúa ban cho con người có giới tính để hấp dẫn, bổ sung, yêu thương nhau; cố gắng tự chủ bản thân, vận dụng giới tính theo mục đích Chúa muốn là trao đổi, hiệp thông trong tình yêu vị tha, chứ không bằng tình yêu vị kỷ là chỉ muốn tìm hưởng thụ khoái lạc nhục dục. Tính dục là để phục vụ tình yêu vị tha trong đời sống hôn nhân.

 

Còn tiếp……